Bài thuộc thể loại: Đọc và Đọc lại
ĐẶNG THƠ THƠ- RONG CHƠI NGOÀI THỜI GIAN, CÕI VẠN HOA CỦA SÁNG TẠO

Phải nói, để lọt được vào “phong khí” của Đặng Thơ Thơ không phải dễ, nếu kể lại rành mạch nó với tính cách học thuật thì không đúng hẳn, bởi cái hồn tinh túy, kỳ ảo của ẩn dụ có thể bạn sẽ bỏ qua, như tôi trong lần đọc đầu tiên, chỉ cảm nhận được hiện thực ấy trên một bề phẳng. Hơn nữa, nếu chỉ nghiêng về học thuật, bạn sẽ bối rối bởi cách Đặng Thơ Thơ phá vỡ những cảm nhận thông thường của suy tưởng và hành văn.
Tóc Sương Say Tàn

Bảo tàng về sự mất tích trong Ai là sự mở rộng của Phòng Triển Lãm Mùa Đông, người mẹ trong Ai là phần trưởng thành của nhân vật trong truyện “Mở Tương Lai” và hai mẹ con trong Ai là phiên bản hoàn hảo từ tùy bút “30/4 và Một Ngày Ở Phía Tương Lai.” Chỉ với một chữ Ai, Đặng Thơ Thơ đã suy tưởng được sự khủng hoảng giữa chủ thể và khách thể, chị khái quát và khái thác đến tận cùng…
Đọc AI, nghĩ một chữ Tình
Đọc AI là đọc một quyển từ điển về vô số vô cùng mất tích. Là một tập khảo luận công phu và giàu có về cuộc truy tìm, đáo hồi chỗ bản lại diện mục. Là một tập văn chương, sáng tác, với nghệ thuật đỉnh điểm, giàu mơ hoặc, mộng tưởng về sự còn mất trong nhân gian.
Đọc AI là dấn mình vào một cuộc gây cấn, đi tìm ý nghĩa của hiện hữu, tìm cái Ta đích thực trong những cái Ta phân mảnh. Với một cái Ta luôn rung chuyển, bị vỗ đập như rong biển bởi các tác động muôn đời được gọi là thế gian, tôi đọc AI với rất đỗi bàng hoàng.
NGUYỄN TIẾN ĐỨC. VÀ HÀNH TRANG ĐAM MÊ- TƯỞNG NIỆM NHÀ THƠ, NHÀ VĂN NGUYỄN TIẾN ĐỨC
tôi được nhà văn Đặng Thơ Thơ báo tin nhà thơ Nguyễn Tiến Đức đã ra đi. Buổi chiều và mặt đất như cùng gặp gỡ ở một điểm nghiêng rất buồn, với nhịp đập tim tôi. Đã đi xa hẳn rồi, một tài hoa trong dòng văn học hải ngoại. Nếu phải nói một đặc điểm của thơ văn cùa Nguyễn Tiến Đức, tôi chỉ dùng hai chữ Sáng Tạo, cả về mặt ngôn ngữ lẫn hình ảnh,
Thanh Tâm Tuyền (1936-2006) – kỳ iii (‘Cái Tôi ẩn mật…’ 1-2)

