Trang chính » Phiếm luận Email bài này

thầy

0 bình luận ♦ 10.06.2025

*

Đời người, có biết bao nhiêu thầy, vào mầm non là đã phải gọi thầy gọi cô. Thầy và cô đến rồi đi sau mỗi niên học. Vào đại học lại có thêm thầy mới và tất thảy những gì tôi liệt kê ở trên đều là những giáo viên hợp đồng. Phụ huynh đóng học phí để con đến trường, có thầy có lớp. Nhà trường trả lương cho giáo viên của trường, thuê thêm giáo viên giỏi ở ngoài. Mối quan hệ thầy trò liên kết qua bản hợp đồng dạy và học. Tôi vẫn nhớ và có thể kể tên những nhà giáo đã đi qua đời mình, kể đó rồi thôi. Thời xưa, ở ta ở tàu, muốn biết chữ, biết đạo của chữ phải bái đúng thầy. Lễ nhận sư chỉ một mâm hoa quả, xâu tiền mua giấy bút. Có nơi thầy không thu phí, có lòng thì cuối năm học trò biếu chút quà son. Học lễ trước rồi đến học chữ, cái nghĩa cái đạo của chữ của văn và của người. Đến thời vua Bảo Đại, không còn cảnh tầm sư học chữ nữa. Ai muốn học ở đâu, trường nào, thầy nào thì chỉ cần xin nhập học, đóng phí, gia cảnh tốt thì vào lớp tốt, thầy giỏi, bần hàn thì rớt vào trường tồi hoặc chỉ học xóa mù chữ rồi tự học. Thế hệ của tôi xét trường lớp qua học bạ, học bạ đẹp thì có vé vào trường chuyên lớp chọn, học bạ xấu, lem nhem lời phê phán, điểm số đội sổ thì vào trường tồi, đầy rẫy tệ nạn. Giáo viên chỉ nhớ cán sự lớp, những học trò nổi trội về điểm số hoặc những cá biệt gây ra đủ thứ chuyện dở khóc dở cười. Hiếm lắm mới có cái duyên thầy trò để đời như trong tự truyện Totto-chan, cô bé bên cửa sổ. Hồi bé, mỗi khi bố tôi thuê phim bộ về xem, ông hay phán nhân vật này, kia gặp phải thầy đểu, sau này sẽ gặp thầy giỏi dạy võ trả thù. Phim nào cũng thế, từ phim chuyển thể của Kim Dung, Lương Vũ Sinh cho đến những phim bộ mì ăn liền của TVB là bố tôi chỉ nhăm nhe cảnh nhân vật gặp nạn, bị truy sát, rơi xuống núi, ngã sông ngã biển là vỗ đùi hô cái duyên kỳ ngộ của nhân vật với một thế ngoại cao nhân. “Đời này, gặp được người thầy tử tế không sớm thì muộn cũng thành danh,” ông bảo vậy, và tuổi thơ của tôi vớ vào đó để đợi một người thầy sẽ giúp mình phát triển, đợi mãi, mòn mỏi đợi, đợi tháng đợi năm, đợi lớp học này đến lớp học khác, quan hệ thầy trò vẫn quẩn quanh ở việc nhớ mặt nhớ tên nhớ lỗi nhớ điểm.

