Cuốn sách gồm 1274 trang, khổ 16x24cm, bìa cứng, giấy đẹp, tôi nhận được đã gần một tháng(2) nhưng đến nay mới đọc xong, dù chỉ là đọc lướt các vần từ C đến Y và đọc tương đối kỹ hai vần từ A đến B. Ngay khi mới cầm nó trên tay, tôi đã rất vui thích ở hình thức trang nhã, dày dặn, cách đóng sách chắc chắn để dùng lâu và dùng nhiều không hỏng, và cách trình bày đúng quy thức một bộ từ điển Việt ngữ, ngoại trừ một ít sơ suất không đáng có và cũng không nhiều – như trùng lặp (2 mục từ ào ào; 2 mục từ bá láp; 2 mục từ bập bùng và bập bừng); sắp xếp sai trật tự vần a, b, c (bé cái miệng phải đặt trên bé miệng; trong hai chữ bá láp một chữ đặt nhầm vào vần ba, chữ thả giàn đặt nhầm vào vần xả); viết chữ sai (từ bóng thiềm có chữ thiềm là con cóc viết thành thuyền); đôi khi có mục từ được ghi chữ “như” ở một từ đồng nghĩa, nhưng mở ra tìm, lại không thấy đâu cả (dứt dây động rừng: như bứt dây động rừng; tr.200)… – Càng đọc vào tôi càng phát hiện ra những điều cần đã được đáp ứng (chưa dám nói là đủ) ở một cuốn từ điển giải nghĩa tiếng Việt mà hai tác giả từng cất công đeo đuổi suốt nhiều năm. Không phải nhà ngôn ngữ học, nhưng để khỏi phụ lòng hai ông, dưới đây tôi xin nêu một vài ý kiến ban đầu, hay dở đều xin nói thẳng, hai ông cứ xem là cảm tưởng của một người không chuyên nói lên những gì mà sách làm khơi dậy sự “động não” của mình.
I.
Điều đầu tiên là sách có một Phàm lệ (bao hàm cả phần hướng dẫn về cách sử dụng sách và lời tri ân) sáng rõ, dễ hiểu và gọn gàng khiến ai đọc vào cũng hiểu ngay, không phải lật đi lật lại nhiều lần khi dùng từ điển. Kinh nghiệm cho biết, sách tra cứu càng phức tạp thì phàm lệ lại càng phải cố gắng đưa ra những quy tắc giản tiện đến hết mức có thể. Phải nói ra điều này vì tôi vốn quen thuộc với bộ Từ điển tiếng Việt của GS Hoàng Phê mà tôi coi là được biên soạn nghiêm túc và rất ít sai sót (tính đến bản in lần thứ 9, 2003(3)), nhưng mở đầu, ở phần giới thiệu Nội dung và cấu tạo của quyển từ điển (trong đó có những quy ước dành cho người đọc dùng để tra cứu) lại đề cập hơi sâu nhiều thuật ngữ chuyên môn khiến không nhớ hết được, đọc mấy rồi cũng quên, thành ra mỗi lần tra cứu cứ phải đọc lại (chỉ với hai dấu mở và đóng ngoặc kép mà phải tìm mãi mới ra đây là dùng cho các mục từ phiên âm tên nước ngoài có gạch nối). Cho nên, xin nhắc lại, với một Phàm lệ gọn và không có gì khó hiểu, sách của Lê Văn Thu và Nguyễn Hiền đã giúp bạn đọc tra cứu các mục từ theo chỉ dẫn một cách dễ dàng. Mặt khác cũng nhờ đó, muốn kiểm tra người biên soạn tuân thủ quy tắc mình đề ra đến mức nào, phần nào làm được và phần nào chưa làm được hay có gì vướng mắc, cũng không đến nỗi quá khó khăn. Khi dõi theo các vần từ đầu đến cuối sách mà không gặp một chỗ nào “gờn gợn” về tâm lý bởi cách diễn đạt có gửi ngầm vào đấy một đôi chút thiên kiến vùng miền, bất đồng về chính trị, trái khoáy về thể chế… dù là ở các mục từ có phần nhạy cảm, như ấp chiến lược, ấp tân sinh, bần cố nông, bắt rễ xâu chuỗi, du kích, dư luận viên, nhạc đỏ, việt kiều (từ kép Việt kiều theo tôi phải viết hoa chữ Việt vì đây là tiếng Việt), cho đến cả câu dẫn chứng: bộ óc của đảng là bộ chính trị (ở mục từ bộ óc)… thú thật một mối thiện cảm đã nảy ra trong tôi một cách tự nhiên. Thậm chí có mục từ lẽ ra còn nên viết trung tính (neutre) hơn thì hai ông hình như đã hơi nghiêng về phía “tả” trong trình bày, chẳng hạn mục từ bồi thẩm đoàn có mở ngoặc chú thêm: tại các nước tư bản – tôi nghĩ nên thay “các nước tư bản” bằng “các nước dân chủ phát triển” vì không phải nhờ vào “tư bản” mà chỉ có một “nền dân chủ đích thực” với “tam quyền phân lập” phân minh, mới dám lập ra “bồi thẩm đoàn” có thẩm quyền kết tội độc lập trong ngành tư pháp. Vân vân. Hiện tượng nhất quán đáng mừng này trong toàn cuốn từ điển chắc hẳn phải bắt nguồn từ nguyên tắc thứ nhất ghi ở Phàm lệ mà hai tác giả đã nêu lên như một kỳ vọng: “Muốn duy trì sự trong sáng của tiếng Việt, giúp giải phóng nó khỏi bóng tối của thành kiến chính trị và văn hóa” (tr.i). Liền đó, các ông lại viết tiếp một câu không phải bổ sung cho quy tắc mà là lược thuật một trải nghiệm nhằm dốc thêm bầu tâm sự: “Cũng có từ điển được biên soạn bởi người có định kiến chính trị phe phái quá sâu đậm nên rất nhiều từ đã được gán cho những nghĩa mà thật ra chúng không hề mang!” (tr.i). Trước những lời tâm huyết như thế thử hỏi ai có thể dửng dưng vô cảm được. Bởi vậy, không sợ mang tiếng thiên vị, tôi xin dùng kiểu nói thông dụng hiện nay để khái quát điều thu hoạch đầu tiên đối với cuốn sách: mọi mục từ trong sách đều được thu nạp và xử lý thông qua chỉ một thao tác mà người biên soạn coi là nền tảng – khách quan, khoa học. Xử lý đến đâu là chuyện sẽ bàn.