Tiểu luận này tập trung phân tích một vài khía cạnh nghệ thuật của thơ Thanh Tâm Tuyền, trên căn bản những bài thơ trong tập “Thơ Ở Đâu Xa”, những bài thơ, trong mắt nhìn của tôi, rất lạ và đẹp, của thời bị giam hãm của ông.
Thanh Tâm Tuyền (1936-2006) – kỳ ii [.4.5.]
Trong tình yêu riêng của mình, Thanh Tâm Tuyền đã sống và chết trong đời sống như thế, đã hạnh phúc và đớn đau như thế, nhưng người thi sĩ ấy không để tình yêu che mờ hết những rung động khác trong con người chàng. Thanh Tâm Tuyền đòi hỏi tự do. Tự do trong mọi thể thái của nó.
Thanh Tâm Tuyền (1936-2006) – Kỳ I [.1. 2. 3.]
![Thanh Tâm Tuyền (1936-2006) – Kỳ I [.1. 2. 3.] clip_image003_thumb.jpg](https://damau.org/wp-content/uploads/2024/01/clip_image003_thumb-80x80.jpg)
Thanh Tâm Tuyền đi vào đời sống với tất cả những say đắm, yêu thương, thơ dại và phẫn nộ chất chứa trong hồn ông. Bây giờ, Thanh Tâm Tuyền vẫn đang ở tại quê nhà, vẫn còn canh giữ cho ta những giấc mộng cũ, và những bài thơ của ông, lang thang ở những xó góc tối tăm nào đó của đời sống, của trí óc ta, thỉnh thoảng vẫn còn khua gõ những bước chân âm thầm trở về.
Mừng 100 tuổi nhà văn Doãn Quốc Sỹ, đọc lại ‘Đi!’ của Hồ Khanh

Đến năm 1980, ông được trả tự do nhờ sự can thiệp của nhiều tổ chức quốc tế. Trong thời gian chờ đợi được con gái là Doãn thị Ngọc Thanh bảo lãnh đi Úc, ông tiếp tục viết thêm nhiều tác phẩm nữa, trong đó có quyển “Đi!”, được ký với bút hiệu Hồ Khanh. Ông đã gửi tác phẩm này sang Pháp để xuất bản tại hải ngoại.
CUỐN SÁCH ĐẦU TIÊN

Ngày ấy tôi không hiểu được Thượng đế là vũ trụ, nhưng tôi quan tâm nhiều hơn đến những suy nghĩ về trần tục, những điển lễ của tha thứ, nỗi đam mê chết người của tình yêu, tội lỗi của chúng, sự cứu rỗi của chúng. Càng về sau tôi càng nhận ra khuôn mặt của xã hội Việt Nam trong cuốn sách ấy…
Hoàng Chính: Bây giờ người ta không nói (mà ói), không viết (mà giết) tiếng Việt!

Có hai hướng: hướng áp đặt của nhà cầm quyền và hướng tự phát của đám đông. Hướng áp đặt khởi đi từ những chính sách, những quy định, những luật lệ và dựa trên những cái gọi là “công trình nghiên cứu” của những tay như Bùi Hiền. Sách giáo khoa sẽ phải dạy loại tiếng Việt ấy, các văn kiện của hệ thống cầm quyền sẽ dùng loại “ngôn ngữ” ấy. Các thế hệ được (hay bị) đào tạo sau khi những quy định ấy được áp dụng sẽ thành một loại người Việt khác.
Viết ngắn về tác giả và tác phẩm: Phan Thị Trọng Tuyến và Hồng Đăng tại Amsterdam

Phan Thị Trọng Tuyến viết văn thoải mái, không gò bó, câu thúc, giòng văn tuôn tràn theo cảm hứng, với rất nhiều chi tiết và hình ảnh sống động xuất phát từ một thu nhặt tinh, nhạy từ đời sống. Giòng văn đó pha trộn nhiều cách diễn đạt khác nhau, vừa nghiêm túc lại vừa ngẫu hứng, vừa văn hoa lại vừa thông tục
CÔ MÙI CÒN KHÔNG

Cuốn Xóm Cầu Mới được ông xuất bản vào cuối đời, khi đã ở miền Nam, ngay trước cái chết, vì vậy sự phổ biến còn hạn chế, nhiều người không biết đến tác phẩm này. Thật tiếc. Theo tôi đó là một trong những cuốn tiểu thuyết lớn nhất của văn học Việt Nam, với bút pháp giàu suy tưởng, thơ mộng, nhiều câu văn đẹp tuyệt, xứng đáng là kết quả của tâm huyết của nhà tiểu thuyết.
Đọc trường ca ÂM TUYẾT ĐỎ THỜI GIAN