Năm lớp 7, tiết văn do cô Ngọc đứng lớp. Vóc người cô đầy đặn, dáng thấp, tóc cắt ngắn, má trái có một vết nám kéo hết gò má. Đám bạn đứa hỗn hay gọi là cô mặt quỷ, tôi cũng gọi thế, mãi đến khi bố tôi nghe được, gầm gừ dọa đánh thì tôi mới thôi, gọi cô Ngọc. Nhớ lần học phụ đạo văn ở sau trường Trưng Vương trong cái ngõ dân cư, cô ra đề: viết lại truyện cậu bé tí hon theo ý mình. Dàn ý cô cho là những gạch đầu dòng về các cuộc gặp cùng dòng chữ nếu là em thì có suy nghĩ hành động gì? Lớp phụ đạo chia làm hai ca, Ca Sáng dành cho đám học sinh giỏi, khá và Ca Chiều dành cho phần còn lại, tôi được xếp học Ca Chiều. Cả đám ngồi bù tai óc, cắn bút nhìn nhau, riêng tôi hào hứng viết bừa phứa, nghĩ sao viết vậy, thêm thắt cái này cái kia. Cuối tiết, trả vở, cô Ngọc bảo “Đề này, các bạn ở Ca Sáng cũng chỉ biết kể lại, có xương mà thiếu hồn. Ca này có một số em làm cô bất ngờ, cứ mạnh dạn thế, cô tin ở các em.” Bài tôi, cô cho điểm 7 cùng lời tán khen sự tưởng tượng, lúc ra về, cô bảo tôi ở lại xóa bảng. Trước lúc xách túi về, cô Ngọc nói, “Điểm cao mấy cũng không quan trọng bằng việc thấy thế mạnh của mình.” Những đề văn nghiêng về suy diễn tùy ý cứ vậy làm khó đám khôi nguyên ở lớp, ở khối, còn tôi hí hửng cái thú viết theo ý mình, điểm văn cao đột biến gỡ lại mấy môn học tự nhiên nằm đội sổ. Con bé lớp trưởng, lớp phó học tập ôn văn rất kỹ, làm bài tập đầy đủ, học trước bài chưa dạy. Tôi cứ lêu lổng, bài văn chỉ đọc một lần, thậm chí sát giờ kiểm tra miệng, kiểm tra viết mới đọc cho biết. May sao đề cô Ngọc giao luôn nằm ngoài giáo án, tôi làm ngon ơ. Có bận, cô gọi tôi lên kiểm tra miệng, tôi múa lưỡi lau láu nhưng do chưa làm bài tập nên bị trừ 1 điểm còn 8, thằng cùng bàn bảo cô Ngọc quý tôi nên ưu ái. Cuối giờ, một đứa đến chỉ mặt tôi, nạt “Bà Ngọc toàn cho đề linh tinh nên mày mới được điểm cao.” Lên lớp 8, cô Ngọc không dạy lớp tôi nữa, niềm hứng thú mới ươm nhão ra bởi những bài giảng, những đề văn cứng nhắc như thây ma, điểm số tôi lại tụt, sỹ số 40 tôi đứng thứ 39. Bố mẹ tôi phải đến nhà cô giáo chủ nhiệm giúi để tôi không lưu ban. Vận số của tôi không rẽ nhánh sang nghiệp viết bởi cô Ngọc, cô chỉ là người gợi ý, truyền cảm hứng về cách tư duy độc tôn với văn bản, cô là người thầy đầu tiên trong đời tôi.

Tôi thi đại học theo nguyện vọng của gia đình, vào đại học để né nghĩa vụ quân sự, nơi sẽ khiến tôi thân tàn ma dại theo lời của bố. Tôi thi theo ý của ông rồi trúng tuyển. Vào đại học, nơi chốn được kháo đủ lời hay ý đẹp, từ thánh địa văn học, ngôi nhà văn chương, nơi Nguyễn Tuân từng đến… những lời hoa tiếng lá héo khô trong mắt tôi chỉ sau nửa năm học. Chẳng thế mà trong lần gặp đầu tiên với Tạ Duy Anh sau khi ra trường, ông luôn dè dặt thậm chí mỉa mai tôi bằng giai thoại chưa vào viết văn thì chẳng biết Nguyễn Du là ai, vào rồi chẳng coi Nguyễn Du ra gì, đời bác ăn dầm nằm dề ở đó, biết nhiều người như vậy, không biết lần này thế nào. Thực lực đánh giá bằng thành tích đăng báo thay vì điểm số, bởi đại học chỉ xét thi học phần qua môn, điểm số chỉ để xếp hạng chứng chỉ lấy bằng. Giảng viên nhìn sinh viên qua thành tích đăng báo, in sách, ai đăng nhiều, biết thời thế thì được đề cử đăng báo lớn, gặp những tai to mặt lớn nổi danh trong làng văn, từ đó mà có suất đi hội nghị viết văn trẻ, một tương lai rộng mở trước mắt. Tính tôi khinh khỉnh, ghét sự đon đả khúm núm nên tiếng to bằng trời mà không chạm được vào tim tôi thì cũng vứt. Cứ vậy, mãi đến khi gặp được người thầy thứ hai của đời trong ký túc xá sinh viên, một người đã chết cả trăm năm: Chekhov.