Cũng phải nói trong khi viết Phàm lệ, với những lĩnh vực không thuộc phạm vi
mình hiểu sâu, đôi khi hai tác giả có dùng những chữ chưa xác đáng, nhưng đó là khuyết điểm không ảnh hưởng đến phần chính ở sau. BS Trần Văn Tích đã dẫn ra chữ Lê Quý Đôn(4), tôi xin dẫn thêm vài chữ khác: Cung oán ngâm khúc và Chinh phụ ngâm khúc không phải là “truyện thơ” mà là “ngâm khúc” (tên thể loại cổ thường nằm ở phần cuối tên tác phẩm); Phan Trần nên để là “truyện thơ” hoặc “truyện nôm” mà không để là “truyện”, cho khỏi nhầm với truyện văn xuôi (như Truyền kỳ mạn lục); Trinh thử và Thạch Sanh Lý Thông cũng nên để là “truyện thơ” chứ không nên gọi là “truyện tích”, vì truyện thơ nào của chúng ta cũng xuất phát từ một tích mà diễn ra văn vần (và tên gọi Thạch Sanh Lý Thông thì nên gọi thống nhất là Thạch Sanh như cách gọi đã có lâu đời, đừng căn cứ vào một bản in dân gian nào đấy đổi tên đi khiến rơi vào tình trạng tên gọi không phổ dụng).
II.
Điều đáng nói thứ hai là đứng về tầm vóc, cuốn từ điển lần này đã bổ sung được nhiều mục từ so với không ít từ điển có trước. Hiện tôi đang có trong tay hai cuốn Từ điển tiếng Việt (2003, NXB Đà Nẵng) của Hoàng Phê [TĐHP] và Việt Nam tự điển (1970, NXB Khai Trí) của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ [TĐLVĐ&LNT]. Xin thử kiểm đếm ít nhiều từ ngữ bất kỳ của hai cuốn nói đây cùng với cuốn của hai tác giả [TĐLVT&NH] để xem số lượng giữa chúng chênh lệch thế nào. Tạm chọn ra 10 từ trong các vần từ A đến Y: ăn, chơi, giàu, kéo, làm, nghèo, nói, sử, trèo, xa và đếm những chuỗi từ kép đi theo các mục từ ấy.
Chỉ qua 10 từ chọn ngẫu nhiên, trong đó 9 là từ vựng tiếng Việt cơ bản và 1 là từ Hán Việt (sử), ta cũng thấy Từ điển Việt ngữ phổ thông của Lê Văn Thu và Nguyễn Hiền có số lượng từ ngữ vượt trội Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê. Còn so với Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ thì ít hơn, nhưng ít hơn không nhiều lắm, và cá biệt không phải không có “đảo nghịch”, như ở các từ ăn tỷ lệ 185/168, nghèo 19/12, trèo 6/4.
Hiện tượng hơn hay kém số lượng mục từ giữa ba bộ từ điển như vừa thống kê bắt nguồn chủ yếu từ hai lý do: khác biệt nhau giữa nguyên tắc lựa chọn mục từ và quan niệm thế nào là “mục từ” bao gồm cả từ đơn từ kép của từng nhóm tác giả. Nhất thời chưa thể kết luận quan niệm lý thuyết của nhóm nào đúng hơn vì còn phải soi vào lý thuyết hiện đại về “từ” và “ngữ” của ngành ngôn ngữ học. Mà kiểm tra thực tế để xem nhóm tác giả này tuân thủ lý thuyết nghiêm chỉnh đến đâu so với nhóm kia là điều phức tạp, bởi không một nhóm nào nêu tường tận trong sách. Chỉ riêng nguyên tắc lựa chọn, đọc phần Nội dung và cấu tạo của quyển từ điển in đầu từ điển Hoàng Phê, thấy sách này đặt mục tiêu thu thập khá rộng rãi; có 5 đối tượng từ ngữ khác nhau được nhắm đến: a. “từ ngữ thường dùng trên sách báo… và trong đời sống hằng ngày, phổ biến trong cả nước từ sau thập kỷ 20 của thế kỷ này”; b. “từ ngữ thường gặp trong các tác phẩm tiêu biểu”; c. “phương ngữ đã được dùng ít nhiều phổ biến”; d. “từ ngữ khoa học – kỹ thuật thường gặp trong các tài liệu phổ cập khoa học”; e. “thành ngữ thường dùng” (tr. XII). Về tiêu chuẩn định dạng thì ngoài “những đơn vị rõ ràng là từ” sách còn chọn thêm “những tổ hợp cố định thường dùng mà trong nhiều trường hợp khó xác định được là từ hay là ngữ, nhất là khi nghĩa của tổ hợp không phải chỉ là sự tổ hợp nghĩa của các thành tố” (tr. XII).
