VỀ VĂN HỌC HẢI NGOẠI
1. Theo anh, có phải biến cố 30/4/1975 là nguyên nhân phát sinh ra Văn Học Hải Ngoại? Nếu có thể, mong anh nêu lên vài đặc tính của Văn Học Hải Ngoại.
Sinh ra ở thế hệ nào thì thuộc về chương sử của thế hệ đó. Tôi chào đời khi biến cố 30/4 đã qua 14 năm, chế độ Bao Cấp chấm dứt, đất nước chuyển mình theo xu thế hội nhập toàn cầu hóa, hai chữ Hải Ngoại lần đầu đến với tôi là qua chương trình băng đĩa Thúy Nga, loại đĩa in lậu mua ở vỉa hè, cắt xén vài ba tiết mục, hình ảnh rất mờ, xem đến lần thứ 5 là hình bị tắc, tiếng đi đằng tiếng người đi đằng người, tôi hỏi bố mấy người này là ai, sao không thấy trên ti vi, bố tôi bảo “Đây là chương trình ở Hải Ngoại!” Tôi hỏi tiếp “Hải Ngoại là gì ạ?” bố tôi tiếp “Là Việt Kiều, nôm na là người Việt sống ở nước ngoài, ông trẻ, em bà nội sống ở Canada cũng là Việt Kiều.” Khái niệm Hải Ngoại, với tôi khi đó là người Việt định cư ở nước ngoài, đến khi lớn lên, vào đại học thì được mở mang thêm hai chữ Văn Học qua tờ Hợp Lưu, ấn bản in thành sách gửi về nước. Sự kiện 30/4/1975 là nhân tố chính cho quá trình vượt biên, di dân sang xứ người, Văn Học Hải Ngoại có lẽ phát sinh khi người Việt đã tạo được một cộng đồng riêng, gồm những nhân vật đã thành danh trong văn học miền Nam, họ tụ họp lại vừa để tái thiết lập dòng chảy của văn học miền Nam vừa để bảo tồn ngôn ngữ và giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời đó là sân chơi cho các thế hệ tác giả vượt biên sau này. Đặc tính của Văn học Hải Ngoại, theo tôi, là tính chất lưu vong. Tác phẩm được viết ra bởi người Việt sống ở nước ngoài trong bối cảnh xa xứ, vọng cố hương, lại là những người bị mắc kẹt sau cuộc chiến tranh Việt Nam, ra đi tìm tự do nhưng là tìm sự yên ổn cho thân xác, còn tinh thần vẫn vụn vỡ, phải tha hương, lưu vong trên đất tự do. Do sống ở nước ngoài nên bắt buộc phải thông thạo ngoại ngữ, để có việc làm, để giao tiếp được với người bản địa, tiếng mẹ đẻ không dùng sẽ bị mai một nên việc xây dựng một lãnh địa tiếng Việt là giải pháp trừ đi nguy cơ mất giọng nói. Những khó khăn đầy mâu thuẫn giữa nơi để sống và nơi thuộc về đã thúc đẩy dòng chảy văn học biến thiên về đặc tố tha hương, lưu vong. Có thể nói tính chất hư vô mang đậm sắc hiện sinh ở văn học miền Nam trước 1975 đã rẽ thêm một nhánh khác, mở rộng biên độ từ số phận bị chiến tranh tàn phá vô nhân dạng thành số phận lưu đày thiếu quê hương.
2. Lấy tiêu chuẩn nào để xác định một tác giả hay một tác phẩm là thuộc về Văn Học Hải Ngoại? Địa lý? (trong/ngoài nước) Chính trị? (quốc gia/cộng sản/bất đồng chính kiến) Ngôn ngữ? Nơi xuất bản? Hay điều gì khác?