Tôi biết và đọc Chekhov, trước là qua chương trình Ngữ Văn lớp 11, bài Người Trong Bao. Thời điểm đó dù học ở lớp phân ban khối C, môn Văn chiếm ½ số tiết nhưng tôi vẫn ngại đọc, phần vì lối giảng dài dòng của giáo viên khiến chúng tôi ghi, chép mỏi nhừ tay, phần nữa, tôi thấy nhà văn Việt, ngoại trừ Nguyễn Tuân, Thạch Lam thì viết không hay, dù đó là Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyễn Trung Thành hay Nguyễn Minh Châu. Lối dụng văn của họ na ná nhau, đều là kể tả sao cho giống, xấu ra xấu đẹp ra đẹp, cốt truyện đơn điệu thiếu đột phá, xây dựng nhân vật theo hướng trung thành với tác giả. Cũng có thể do tôi hay đọc chui Cổ Long, Kim Dung, truyện tranh Phong Vân nên rất thú cái chất tưởng tượng không biên giới, gì cũng nghĩ cũng vẽ ra được, mà điều đó quá yếu ở nước ta. Đọc Chekhov, tôi bị thu hút ngay, lối dùng văn gọn, nhanh, dùng ít chữ mà hiệu quả, cách diễn văn chi tiết và tỉ mỉ, nhất là hình tượng Belicop bí hiểm cùng cái chết lạ lùng chỉ sau một cú ngã cầu thang và tràng cười như vỡ đất của người tình. Giáo án giảng dạy theo lối kết tội đầy kỳ thị, nào là Người Trong Bao lên án lối sống lập dị, co cụm không dám mở lòng, nào là những kẻ ton hót, chuyên mách lẻo sẽ không có bạn và chết dần trong sự xấu hổ. Sau bài giảng đó, lớp tôi hễ thấy đứa nào trầm tính, ít nói liền gọi là Belicop. Tôi cũng bị gán cho cái tên đó mỗi khi không nói chuyện với ai, cái từ “lập dị như Belicop” của cô giáo khiến lớp tôi hoạt náo hơn, từng đứa từng đứa vì ái ngại bị gán tên mà nhảy hết vào sổ đầu bài vì tội mất trật tự.