Dù sao, để đối chiếu làm ví dụ cụ thể một từ nói giữa hai sách Hoàng Phê và Lê Văn Thu – Nguyễn Hiền, chúng tôi vẫn bớt lại các phương ngữ, từ cổ và từ Hán Việt, là những phần rất dễ hai bên có cách xử lý còn bất nhất. Kết quả, những cụm từ đa âm tiết lấy nói làm gốc sau đây có mặt trong TĐLVT&NH mà không có mặt trong TĐHP lần in thứ 9: nói ấm ớ, nói ấp úng, nói ất giáp, nói ẩu, nói ba hoa, nói ba láp, nói bay bướm, nói bặm trợn, nói bập bẹ, nói bậy nói bạ, nói bô bô, nói bốc đồng, nói bỡn, nói bướng, nói cà rỡn (cà giỡn), nói càn, nói cạnh nói khóe, nói cầm chừng, nói câu giờ, nói chày nói cối, nói chặn, nói chen, nói cho ngay, nói chọc, nói chùng, nói dai, nói dại, nói dóc, nói dối, nói dông dài, nói dỡn, nói đẩy đưa, nói đoạn, nói đổng, nói đùa, nói đúng, nói gạt, nói gằn, nói gièm, nói giễu, nói gióng một, nói hớ, nói huỵch toẹt, nói khao khao, nói khẽ, nói khích, nói khó, nói khóe, nói không, nói khống, nói khơi khơi, nói khuếch nói khoác, nói lải nhải, nói lảm nhảm, nói lẩm bẩm, nói lẫn, nói lấp lửng, nói lấy được, nói lẫy, nói leo lẻo, nói léo nhéo, nói léo xéo, nói lép bép, nói lí nhí, nói liến, nói liều, nói líu tíu, nói lòng vòng, nói lớn lối, nói lúng búng, nói lưu loát, nói lý sự, nói mãi, nói mỉa, nói miệng, nói móc họng, nói một đàng làm một nẻo, nói nặng nói nhẹ, nói ngọng, nói ngọng nói nghịu, nói ngược, nói nhát gừng, nói nhỏ nhẻ, nói nhỏ nhẹ, nói như pháo nổ, nói như tát nước vào mặt, nói như vẹt, nói phải tội, nói phỉnh, nói phiên phiến, nói oan, nói ỡm ờ, nói qua, nói quá, nói quanh nói co, nói quấy, nói quấy nói quá, nói ra rả, nói ra nói vào, nói rỉa, nói rổn rảng, nói rộng ra, nói sa sả, nói sai, nói sau lưng, nói sẽ, nói sướng miệng, nói tách bạch, nói thao thao, nói thầm thì, nói thật, nói thêm, nói thiệt, nói tía lia, nói to, nói trắng, nói trộm, nói trời nói đất, nói trúng, nói trước quên sau, nói ú ớ, nói vanh vách, nói vặc, nói vậy chớ không phải vậy, nói ví von, nói võ vẽ, nói vói, nói vòng vo, nói vơ, nói vu vơ, nói vung, nói vuốt đuôi, nói xa xôi, nói xa nói gần, nói xàm, nói xạo, nói xằng, nói xẵng, nói xấc, nói xấu, nói xen, nói xéo, nói xỏ, nói xóc, nói xóc óc, nói xoen xoét.
146 đơn vị tất cả. Có thể rồi đây, một sự quy nạp chặt chẽ nhất nội hàm thuật ngữ “từ kép” hoặc “tổ hợp ngữ cố định” bắt buộc sẽ phải loại bớt đi một số (chẳng hạn các tổ hợp “nói đúng” / “nói sai” / “nói rộng ra” / “nói một đàng làm một nẻo” / “nói vậy chớ không phải vậy” đem vào tra cứu là không thỏa đáng vì tự thân chúng có biến đổi trong hành trình giao tiếp: chỉ cần thay “nói” một cách ngẫu nhiên bằng các động từ khác: nhìn, thấy, đọc, nghĩ, xét, chọn, làm… lập tức đã sản sinh nhiều tổ hợp mới tương đương, đồng nghĩa hoặc cận nghĩa – “thấy đúng”, “đọc đúng”, “nghĩ đúng”, “chọn đúng”, “thấy sai”, “nghĩ sai” “làm sai”, “nhìn rộng ra”, “xét rộng ra”, “nghĩ rộng ra”, “chọn rộng ra”, “làm một đàng nói một nẻo”, “thấy một đàng làm một nẻo”, “nghĩ một đàng làm một nẻo”, “ngó vậy chớ không phải vậy”, “biết vậy chớ không phải vậy”, vân vân – Chẳng lẽ kết hợp nào cũng đều là từ kép cần đưa vào từ điển cả?). Nhưng dẫu thế đi nữa thì số còn giữ lại được trong 146 đơn vị đã liệt kê ở trên vẫn không ít chút nào. Phải thừa nhận hai tác giả đã có công làm sống dậy một khối lượng đáng kể những từ ngữ vốn đang trong chiều hướng dần dần bị lãng quên, nhằm đưa chúng trở lại góp mặt vào cách ăn nói đa dạng của người Việt tứ xứ, giúp cho công cuộc giao lưu ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam đang cư ngụ trên nhiều địa bàn khác nhau, cả trong nước và hải ngoại, thêm phần phong phú năng động hơn. Đóng góp này của Từ điển Việt ngữ phổ thông 2023 là không hề nhỏ.