Âm Tuyết Đỏ Thời Gian là tập thơ thứ 12 và cũng là tập thơ cuối cùng của nhà thơ Nguyễn Lương Vỵ (1952-2021). Thi tập chỉ vỏn vẹn 140 trang, với 15 bài thơ ngắn và bài trường ca “Âm Tuyết Đỏ Thời Gian” dài 360 câu.
Nguyễn Viện, Tụng Ca Nhục Cảm

Là một câu thơ hay. “36 bài tụng ca nhục cảm” xuất hiện bất ngờ, không có một chỉ dấu nào trước đó cả, là một thành công mới, khác thường, của Nguyễn Viện, sau và bên cạnh những bài thơ sáng láng ý thức công dân của anh, tiếng nói chân thật và dũng mãnh trong một xã hội mê muội, chứa sự đề kháng đối với cái xấu xa tàn hủy.
Những Bất An của Hiện Thực: đọc văn chương (thiếu nhi) để đặt câu hỏi cho đời sống

Có độc giả nào, dù nhỏ tuổi, đã đọc một văn bản mà không suy nghĩ và chất vấn nội dung? Có truyện cổ tích hay sách thiếu nhi nào hoàn toàn nhẹ nhàng và ngăn nắp? Hay một truyện cổ tích/ tác phẩm thiếu nhi thường vừa là trái cấm vừa là sự cứu rỗi, bao hàm bóng tối, sự đe dọa của hủy diệt, nhưng cùng lúc dẫn độc giả trẻ đến một nhận thức mới? Ngay cả những truyện cổ tích có đoạn kết được coi là hậu thì khái niệm “hậu” được ai định nghĩa?
Hai hiện tượng văn học Mỹ, một bối cảnh kỳ thị chủng tộc

Trong văn học sử Hoa Kỳ có hai hiện tượng nổi bật với nhiều điểm giống nhau, đó là nữ văn sĩ Margaret Michell với cuốn “Gone With The Wind” (1936) và nữ văn sĩ Harper Lee, tác giả “To Kill A Mockingbird” (1960). Cả hai cuốn tiểu thuyết cùng có bối cảnh là miền Nam Hoa Kỳ, cùng khai thác đề tài xung đột chủng tộc (da trắng và da đen), cùng bán được mỗi cuốn hàng ba, bốn chục triệu ấn bản. Cả hai tác phẩm lại cùng được giải Pulitzer danh giá, đã được dịch ra nhiều thứ tiếng, và dựng thành phim rất thành công, chiếm được nhiều giải Oscar
The Grapes of Wrath, 80 năm sau

The Grapes xuất bản tháng Tư 1939, và bị cấm, bị đốt ở nhiều nơi, từ New York đến Illinois đến California, và bị lên án trong quốc hội Oklahoma. Mặt khác, tác giả bị cơ quan FBI điều tra, bị nghi ngờ là cộng sản, và có tin tổ chức Associated Farmers đe doạ hành hung ông. Khi bà Eleanor Roosevelt, phu nhân tổng thống F. D. Roosevelt, đến thăm trại tạm cư của công nhân di trú, bà nói rằng bà “không hề nghĩ The Grapes of Wrath là phóng đại.” Trong khi đó, The Grapes đoạt giải Pulitzer và là cuốn tiểu thuyết bán chạy nhất trong năm
Tướng không về hưu!

Tôi đọc “Tướng Về Hưu” lần đầu năm 1991, khi còn là nữ sinh trung học. Trước đó đã đọc Những ngọn gió Hua Tát, bị ám ảnh suốt nhiều tháng. Nên “Tướng Về Hưu” không làm tôi ngạc nhiên. Vì người đã viết “Những ngọn gió Hua Tát”, sẽ không bao giờ kể chuyện nhạt, chuyện thoảng qua, chuyện đọc rồi quên. Không ngạc nhiên nhưng tôi sốc trước cách kể đanh, lạnh, giống hạt nhân gai cứng nằm gọn giữa bột mềm nhân ái
Về một bài thơ của Nguyễn Đức Sơn