Tôi nghĩ, địa lý và tâm thế của nhà văn sẽ ứng với từng dòng văn học, bởi tác phẩm thì không có giới hạn, rào cản nào, môi trường sống của tác phẩm là toàn thế giới. Một cuốn sách hay, quy mô sẽ bao hàm góc nhìn chính trị, lịch sử, còn ngôn ngữ định danh cái tên của một dân tộc trên bản đồ thế giới, nơi xuất bản chỉ là địa chỉ in ấn, nơi bản thảo in thành sách gửi đến công chúng. Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hưng thuộc lớp văn học tiền chiến, dù ai trong số họ sang nước ngoài, viết sách thì đó vẫn là tác phẩm tiền chiến, văn học Hải Ngoại thành hình ở yếu tố di cư, vượt biên, nhìn lịch sử, đất nước trong tâm thế tha hương nên ở mặt nào đó những ai tham gia vào chuyến vượt biên rồi viết văn mới chỉ là ứng cử viên, chỉ khi họ viết được trạng thái lưu vong của bản thân vào tác phẩm và tác phẩm màn dấu ấn riêng thì mới được cho là nhà văn Hải Ngoại. Địa lý khiến nhà văn không thể tiếp cận được với cuộc sống trong nước, những gì biết chỉ là đọc, nghe thông tin trên báo, họ sẽ phải băn khoăn, suy nghĩ không biết hết chiến tranh thì miền Nam ra sao, miền Bắc thế nào, người này người kia ở đâu, làm gì để sống sót ở triều đại mới. Không có hiện thực mới, chưa thể hòa nhập được với đời sống nơi đất khách, chỉ khi ngẫm nhớ lại mới thấy quê hương, từ đó đản sinh ra sự cô đơn và cảm giác lưu vong là kết qủa của nỗi cô đơn buốt thịt, mà nỗi cô đơn nào thì cũng mong manh bây giờ sống ở đây nhưng mà mình sống bên lề. Cái sáng tác nó cần mình phải nhập cuộc thì mình mới có xúc cảm mà viết được nhiều. Ðàng này mình sống bên lề thì sáng tác nó nghèo đi, cho nên tôi viết những cái không phải là truyện nữa. Cái đó là tại hoàn cảnh mà thay đổi, chứ không phải là tôi chọn lựa, Võ Phiến nói vậy trong cuộc phỏng vấn ỏ đài phát thanh Australia ở South Melbourne, tiểu bang Victoria, Úc. Sau 1975, Võ Phiến sang Mỹ định cư, vẫn sáng tác nhưng tôi cho ông vẫn là nhà văn của văn học Miền Nam bởi từ Lại Thư Gửi Bạn cho đến Văn học miền Nam tổng quan đều là viết, viết thêm, tổng hợp lại những gì chưa xong ở giai đoạn trước. Trong loạt bài viết Văn học Hải Ngoại sau 1975, kỳ 14, Bùi Vĩnh Phúc nhận định về cách viết của Mai Thảo sau khi sang Mỹ định cư từ 1978 ông đưa được vào trong chúng những hoàn cảnh mới, những thái độ mới, những suy nghĩ mới. Còn về phong cách viết, xem như không có gì thay đổi. Có thể nói, thế hệ cốt lõi của văn học miền Nam khi sang nước ngoài thì cách viết vẫn vậy, thành ra Võ Phiến, Mai Thảo là nhà văn Hải Ngoại ở nghĩa đàn anh tinh thần, đến lứa thứ hai, từ Đỗ Kh, Trần Vũ , Lê Thị Thấm Vân… trở đi thì văn học Hải Ngoại mới mang một diện mạo mới, lối viết phá cách, chữ mạnh, bạo, lồng được ký ức trải nghiệm sống trong chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa với vấn đề người Việt nơi đất khách.
3. Xin anh cho nhận xét về sự khác biệt giữa Văn Học Miền Nam 1954-1975 và Văn Học Việt Nam Hải Ngoại?
Giai đoạn văn học 1954-1975 là nơi tinh hoa hội tụ, bởi sau 1954, người di cư vào Nam rất nhiều và họ là nhân tố thiết yếu tạo ra thành tựu 20 năm, văn có Mai Thảo, Võ Phiến, Doãn Quốc Sỹ, Dương Nghiễm Mậu, thơ có Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, nhạc có Phạm Duy, Trầm Tử Thiêng, họa có Tạ Tỵ, Đinh Cường, Lưu Công Nhân…Miền Nam đang trong thời binh biến nên chủ đề sáng tác luôn song hành với thời cuộc, mỗi người một phách, không khí văn học lúc nào cũng ngùn ngụt; ai chậm, lười viết, tác phẩm hụt tay liền trở thành cái bóng của đàn em, trường hợp Dương Nghiễm Mậu mới viết đã nổi danh và Nguyễn Thị Hoàng, Túy Hồng, Thụy Vũ, Trùng Dương, Nhã Ca tạo ra thế nữ kiệt lấn áp cánh mày râu là bảo chứng cho sự khắc nghiệt, đòi hỏi sáng tạo không ngừng của văn học miền Nam.