Năm 21 tuổi, tôi gặp lại Chekhov, bởi muốn tìm một giọng văn phù hợp để bắt chước. Số là, sau lần trả bài sáng tác định kỳ năm nhất đại học, khóa tôi rơi vào khủng hoảng, mấy ông thầy làm đòn phủ đầu, chấm và nhận xét thẳng tay chứ không nhân nhượng như lúc thi vào, hễ chịu viết, viết dài viết nhiều, được đăng báo tỉnh là đỗ. Hôm trả bài, ông thầy nhận xét từng người giữa lớp khiến lúc ra về mấy đứa con gái khóc vì bị chê nặng, bởi xấu hổ khi ông thầy rú lên là vứt hết, vứt cả, vứt, khai tử, vứt hết. Một đứa khóa tôi bù lu bù loa, bảo “Thôi, mai tớ về quê, không đi học nữa” khiến mấy bạn nữ phải ới các chị khóa trên xuống dỗ. Tôi và mấy đứa khác từng được mấy thầy tâng bốc cũng sốc nên tìm đến các đàn anh ưu tú của khoa xin kinh nghiệm. Một ông, hiện là thủ lĩnh của khoa, tốt tính nhắc nhở chúng tôi về việc đọc nhiều thôi chưa đủ bởi sáng tác khác với giảng dạy và phê bình, cần đọc đúng sách, tìm đúng tạng tác giả rồi bắt chước, luyện chán thì bỏ hết lối bắt chước thì mới ra cái văn của mình. Ông anh đưa cho tôi cuốn tuyển tập Nguyễn Huy Thiệp, nói “Hồi đó, anh bắt chước ông này.” Tôi mượn ông anh cuốn sách của Thiệp, về nhà lục tên ông anh để đọc, lối viết kiệm chữ, hội thoại nhanh, lâu lâu ném ra những triết luận lạ tai. Chính bản là chuyện nhóm lâm tặc thì phó bản là cảnh đào vàng, bản gốc là sự tan nát của gia đình ông tướng còn bản sinh viên năm cuối là chuyện đời dở dang, mẹ ung bướu, yêu người này ngủ với người kia, đâu cũng chỉ là mộng. Nghe lời ông anh nên tôi bạ đâu đọc đấy, càng đọc càng nhụt chí, bởi khiếm khuyết của tôi là ít đọc, thiếu nền tảng (nhà tôi không có sách, mấy ông bác, hoặc chỉ mua sách kiếm hiệp hoặc giữ sách như giữ mả tổ) thế mạnh là bốc phét chuyện đầu rơi máu chảy. Về điều này, tôi đã bị giáo vụ khoa cảnh cáo vì đó không phải văn chương. Một hôm, tôi vào ký túc xá, qua phòng một đàn anh, thấy cuốn truyện ngắn Chekhov trên bàn thì mới ngớ người, hồi học sinh mình mê văn Chekhov, bây giờ thì sao. Nghĩ vậy, tôi mượn ông anh cuốn sách. Hôm sau, ông gặp tôi đòi lại nên chiều tôi đem trả. Mãi đến tháng 2 tôi mới mua được sách bằng tiền lì xì. Đọc xong truyện nào, dòng nào của Chekhov là đầu tôi tòi ra một câu văn, một hình ảnh na ná trong sách, tôi bắt đầu bắt chước, từ cách dụng văn. Giai đoạn này, trong khóa tôi học chỉ có hai đứa luyện văn, tôi và thằng lớp trưởng. Tôi làm học trò Chekhov còn khứa kia thì bỏ làm thơ, viết văn nhái theo Haruki Murakami. Lần đọc lại này tôi mới thấy mọi lời giảng dạy trước đó đều sai bét. Người Trong Bao không phải sự lên án sự lập dị mà nhiều hơn thế, vừa là phận người tù mọt không