III.
Nói đến một cuốn từ điển ngôn ngữ không thể không nói đến tiêu chí về chính tả. Chính tả là mặt thứ hai không tách rời khối lượng từ vựng được trình bày trong một từ điển phổ thông. Trong tiếng Việt, sự lẫn lộn phát âm thường gặp trước nay ở những khu vực dân cư Bắc, Trung, Nam mà ta có thể quy kết vào mấy nhóm có tính chất tiêu biểu (tiêu biểu chứ không bao quát hết). Miền Bắc, chủ yếu nhầm lẫn 4 nhóm phụ âm đầu: s – x / tr – ch / d – gi – r / l – n. Miền Trung, có một nhóm phụ âm đầu nh – d hay gi / và hai nhóm phụ âm cuối c – t / n – ng, và còn nhầm lẫn các dấu hỏi – ngã / hỏi – nặng. Miền Nam, nặng nhất là hai nhóm v – d / h – gu/o và cũng có cả hai nhóm phụ âm cuối n – ng / c – t.
Phát âm theo giọng địa phương là điều không khó gặp ở nhiều người, kể cả người có học, việc ấy thuộc quyền cá nhân, không có gì sai; nhưng khi đã vượt qua bậc học phổ thông trung học thì ít người còn viết sai chính tả (nhất là sai n / l là không thể chấp nhận), ngoại trừ ba trường hợp đặc biệt: s – x / d – gi – r / ch – tr vẫn tồn tại dai dẳng và không chỉ riêng miền Bắc mà trên khắp cả ba miền. Các nhà từ điển học đôi khi cũng vướng phải ba cặp con chữ này. Nói không quá, không một người Việt học thức nào tự tin đến mức dám chắc bản thân chưa từng một lần phải ngập ngừng phân vân, kể cả lúng túng, trước một từ ngữ thuộc loại s hay x, d hay gi, tr hay ch(5). Thế mà, điều đáng ngạc nhiên là Từ điển Việt ngữ phổ thông đã gần như “bước qua” một cách suôn sẻ, có vấp váp chút ít cũng không đáng kể. Khẳng định của chúng tôi khuôn trong phạm vi phần mục từ (chứ không phải trong toàn bộ từ ngữ tiếng Việt được dùng trong cuốn từ điển mà chúng tôi sẽ nói tiếp ở dưới) quan sát được qua theo dõi 6 vần S, X, D, R, CH, TR ứng với ba trường hợp đặc biệt đã nêu (s hay x / d, r hay gi / ch hay tr). Tổng cộng 6 vần gồm 274 trang, đếm được 12015 mục từ(6). Hãy loại ra không tính những phương ngữ và từ cổ hiện chưa bắt gặp một lần trên báo chí sách vở ngoài cuốn sách của hai ông, muốn biết viết đúng hay viết sai không tìm ra “tiêu bản” để so sánh(7). Số mục từ thực sự không đúng chính tả trong 6 vần chỉ đếm trên đầu ngón tay: “chần dần”, “rấn bước”, “rấn sức” “ròm rõ”/ “ròm rõi”, “sà lim”, “sì mũi”, “sọc sạch”, “sơ múi”, “đánh bỏ sừ”, “sái thuốc phiện” (viết đúng là chần vần, dấn bước, dấn thân, dấn sức, dòm dỏ/dòm dõi, xà lim, xì mũi, xọc xạch, xơ múi, đánh bỏ xừ, xái thuốc phiện). Đúng 10 từ tất cả.
Cũng không cần thiết trưng dẫn hết thảy số mục từ các ông đã viết đúng. Chỉ nêu lên một vài bằng cứ, đáng đề cập vì tìm thấy ngay ví dụ đối chứng trên sách vở báo chí hiện thời, không kể trong nước hay ngoài nước. Tất nhiên “tìm thấy ngay” không có nghĩa là tìm được nhiều. Trái lại, rất ít. Tuyệt đại đa số đều đã viết như hai ông. Số ít ỏi tìm thấy này chỉ chứng tỏ một vài “cái xương hóc” trong chính tả tiếng Việt vẫn đang còn rơi rớt, hoặc ghim vào tiềm thức quá sâu, muốn “gỡ” ra, có lẽ nên bàn giải ngọn ngành để cùng nhau đồng thuận chỉnh sửa.
– Hai ông viết dòng (dòng chảy, dòng lệ, dòng giống, dòng dõi – tr.190), trong khi thời Tự lực văn đoàn, Thạch Lam còn viết Theo giòng, Tú Mỡ viết Giòng nước ngược, đến Nhất Linh năm 1961 vẫn viết Giòng sông Thanh Thủy; còn hiện tại trang Người Việt (báo mạng, USA) một đôi khi vẫn viết: “có một giòng sông” (bài đăng 30.8.2018); hay: “Giòng sông Sacramento” (bài đăng 28.3.2024).