Văn Học Hải Ngoại hình thành sau, là sự tiếp nối ý chí của Văn học Miền Nam, có nhiều chủ đề, thể loại để viết, ngặt nỗi bài vở gom từ tứ xứ khắp năm châu nên số lượng bị hạn chế, chưa kể đến tư duy viết thay đổi tùy theo địa thế sống, môi trường sống của tác giả ở Mỹ khác với Pháp, Đức, Hong Kong. Nhà văn giống nhà báo ở chỗ luôn phải sát sao dân tình, khác là nhà báo tường thuật sự kiện còn nhà văn đi sâu vào sự kiện, lấy đó làm lợi thế phân tích, khảo nghiệm vấn đề của thời đại, việc không chạm được đời sống dân mình đã là một thiệt thòi bởi muốn hiểu văn hóa nước nào thì phải sống nửa đời, thậm chí cả đời ở đó từ cách ăn nói, dáng đi, phong tục cho đến lối nghĩ, nếp sống…Để khắc phục, bổ khuyết thì nhiều tác giả Hải Ngoại đi theo hướng cách tân hình thức viết, nội dung đẩy về sau làm nền cho cách thể nghiệm bút pháp, nhiều người cho đây là bút pháp hậu hiện đại, tân hình thức nhưng không phải, họ lấy kỹ thuật, hình thức viết để giấu đi tư tưởng, muốn hiểu thì phải bóc tách từng lớp như bóc vỏ trứng.
Giai đoạn nào cũng có sự nổi trội, khác biệt riêng chẳng cứ giai đoạn 20 năm miền Nam và Văn Học Hải Ngoại, chính sự lưu chuyển không ngừng đã tạo ra sức sống đa diện của văn học Việt.
4. Một tác giả trong nước cho rằng “thuật ngữ văn học hải ngoại cần trở thành một phạm trù lịch sử, và nên thay thế bằng “Văn học (VN) ở nước ngoài”. Tác giả này, cho rằng hai chữ “hải ngoại” (bên ngoài biển) mất đi cơ sở thực tại của nó, một là, nó không đủ sức bao gộp cả một cộng đồng văn học Việt Nam rộng lớn trên toàn cầu; hai là mạng lưới Internet đã xóa nhòa ranh giới trong và ngoài nước, và ba là, lịch sử đã sang trang, đất nước đã hòa hợp, vân vân. Một tác giả khác, cũng ở trong nước, cho rằng chỉ có “tác giả hải ngoại”, chứ không hề có “văn học hải ngoại”, vì thế, duy trì danh xưng “văn học hải ngoại” là một hành động có màu sắc chính trị. Xin anh cho ý kiến về đề nghị này.
Thứ nhất, hai chữ Hải Ngoại từng được Phan Bội Châu dùng khi viết Hải Ngoại Huyết Thư khi ông ở Nhật nên đây là chữ của tiền nhân. Thứ hai, trong ngần đó năm hoạt động, Văn Học Hải Ngoại đã có được danh xưng, tiếng vang, là một hình thái độc đáo của văn học Việt Nam ở ngoại quốc, cụm từ này đã thành lịch sử và lịch sử thì không thể tẩy xóa. Mạng lưới internet hỗ trợ để các tác giả trong và ngoài nước biết và đọc nhau, còn chủ trương hòa hợp, hòa giải thì đã tồn tại ở thời điểm văn học Hải Ngoại hôi hổi ở thế hệ thứ hai là Khánh Trường, Trần Vũ. Tháng 11 năm ngoái, tôi gặp nhà phê bình Thụy Khuê, bà kể về cái ách khi cộng tác với đài RFI “Lúc cô đọc, giới thiệu các tác giả trong nước, có rất nhiều người chửi bới, nào là hai mang, thân cộng, chỉ có ông Mai Thảo ủng hộ, ông bảo, không cần biết cô là Quốc Gia hay Cộng Sản, miễn là dám vì sự phát triển của văn nghệ mà làm thì ông sẽ giúp, ông cũng muốn cô giúp cho Khánh Trường, thời điểm Hợp Lưu còn non trẻ, thiếu thốn đủ điều từ kinh phí đến nhân lực.” Tinh thần hòa giải đã khởi từ Mai Thảo, lứa đầu đàn của Văn học miền Nam cũng là thế hệ đầu tiên của văn học Hải Ngoại. Rồi đến khi Khánh Trường xây dựng tờ Hợp Lưu thì đó là sự thừa kế, lập chí cho việc hòa hợp dân tộc thông qua văn nghệ, đấy là điều những người trong nước phải học hỏi. Bảo duy trì danh xưng là hành động chính trị là lối nói áp đặt mang tính chia rẽ cộng đồng, nếu thay thế Văn Học Hải Ngoại thành Văn Học Việt ở nước ngoài thì danh xưng Tự Lực Văn Đoàn, Nhân Văn Giai Phẩm cũng phải đổi thành văn học Việt trong nước, một ý tưởng tức cười.