hiểu được mình. Belicop là sự thoái hóa hiện sẵn trước mắt, còn những vai vế khác thì đang trong giai đoạn thoái hóa ngầm, chí khí bị bào mòn mà không nhận ra. Chekhov viết Người Trong Bao vào năm 1898, nhưng ông tiên cảm thấy một tương lai ảm đạm, ngột ngạt của nước Nga, trí thức thành bề tôi, ai nấy cũng là mật thám theo dõi, đấu tố nhau. Tôi gom hết mọi thứ mình được học được dạy thời học sinh đổ xuống bồn cầu, giật nước cho trôi hết. Từ đó, tôi sinh thói hoài nghi những lời hay ý đẹp của các giáo sư đầu ngành trên giảng đường. Tôi nghĩ theo cách mình đọc, không tin ai, thậm chí không tin mình, để rồi lần mò tìm một đáp án khác, chỗ nào bí quá mới tìm sách phê bình, khảo cứu tham khảo. Chekhov giai đoạn đầu viết những chuyện châm biếm gây cười, tôi không học được chất tiếu lâm của thầy nên chỉ cố gắng phác ra những chuyện đơn điệu, như đi chợ mua táo, có ông quan đang tuyên truyền, lúc về nhà gọt thì thấy táo có sâu, hay một ông đái bậy ở công viên, bị trật tự bắt, hạch sách đủ điều về mùi khai, làm chết cây, lúc trình giấy tờ, biết là quan lớn thì tay trật tự khen nước đái sẽ bồi dưỡng cho cây thành bóng mát… Chekhov có tài tả cảnh thì tôi cũng học nhưng không lại được thầy vì thầy là người Nga, tôi là người Việt, gia cảnh nhà tôi chỉ đủ ăn, không có điều kiện đi đây đó ngoài thiên nhiên nên cảnh thảo nguyên, đoàn tàu xuyên theo gió cùng mây kéo, rừng thông là sự đọc lại, tả lại chứ cảnh đường phố xô bồ, ầm ĩ toàn dây điện chằng theo lời tục cửa miệng ở Hà Nội không có gì hay để gửi vào trang giấy. Quá trình học tả cảnh dài mấy tháng trời với hàng tá bản thảo đều vứt hết. Giai đoạn thứ hai của Chekhov là những truyện dài và nặng, đọc dễ nhưng nhiều tầng nghĩa, phải đọc nhiều lần, như Người Trong Bao, Khóm Phúc Bồn Tử, Nhà Tu Hành Vận Đồ Đen và đỉnh cao là Thảo Nguyên và Phòng 6. Mỗi lần viết, bất kể đêm hay ngày, tôi đều đặt trên bàn cuốn Truyện Ngắn Chekhov, vừa để mở ra mò chữ mỗi lúc bí từ, vừa để răn mình phải nghiêm túc và khắt khe với trang giấy. Những hôm trì trạc đến mệt nhoài, muốn lười, tôi nghe đâu đó tiếng ho khan, dường như Chekhov đang quan sát tôi. Sau đó, tôi ngồi thẳng, lại viết, đầu rỗng không, ù đặc cũng phải cố, phải vặn, bóp nhàu não, rơi chữ nào hay chữ đó. Thời điểm này, ngoài Chekhov, tôi có đọc thêm Kafka và tìm lại thế mạnh mà mình cố chôn vùi khi bị giáo vụ phê phán. Tôi cũng đọc lại Nguyễn Huy Thiệp và thấy hiểu hơn, rồi đến Trần Vũ, Hồ Đình Nghiêm, Bảo Ninh, riêng Nguyễn Bình Phương thì bỏ ngang vì không hiểu, đọc tràn sang hổ lốn khắp văn học Châu Âu, Mỹ La Tinh, Columbia, đọc để lấy vốn, chất đầy túi học.