– Hai ông chọn cả hai chữ chia sẻ và chia xẻ, áp dụng với từng văn cảnh khác nhau (“chia sẻ nỗi buồn với ai vì mất mát người thân” – tr.112 / “để chia xẻ quyền lợi bọn chúng đã toa rập với nhau” – tr.113), trong khi trên tạp chí Văn học mới (báo giấy, USA, phát hành ở nhiều nước) số 27, tháng 10.2023, hình như đang viết gộp cả vào một chữ “chia xẻ” mà không còn thấy “chia sẻ”: “nhiều người cũng chia xẻ quan điểm” (tr.98); “để chia xẻ với người đọc khắp nơi” (tr.102); “có sự sẵn lòng chia xẻ để lan tỏa những giá trị nhân văn” (tr.107); “với tấc lòng bình yên, chia xẻ” (tr.109)…
– Hai ông viết xanh rờn (tr.1231), trong khi trang Thi viện (VN) không phải chỉ một lần viết “xanh dờn”: “Nhìn vào thấy bờ cỏ màu lục xanh dờn” (Bài Vân Đồn); “Hồ soi bóng liễu nước xanh xanh dờn” (Bài Đề Tây Đô thành, bản dịch thứ 4); “Ngấn rêu đượm nước nở xanh dờn” (Bài Sơn thượng, bản dịch thứ 4); “Đến tận cùng núi xanh dờn” (Bài Hoàng Mai đạo trung, bản dịch thứ 3)…
– Hai ông viết vô hình trung (tr.1208), trong khi cũng trên tạp chí Văn học mới đã dẫn, bắt gặp một chữ “vô hình chung”: “vô hình chung trở thành một ngọn nến sáng” (tr.108); và theo dõi trên nhiều báo mạng thì tìm được một chữ “vô hình chung” thứ hai ở trang VOA tiếng Việt: “Trung Quốc vô hình chung trở thành tâm điểm bị chú ý trong cuộc tranh luận giữa hai ứng cử viên tổng thống Mỹ” (bài đăng 28.9.2016); cũng vậy, một chữ “vô hình chung” thứ ba tìm được trên BBC tiếng Việt (Anh quốc): “vô hình chung lại dễ khuyến khích thêm…” (bài đăng 19.5.2020).
– Hai ông viết xoay xở (tr.1250), trong khi trang Doanh nhân Sài Gòn (báo mạng, VN) vẫn viết: “doanh nghiệp tìm cách xoay sở” (Hàng tồn kho, doanh nghiệp tìm cách xoay sở; 26.10.2022); trang VOV (VN) cũng thế: “xoay sở giữa khó khăn” (Xoay sở giữa khó khăn, Hưng Thịnh, Novaland mong được kéo dài thời gian vay vốn; 13.11.2023).
– Hai ông viết xôi kinh (xôi kinh nấu sử – tr.1254), tức hiểu “xôi” là động từ, trong khi hiện tại trang Soha (VN) mục “Tra từ” vẫn chỉ dẫn cho độc giả tra cứu thành ngữ “sôi kinh nấu sử” (http://tratu.soha.vn/dict/vn_vn/N%E1%BA%A5u_s%E1%BB%AD_s%C3%B4i_kinh);
và trang Hoc24OLM (VN) vẫn dạy cho học sinh lớp 11: “Đặt câu với thành ngữ sau: a) Nấu sử sôi kinh…”
– Hai ông viết coi sóc (tr.139); sắp xếp (tr.847); sâu xa (tr.852); trái xoan (tr.1072); xiêu lòng (tr.1247); xói mòn (tr.1251), trong khi tạp chí Văn học mới (đã dẫn) cũng những từ này đều viết đảo s và x: “có trả lương để coi xóc quét dọn” (tr.200); “cùng xắp xếp xong hết mọi chuyện” (tr.199); “mình xắp xếp đồ đạc rồi mai đi sớm” (tr.199); “nằm không xâu lắm trong một con hẻm nhỏ” (tr.200); “khuôn mặt trái soan” (tr.184); “mãi rồi cũng siêu lòng” (tr.166); “sói mòn dần tình yêu” (tr.176) [trở lên, các chữ trong ví dụ do chúng tôi in nghiêng hoặc tô đậm].
v.v. và v.v.