Một bài thơ của Nguyễn Đức Sơn được nhiều người nhắc nhở và xem nó là bài thơ viết cho Phùng Thăng: “Đêm thăm bạn sắp đẻ ở Di Linh”…
Có thật là nhà thơ đã làm bài này cho Phùng Thăng?
Cannery Row – những gợn sóng trên ghềnh đá

Là một trong những tác phẩm kinh điển của văn học Mỹ, Cannery Row kể câu chuyện tầm thường của những người tầm thường, không mang một đặc điểm thời sự lớn lao nào, không trực tiếp nêu lên một vấn đề vĩnh cửu nào, nhưng tác phẩm có thể lưu lại mãi trong lòng người đọc đồng cảm một dấu ấn
Thời tái chế, trải nghiệm cộng đồng
Tôi cho rằng tác giả khá thâm sâu khi loại bỏ tư cách chủ quan của văn bản, như tôi đã hơn một lần đề cập là sự tự thể hiện. Họ nói. Những người đã chết nói. Những người lính ở hai chiến tuyến nói. Những người nông dân, thợ thuyền nói. Nhân dân nói. Sự thật lịch sử ấu trĩ, tranh sáng tranh tối một thời được phơi bày mà không phải chối cãi.
Đọc sách: Of Mice and Men- Những toan tính của chuột và người

Câu chuyện xảy ra ở vùng đất mang tên Soledad, “cô đơn”. Nội dung chính của tác phẩm là nỗi cô đơn của con người, là ước mơ của những kẻ dưới đáy bậc thang xã hội. Ước mơ có một chốn cho riêng mình của George và Lennie, ước mơ được thu hoạch những gì do chính bàn tay mình làm ra
XUÂN QUỲNH, ĐÃ YÊN NGÀY THÁC LŨ

Ngôn ngữ thơ ngắn, tiết kiệm, như trong trường hợp Xuân Quỳnh, để hở ra, để dành lại những khoảng trống, gợi ý nhiều hơn là mô tả kỹ càng; chính người đọc lấp vào các khoảng trống ấy không những bằng tình yêu ngôn ngữ của mình mà còn bằng chính cuộc đời trải nghiệm, với khúc quanh hạnh phúc hay giây phút đau buồn của họ …
Ngu Yên Đọc “Giả Thiết Về Cánh Tay Phải Của Chúa Giê-Su”
Tôi đọc bài thơ này nhiều lần, mỗi lần thấy thêm nhiều chi tiết khác lạ. Một số hình ảnh cũ mờ đi, hình ảnh khác sáng lên, hoặc được thay thế bằng hình ảnh mới. Những hình ảnh lật qua lật lại rất nhanh giữa câu chuyện 2000 năm cũ và câu chuyện hiện tại đang xảy ra.
Rừng U Minh

Tôi mong là anh đã chết, như thế thì đỡ đau đớn cho anh hơn vì nếu sống sót cái “rừng U Minh ngập nước những ngày mưa” đó không bao giờ ra khỏi anh được.
Đọc thơ Xàm Cú của Nguyễn Viện
Chính thái độ diễu cợt, chế nhạo những định chế, trật tự, lý tưởng, đạo đức, giá trị… này đã thực sự làm nên “cái chất” đặc thù của văn chương Nguyễn Viện, một thứ văn chương bất tuân, bất kính và phạm thánh.
Về bài thơ Mong Mỏi của Nguyễn Đạt
Mong Mỏi có lẽ là một trong số rất ít những bài thơ với tư tưởng siêu hình được coi là thành công từ trước đến nay. Tính chất triết lý khô khan không dễ diễn đạt của đề tài luôn là một thách thức đối với người làm thơ khiến cho nhiều người e ngại đụng chạm đến nó.
Bài thơ ‘Qua Sông’ của Tô Thùy Yên

Tô Thùy Yên là một tên tuổi lớn trong thi ca Việt Nam. Thời chiến tranh, ông là người lính. Trong thời bình, ông là người tù. Đi lính, làm thơ lính. Đi tù, làm thơ tù.
Bình Luận mới