Năm 26 tuổi, Chekhov nhận được một lá thư, trong đó viết:

     Anh đã bộc lộ nhiều nét tài năng mang dấu ấn riêng của mình, anh đã có khả năng phân tích nội tâm rất sâu, có tài tả cảnh điêu luyện (như đoạn tả bão, tả tuyết, tả trời đêm trong truyện Agafya…) và có khả năng tạo hình. Chỉ với ba dòng mà hiện ra cả những đám mây kéo giăng đây trời, hoàng hôn trong như tàn lửa than sắp tắt…Qua đó, tôi tin rằng anh sẽ thuộc về số người viết được những tác phẩm nghệ thuật chân chính, tuyệt vời.

     Anh sẽ phạm phải một tội lớn về đạo đức nếu như anh không đáp ứng được sự chờ đợi ấy. Để làm được như vậy, anh phải biết quý trọng tài năng, vì không phải ai cũng có được điều ấy. Anh hãy bỏ cách làm việc nhanh chóng, vội vàng. Tôi không biết điều kiện sinh hoạt của anh như thế nào, nhưng nếu túng thiếu thì tốt hơn là cố chịu đói như hồi trẻ chúng tôi đã từng. Chứ đừng viết qua quýt. Hãy biết giữ gìn những ấn tượng của bản thân để thổi vào một sáng tác cẩn thận, kỹ càng, không chỉ viết trong lần ngồi một mạch bên bàn, mà phải được viết trong những giờ phút tâm trạng mình đang hạnh phúc.

Đấy là lá thư của Dmitry Grigorovich, một nhà văn nổi tiếng với hai tác phẩm để đời là The Village và Anton Goremyka. Chekhov hoàn toàn ngỡ ngàng và xúc động khi đọc lá thư, bởi gian đoạn này ngoài bạn bè và người nhà thì không ai chịu công nhận ông. Từ đó, Chekhov bỏ cách viết ngắn như Anh Béo, Anh Gầy, Cái Chết Của Một Viên Chức và bước vào hành trình lao khổ nghệ thuật. Di sản của ông là những tuyển tập truyện ngắn Chekhov với đủ thể loại ngắn dài với gần trăm truyện, bốn vở kịch. Tên ông trở thành huyền thoại của thể loại cách tân truyện ngắn. Sau này, tôi không còn muốn bắt chước Chekhov, bởi cách viết của tôi vốn đã không giống ông cũng chẳng giống ai kể từ sau truyện ngắn 10 Ngày Trong Bóng Tối[1] nên chỉ học ở ông sự cần cù, bền chí mỗi khi ngồi trên bàn viết. Nhìn đâu cũng phải ra cái gì đó, từ cái gạc tàn, cây đinh cắm trên tường lẫn những vóc người thoát ngang đường, nụ cười, tiếng thở than của cụ già bán xôi, đôi dép cọc cạch của thằng nhóc đưa sữa. Hai năm ròng, từ 2010 đến 2012, tôi đọc và viết, viết nhiều hơn đọc, hai ngày một truyện trên 6 trang và một ngày dăm truyện cực tiểu, thanh xuân của muôn người dâng hiến cho tình bạn, hơi thở say mềm của lứa đôi cùng những chuyến đi, tôi thì tế tuổi xuân cho những cuộc vặn bẻ sinh khí thâu đêm, viết hàng ngày hàng tuần và hàng giờ, viết như thói quen sinh hoạt. Trước lúc tốt nghiệp đại học, số truyện gom lại cũng gần trăm bài đều vào thùng rác hết. Tôi cũng gửi thư cho Gió Văn xin được gỡ toàn bộ bài đã đăng. Người chủ biên có vẻ buồn nhưng vẫn tôn trọng, làm theo lời khẩn cầu của tôi. Bài vở tôi giữ lại, tâm đắc chỉ có Đôi Mắt Màu Xanh Dương và Căn Phòng và Những Người Gù – phiên bản sơ khai kiểu dàn ý, được tôi sửa đi sửa lại mấy mươi lần. Đến năm 2017, tôi lại sửa, tái hoàn thiện in trong tập Trăng Tang. Phần còn lại thì tôi đem in ở tập Hóa Trang với mục đích xin việc nhưng không thành nên bỏ[2]. Bù lại, tôi gặp Tạ Duy Anh, giao hảo giữa tôi và ông cứ vậy bền bỉ qua mỗi lần bài vở.