Xin được nói một câu ngoài đề: đọc báo chí tiếng Việt hải ngoại hiện nay, cả báo mạng và báo giấy, ta thường bắt gặp hai từ “diễn binh” và “diễn hành”, chỉ những cuộc tuần hành của quân lính, của đám đông quần chúng. Hai từ này gần như không có trên báo chí tiếng Việt từ xưa đến giờ (để kiểm tra xem trước ngày 30-4-1975 “diễn hành” và “diễn binh” đã có mặt trong lời ăn tiếng nói của người miền Nam hay chưa, không thật tin vào trí nhớ của mình, tôi đã phải tra lại Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ in năm 1970. Thì đây, khác với nhiều người hiện vẫn lầm tưởng, ở Quyển thượng sách trên, trang 371, mục diễn, chỉ có một từ “diễn hóa” còn “diễn hành” hay “diễn binh” đều tuyệt nhiên vắng bóng; trái lại ở trang 373, mục diễu lại có “diễu binh”, nhưng “diễu hành” thì không có – tất nhiên không có không phải vì từ ấy chưa từng được dùng trên báo chí sách vở của miền Nam). Khi tôi hỏi một vài bạn quen đang sống ở California thì được trả lời: viết “diễn hành” mới đúng luật kết cấu Hán + Hán; nếu viết “diễu hành” sẽ rơi vào kết cấu Việt + Hán, là kiểu kết cấu rất ít gặp trong quá trình hình thành tiếng Việt, nên “diễu hành” là viết sai. Tôi hơi băn khoăn, bèn đem hai chữ Hán “diễn演” và “hành行” ghép lại, rồi tra thử trên trang mạng baidu.com (Trung Quốc) thì có hai chữ “diễn hành 演行” thật, nhưng về nghĩa, mạng baidu.com cấp cho ta một nghĩa không có gì gần gũi với tuần hành cả: 演行的解释: 犹实行 / diễn hành do thực hành (“diễn hành” cũng như “thực hành”). Vậy có thể quả quyết, “diễn hành” không vay mượn ở đâu, chỉ là cách nói trại từ diễu hành của những ai đó, thời gian phổ biến chưa lâu, phạm vi lưu hành cũng còn rất giới hạn(8). Mở Từ điển Việt ngữ phổ thông của hai tác giả ra, không thấy “diễn hành”, trái lại từ diễu hành nằm ở trang 187. Rất tiếc, bên cạnh diễu hành viết đúng, từ điển của hai ông lại có cả “diễn binh” cùng hiện diện song song với diễu binh (được thích nghĩa là “sự phô trương lực lượng các quân binh chủng nhân một dịp lễ lớn”). Như trên, “diễn binh” cũng thuộc loại nói trại diễu binh và chưa mấy thông dụng trong tiếng Việt hiện hành (Hán ngữ hiện đại cũng có từ diễn binh 演兵 nhưng hoàn toàn không với nghĩa phô trương sức mạnh quân đội; baidu.com giải thích “diễn binh” là diễn tập hoặc luyện binh, và ghi chú thêm: từ mới (演兵:演习;练兵–新词语 / Diễn binh: diễn tập, luyện binh – tân từ ngữ)(9).
Hẳn có người hỏi: xác quyết chữ này đúng chữ nọ sai, thế dựa vào đâu mà nói sai hay đúng? Câu hỏi không kém nan giải. Thực tình không một chỗ dựa duy nhất nào có được đáp số đúng trong mọi tình huống. Ở trên đã nhắc Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, đó là công trình tập thể của Viện Ngôn ngữ học do GS Hoàng Phê chủ biên, khởi công làm phiếu điều tra tiếng Việt trên báo chí sách vở ngay từ ngày Viện mới là một tổ trong Viện Văn học (1959)(10). Khi thu thập được 3 triệu 30 nghìn phiếu, một đội ngũ chuyên môn bèn bắt tay biên soạn, tính đến 2003 đã in đến 9 lần, lần in nào cũng có chỉnh sửa, là công cụ mà nhiều người Việt hiện đang tra cứu hàng ngày. Nhưng, cuốn từ điển ấy cũng chưa có đủ mục từ, và không phải là cẩm nang giải quyết hết mọi chuyện rắc rối của tiếng Việt. BS Trần Văn Tích, một học giả từng trải, có nhiều kinh nghiệm tiếp xúc ngôn ngữ ở hải ngoại, người đã hết lòng tìm đủ luận chứng ở 17 cuốn sách để bênh vực nhà nghiên cứu Thụy Khuê khi bà đem in một công trình bị một nhà xuất bản hải ngoại bắt thay hai chữ “sử dụng” bằng “xử dụng”; trong bài viết nhắc ở mục I, ông đã dành gần 3 trang(11) kể lại những tình thế khó xử mình phải thuyết phục lý trí bằng so sánh nghiền ngẫm nhiều từ điển khác nhau, cho chúng “cọ xát” nghĩa trong thực tế sử dụng, cuối cùng chọn được từ ngữ thích đáng mà không phải nhượng bộ thói quen, định kiến, cũng không đánh mất sự tự chủ. Tôi xin mượn kinh nghiệm của ông để phần nào nói thay cho mình. Trong giao tiếp ngôn ngữ, chỉ có được chân lý hợp thành từ nhiều nguồn: sách vở (từ điển), thực tiễn và sự trải nghiệm. Và cũng không thể dùng mệnh lệnh, phải tự mình sàng lọc, cuối cùng thuyết phục mình và người hướng tới cái đúng.
Dựa trên cơ sở của nguyên tắc làm việc vừa rút ra, trở lại với Từ điển Việt ngữ phổ thông của Lê Văn Thu và Nguyễn Hiền. Khi kết luận các ông đạt một tỷ lệ mục từ viết đúng chính tả đầy ấn tượng, như con số đã thống kê ở ba cặp con chữ dễ sai chính tả nhất (s – x / d – gi – r / ch – tr), tôi đã cố gắng soi nhìn cuốn sách trong một tiến trình dài của ngành từ điển tiếng Việt nước ta. Công sức to lớn của hai ông, vốn là hai nhà khoa học tự nhiên, là đã không ngừng tiếp cận nhằm thâu lượm lời ăn tiếng nói của nhiều nhóm người Việt đa dạng trong thời gian trên dưới nửa thế kỷ. Nhưng có lẽ còn quan trọng hơn, nhờ tinh thần bỏ qua thiên kiến như viết ở lời đầu sách, các ông không câu nệ tiếp thu thành quả từ nhiều nhà từ điển học đi trước, biến chúng thành điểm mạnh của mình. Chỉ với hai cá nhân đơn độc thì dù có thêm “hiền thê” giúp sức (ghi trong lời Tri ân), vẫn không dễ gì vượt thoát khâu hết sức khó khăn là chuẩn định các mục từ cho đúng chính tả trong quá trình làm một cuốn từ điển ngôn ngữ ròng rã 12 năm, mà nhiều người đã phải gọi đó là những “cái bẫy”, hơi loạng quạng là sập. Ngay như trong tập thể soạn giả bộ Từ điển tiếng Việt Hoàng Phê có một thành viên tương đối trẻ; ở phần việc đóng góp cho công trình chung, nhờ áp lực của “cái đúng” từ Chủ biên và tập thể anh ta thực hiện thuận buồm xuôi gió. Đến lúc tự mình đứng ra soạn riêng một cuốn từ điển chính tả thì sách anh làm gặp đâu sai đấy, có đến 168 mục từ sai, đến mức sách vừa in ra đã bị thu hồi(12).