6. Theo quan sát của anh, có sự giao thoa nào giữa Văn Học Hải Ngoại và văn học trong nước không, và sự giao thoa đó diễn ra như thế nào?
Sự ra đời của Tiền Vệ, Da Màu, Hợp Lưu chính là cầu nối cho sự giao thoa giữa hai dòng văn nghệ trong và ngoài nước, các trang mạng đó duyệt bài theo chất lượng chứ không giới hạn xuất thân, phe phái, miễn viết được, có giá trị là đăng. Lúc tôi là sinh viên năm hai đã được đàn anh khóa trên gợi ý gửi bài cho Hợp Lưu, trong ký túc xá đầy những số Hợp Lưu đăng bài các đàn anh, đàn chị, có người gửi cả lố, muốn đăng còn không được. Phan Huy Đường dịch các tác phẩm của Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh sang tiếng Pháp, lúc Nguyễn Huy Thiệp nổi tiếng thì tác giả ở Hải Ngoại cũng đọc, thỉnh thoảng tôi vẫn thấy các tuyển tập truyện Hải Ngoại ở các quầy sách cũ, không rõ được gửi về, in chui, in photo theo dạng sách đóng bìa hay thế nào…đó là sự giao thoa tất yếu phải có giữa người Việt, nghệ thuật kéo dân tộc ngồi lại với nhau, từ từ mà hàn gắn.
7. Theo anh, mỹ học của Văn Học Hải Ngoại có những đặc trưng nào nổi bật so với văn học trong nước? Có phải sự xa xứ đã tạo nên một nhãn quan thẩm mỹ khác biệt cho các tác giả?
Điểm nổi bật nhất của Văn Học Hải Ngoại là tự do tư tưởng, tác giả không cần tự biên tập lại mình trong quá trình viết lẫn khi xuất bản. Cái khó của văn học trong nước là nếu muốn in sách thì phải qua cửa kiểm duyệt, nếu thông được, tác phẩm thành hiện tượng thì ngoài sự công nhận thì phải đối mặt với những đồng đạo xấu tính, bới lá tìm sâu rồi xuyên tạc. Năm 1987, Nguyễn Huy Thiệp đăng truyện Tướng Về Hưu trên báo Văn Nghệ, trở thành hiện tượng, kéo theo bao phiền toái sau này, danh tiếng càng lên thì họa càng nhiều, có người đòi tử hình ông vì bôi nhọ Quang Trung. Tạ Duy Anh ra cuốn nào là bị bới móc, rồi đến Đỗ Hoàng Diệu (tập Bóng Đè), Nguyễn Ngọc Tư (Cánh Đồng Bất Tận) đã phải hứng biết bao gạch đá biết bao trận đòn thù từ những ngòi bút lấy chuyện đánh người làm cảm hứng viết. Những năm 1986 tình hình văn học trong nước rất hà khắc và quan liêu, vừa muốn Đổi Mới nhưng cái gì quá mới lạ quá mạnh bạo thì lại trái điều lệ, trái chủ trương của Đảng. Nhà văn phải bỏ chỗ này, cắt chỗ kia, sửa chỗ nọ để sách được in, ngoài việc né yếu tố chính trị còn mắc phải cái tròng thuần phong mỹ tục vốn rất mơ hồ và là con dao hai lưỡi biến một bản thảo lớn thành cuốn sách tồi.
Văn Học Hải Ngoại thừa tự do nhưng thiếu độc giả, Nguyễn Mộng Giác từng lo lắng việc Văn Học Hải Ngoại càng về sau càng thiếu độc giả, bởi thế hệ trẻ sinh ở nước ngoài không thạo tiếng Việt, lớp độc giả lớn tuổi rồi sẽ bỏ ngang vì tuổi tác, dù tác giả mới không ngừng xuất hiện nhưng thiếu độc giả thì sẽ không có sự cộng hưởng giữa viết và đọc. Văn học nội địa thừa độc giả nhưng việc trên đe dưới búa khiến những tác phẩm tốt, mang giá trị thời đại luôn ra đời chậm, tới lúc cấp phép thì đã lỗi thời. Tôi vẫn nghĩ, nước ta không thiếu nhân tài, chỉ là nhân không được dụng, tài không được trọng dẫn đến giai đoạn văn nghệ nào đang thịnh đều vì lý do gì đó chững lại, gián đoạn, rơi vào vùng khuất của quá khứ.