Người đã chết cả trăm năm, linh hồn không vút lên thiên đường thì cũng luân hồi nhiều kiếp, người chết sao biết được cõi tạm, nữa là người Nga với người Việt, nhưng tôi vẫn nhận Chekhov là thầy như nhiều nhà văn đã chịu ảnh hưởng của ông như Bunin, James Joyce, Nabokov… Mọi đồ tôn của ông đều rẽ sang một nhánh khác, mỗi người một vẻ, đều là bậc chí tôn trong thời đại của họ. Tôi là một đứa học trò nhỏ của ông, là người Việt, quốc gia từng lầm than như cách Nga Hoàng bị suy đồi bởi Rasputin và tan nát trong tay Lenin, Stalin. Năm 1989, bức tường Berlin sụp đổ, khối Xã Hội Chủ Nghĩa Đông Âu tan rã, tôi ra đời và 21 năm sau tiếp nhận ảnh hưởng của Chekhov, lập chí văn chương. Chẳng cần sự giáp mặt hay bài giảng nào, mọi thứ đều nằm trong tác phẩm. Mỗi lần đọc và đọc lại thầy là mỗi lần nhìn và nghe thầy nói, chữ là lời và lời là hồn là phách của tác giả. Tôi học ở thầy cách hành văn chính xác, cách nhìn sự vật sự việc với đôi mắt buồn đầy trắc ẩn, nhưng mắt thầy nhân từ còn cõi lòng tôi u ám như đôi mắt cô độc của bầy sói. Tôi học ở thầy sự nghiêm túc, khắt khe với từng chữ, từng dấu chấm dấu phẩy. Văn thầy là những cái bắt mạch, thở than cho người Nga, còn văn tôi là con đường hiểm muôn lối rẽ, ở phố chỉ nghe tiếng khóc hàng cây, tiếng rên rỉ bầy chim bị tách đàn, nuôi nhốt bán  phóng sinh, tiếng mèo tiếng chó đau đáu trong lò mổ, vào rừng thì lạc vào cõi âm dương, ra biển thấy xác người căng trên buồm, lên núi văng vẳng tiếng đàn à ơi tiếng ru muôn đời[3]. Nước Việt tôi chịu lời nguyền phải buồn mãi ngàn năm, và tôi yêu cái buồn cái bi cái đau cắt thịt của người Việt và có lẽ thầy cũng thế, thầy yêu nước Nga và yêu đến đau lòng khi thấy dân tộc sa sút, hèn yếu và bạc nhược.

Viết văn, không để cầu danh cầu tài. Thiên phú nhà văn là sự nghiệt ngã của số phận, chỉ những ai dám gánh nghiệp thì mới thành nhà văn. Nghiệp của nhà văn là thấy và thấu được những đau đớn âm ỉ trong con người. Viết, vừa là sáng tạo vừa là nghi lễ rửa sạch con tim. Nghệ thuật không cứu đói cứu khổ thế nhân, nghệ thuật có chăng là phần tinh khôi đang dần bị lãng quên trong dân tộc. Nhà văn là chứng nhân, trách nhiệm của nhà văn là chấp bút để ánh nắng không bị mai một. Nếu sự nhố nhăng của thế quyền làm con người lìa xa nhau thì nghệ thuật là thứ hàn gắn người với người, bất kể màu da, quốc thổ, sắc tộc. Nghệ thuật kéo thời đại gần lại với nhau, người yêu người hơn.

5/2025

[1] đăng trên Gió Văn và được một người góp ý về sự giống nhau về ý tưởng, có đứa trong lớp nói tôi đạo nhái truyện dài 10 Đêm Mộng của Natsume Soeki, lúc đó tôi chưa đọc Soeki còn truyện của tác giả kia gửi tôi qua Lê Thị Huệ thì tôi có đọc và thấy sự tương đồng về ý tưởng nên viết thư xin Lê Thị Huệ để gỡ xuống, tôi cũng hủy bỏ truyện ngắn đó khỏi file máy tính.

[2] Tôi giữ lại ba truyện gồm Hóa Trang, Đôi Cánh (bản đầu là Mê Cung) và Tiếng Thở Dài cho đủ bài in cho tập Những Bình Minh, 2017.

[3] À à ơi! Tiếng ru muôn đời!-Lời bài hát Tình Ca của Phạm Duy.

bài đã đăng của Tru Sa

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)