(còn tiếp)
____________________________________________
(1) Sách in tại Đài Loan vào giữa năm 2023.
Bác sĩ Lê Văn Thu sinh năm 1945, tại huyện Bình Lục tỉnh Hà Nam, đậu Bác sĩ Y khoa SG 1973. Vượt biển sang Hoa Kỳ từ 1980, tiếp tục hành nghề y từ 1984, điều hành Hội Văn hóa Lạc Việt Tacoma từ cuối thập niên 1980. Hiện cư trú tại TP Tacoma, Hoa Kỳ.
Dược sĩ Nguyễn Hiền sinh năm 1951 tại Huế, tốt nghiệp ĐH Dược khoa SG 1973. Vượt biển sang Hà Lan năm 1980, lấy tiếp bằng Dược sĩ ở Hà Lan 1987, tiếp tục hành nghề dược đồng thời làm báo, viết truyện ngắn. Hiện cư trú tại tỉnh Utrecht, Hà Lan.
(2) Người viết được tặng sách vào cuối tháng Chín năm 2023, lúc sách vừa xuất bản được hơn một tháng. Bài viết hoàn thành sau một tháng, đã gửi bản chép tay đến hai tác giả nhưng đến nay sau hơn một năm hai tháng chúng tôi mới đăng công khai trên báo chí. Nhân đây xin chân thành cảm ơn hai tác giả, đặc biệt xin cảm ơn BS Trần Văn Tích là người đầu tiên nối kết mối quan hệ giữa hai vị soạn sách với tôi, để có được bài này.
(3) Cuốn sách được biên soạn trong rất nhiều năm, ban đầu chỉ mới là Tập I của một bộ Từ điển tiếng Việt phổ thông khổ lớn gồm ba vần A, B, C, do Hoàng Phê, Trưởng phòng Ngôn ngữ học thuộc Viện Văn học chủ biên, NXB Khoa học xã hội in vào năm 1975. Về sau bổ sung dần và in đi in lại nhiều lần, đến năm 2003 là lần in thứ 9 bởi NXB Đà Nẵng, cũng là lần in hoàn thiện nhất khi GS Hoàng Phê còn sống.
(4) Xin xem: Trần Văn Tích: Từ điển tiếng Việt. Tạp chí Văn học mới (in tại California, Hoa Kỳ, phát hành hai tháng một số, ở nhiều nước từ Mỹ đến Canada, Pháp, Đức), số 27 (năm thứ VI); tháng 10.2023; tr.26-38.
(5) Cá nhân tôi, ngay khi viết bài này vẫn đinh ninh từ dây rợ xác đáng hơn dây dợ, vì thành tố “dợ” là phần láy không có nghĩa, trong khi “rợ” cũng như “nhợ” nghĩa là dây. Nhưng khảo sát từ điển Taberd (1838), Huình Tịnh Của (1895), Génibrel (1898), đều có dây nhợ mà không có dây rợ. Đến Khai trí Tiến đức (1931), Lê Văn Đức (1970), không có cả dây nhợ và dây rợ. Đến Hoàng Phê (2003) không có dây nhợ và dây rợ mà có dây dợ. Hoàng Phê đã chọn từ theo tỷ lệ trên sách vở báo chí dựa vào 3 triệu 30 nghìn phiếu điều tra suốt thế kỷ XX, mà không có dây rợ. Bởi vậy đành phải gạt bỏ định kiến cũ trong tiềm thức của mình, chấp nhận dây dợ.
(6) Do đếm một lần nên có thể có sai số nhưng chắc không nhiều.