8. Anh nhìn nhận thế nào về vai trò khai phá những không gian nghệ thuật mới trong Văn Học Hải Ngoại – ví dụ như việc sử dụng ngôn ngữ pha trộn, cấu trúc kể chuyện phi tuyến tính, hay việc vượt qua những rào cản thể loại truyền thống?
Nhóm tác giả Hải Ngoại đời đầu chỉ viết thêm, viết nốt những gì còn dang dở ở thời của mình, nhóm tác giả đời thứ hai, thứ ba…có lợi thế về ngoại ngữ nên tiếp cận được nhiều hình thái cách tân nghệ thuật, do đọc thẳng từ nguồn nên hấp thụ được trọn vẹn chứ không phải qua ngôn ngữ trung gian, thứ khi truyền tải thành tiếng Việt đều mất đi ít nhiều giá trị gốc. Phi tuyến tính, hay dòng ý thức đã trong tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu rồi, thực ra phi tuyến tính đã có sẵn trong đời sống con người, ví như ta đang ngồi trên xe, nghĩ về cái gì đó rồi nhớ về một khảnh khắc xa hơn, xe dừng, ta thấy cái cây, tảng đá, bảng hiệu, chợt có âm thanh, mùi hương nào đó đánh thức một ký ức nằm bụi, rồi lại nhớ, lại nghĩ, cứ vậy dòng suy tư theo vào vô tận…vấn đề là mình viết ra sao và viết thế nào, dụng công thêm những gì cho một tác phẩm. Văn học ở ta trước đây có cái dở là luôn quy ước thể loại, vô tình làm mất đi độ mở của tác phẩm, như kiệt tác Faust của Goethe, vừa là thơ, vừa là truyện, vừa là ngụ ngôn gợi hứng từ kinh thánh. Thủ pháp đảo ngôn ngữ, pha trộn giọng kể và đa dạng chủ đề là ưu thế của tác giả Hải Ngoại nhưng đó cũng là chỗ nguy hiểm nếu nền tảng ngôn ngữ không đủ, bút pháp chưa cứng lại quá mải mê cách tân lạ hóa, dẫn tới tình trạng tác phẩm như một cuộc chơi văn bản, đọc vừa rối vừa mệt. Nhiều cây viết Hải Ngoại đã lâm vào tình trạng này, rồi người trong nước tưởng hay, bắt chước theo, hậu quả là sản sinh ra một lô một lốc những tác phẩm thảm họa được bịa, gán vào thể loại hậu hiện đại.
Để tránh trường hợp tác phẩm chỉ như một thử nghiệm thì mỗi tác giả cần phải vững nền tảng, viết về cấu trúc cần hiểu thật rõ kỹ thuật cấu trúc trong văn học, nhất là ngôn ngữ, không phải cứ đảo nghịch, lồng ghép, chơi chữ theo hướng nửa tây nửa ta, đánh đủ loại dấu như tranh- tạo hiệu ứng thị giác- là cách tân. Làm mới nghệ thuật cần mới ở tư duy, cách khai triển, như Proust, không cầu kỳ theo trường phái nào nhưng những gì ông viết tự khắc đã là một trường phái không ai theo kịp.
10. Liệu có những giới hạn nào trong việc thử nghiệm mà nhà văn hải ngoại cần cân nhắc, đặc biệt khi họ vẫn muốn giữ kết nối với độc giả và văn hóa gốc?
Cần nhất là sự tỉnh táo, không để mình sa đà vào thú thử nghiệm vốn mong manh, khi thế giới nảy ra một lối thử nghiệm mới thì hình thức viết được cho là mới trước đó liền bị đào thải, tôi cho đây là lối viết theo phong trào, chạy theo thị hiếu, sẽ không bền. Tác giả Hải Ngoại nào còn giữ được nền móng với dân tộc thì cứ bảo tồn rồi phát triển sâu và rộng thêm, với trường hợp tác giả sinh sau, không có liên hệ gì với dân tộc thì có thể tìm hiểu lại quê hương trong tư cách người khám phá lịch sử, cùng lúc vận dụng những trải nghiệm, tri thức mình có nhập với dấu ấn riêng để kiến tạo thành một sản phẩm mang dấu ấn riêng, đây là điều những nhà văn lớn vẫn mách nước cho thế hệ trẻ.
(còn tiếp)
hình ảnh: Amrita Sher-Gil, The Goose Girl, c. 1923. Source: Saffronart, New Delhi