(7) a. Trong cả 6 vần S, X, D, R, CH, TR có 160 mục, tạm xếp vào hai loại phương ngữ và từ cổ, rất ít gặp hoặc chưa bao giờ gặp ở đâu, không có từ viết chuẩn để so sánh, nên không thể xem là viết sai chính tả: “sồng sềnh”, “xắc xói”, “xăn xéo”, “xăng bồng”, “xăng văng”, “xăng việc”, “xăng xít”, “xằng xịu”, “xắp xanh”, “xắp thời”, “xâm việt”, “xâm xoàng”, “xấm xuất”, “xân xẩn”, “xấn vấn”, “xẩn bẩn”, “xẩn vẩn”, “xấp xải”, “xập lết”, “xập xám”, “xập xỏa”, xấu xỉnh”, “xẩu mình”, “xây bồ bồ”, “xây chầu”, “xây chừng”, “xây dùng”, “xây-lũ-cố”, “xây mâm trầu”, “xây trầu”, “xé pho”, “xé tét”, “xé tẹt”, “xẽo”, “xềm xệp”, “xến”, “xển”, “xển lưng”, “xện”, “xếnh xáng”, “xếp tó”, “xếu xáo”, “xếu xệu”, “xều”, “xệu xạo”, “xi kên”, “xi mên”, “xí xái”, “xì dách”, “xì đùng”, “xì thẩu”, “xì xằng”, “xì xò”, “xì xục”, “xỉ lãnh”, “xỉ lô”, “xỉ luân”, “xỉ thống”, “xìa bỉu”, “xích hầu”, “xích lỵ”, xích phê”, “xích thân” “xích trục”, “xiêm lo”, “xiên xáo”, “xiển cứu”, “xiển u”, “xim”, “xính xái”, “xịp”, “xíu bè”, “xìu xìu ển ển”, “xỉu xỉu”, “xo lo”, “xo xe”, “xò ke”, “xò trân”, “xò xè”, “xỏ lụi”, “xỏ mé”, “xõ”, “xọ”, “xoa mị”, “xoác”, “xoải”, “xoạng”, “xoi xoi”, “xom”, “xon xón”, “xon xỏn”, “xong cảy”, “xong xạy”, “xong xóng”, “xong xỏng”, “xốc xả”, “xốc xổ”, “xốc xốc”, “xổn xảng”, “xộp xạp”, “xơ vơ xính vính”, “xơ vơ xửng vửng”, xở việc”, “xở xuất”, “xơm”, xờm”, “xờm xợp”, “xởm”, “xơn”, “xớn”, “xởn”, xởn đầu”, “xợt”, “xu não”, “xu phong”, “xu trục”, “xú xí”, “xủ”, “xủ phụ”, “xủ tiết”, “xủ quẻ”, “xũ”, “xụ xợp”, “xuẩn bát”, “xuẩn tài”, “xuẩn vật”, xuất mộc”, “xuất nhân”, “xuất phẩm”, “xuất sản”, “xuất sở”, “xuất tiến”, “xúc hứng”, “xúc ngôn”, “xúc mục”, “xúc ngôn”, “xúc tất”, “xuê”, “xuê xang”, “xủi xủi”, “xủn”, “xung phạm”, “xung quyết”, “xuộc”, “xuôi câu”, “xuôi cò”, “xuôi rót”, “xuống nái”, “xuyên tư”, “xuyên tỵ”, “xuyên xà”, “xuyết âm”, “xuýt nợ”, “xứ đế”, “xử vị”, “xưng bao”, “xưng cử”, “xứng xái”, “xừng”, “xười”. b. Lại có 27 từ sai chính tả được trình ra theo cách mở ngoặc viết thêm từ chuẩn chính tả ngay bên cạnh (từ chuẩn chính tả cũng có mặt đầy đủ trong sách dưới dạng mục từ). Có thể hiểu không phải tác giả viết sai, trái lại hai ông xem như đây là những phương ngữ mình bắt gặp đó đây và thu nạp vào sách: “chèm nhèm” (kèm nhèm), “diệu võ dương oai” (diễu võ dương oai), “rào rạu” (rào giậu), “rấn thân” (dấn thân), “rẫy chết” (giẫy chết), “ròn rã” (giòn giã), “rong rỏng” (dong dỏng), “sốc nổi” (xốc nổi), “sẻng” (xẻng), “siển cận” (thiển cận), “xiếu mai” (phiếu mai), “xiếu mẫu” (phiếu mẫu), “xổ gấu” (sổ gấu), “chờ trực” (chờ chực), “trành hanh” (đành hanh), “tría lia” (tía lia), “xăm xoi” (săm soi), “xắm nắm” (sắm nắm), “xếch xác” (xệch xạc), “xốn xác” (xớn xác), “xớ lợ” (thớ lợ), “xờ” (trờ), “xở rối” (gỡ rối), “xúc siểm” (xúc xiểm), “xục xạo” (sục sạo), “xục xịch” (xộc xệch), “xuýt xoát” (suýt soát). c. Ngoài ra còn có từ “xổ xố” và “xổ xố lô tô” ở trang 1253 cũng không thể kết luận viết sai, vì cũng ngay trong mấy dòng giải thích hai mục từ này các tác giả viết “quay số”, “bốc số”, “xổ số” và tất cả những chữ “số” khác đều viết đúng là “số”.
(8), (9) Trong bài Ngôn ngữ bình dân của Sài Gòn và người miền Nam của Kỳ Thanh trên Nghiên Cứu Lịch Sử (hải ngoại, báo mạng) ngày 24.4.2023, có câu: “Diễn hành, diễn binh = diễu hành, diễu binh (chữ ‘diễu’ bây giờ dùng không chính xác, thật ra là “diễn” mới đúng)”. Chúng tôi đã khảo sát một số trang báo hải ngoại, cả báo mạng và báo giấy, thì nhận ra hai chữ “diễn hành” và “diễn binh” chỉ tồn tại ở các báo tiếng Việt tại Mỹ như Người Việt, Calitoday… Báo tiếng Việt thuộc các nước ngoài Mỹ đều viết “diễu hành” và “diễu binh”. Ngay một trang như VOA tiếng Việt có viết “diễn hành”, “diễn binh” nhưng lại cũng viết cả “diễu hành”, “diễu binh”. Vài ví dụ: VOA ngày 17.4.2023 viết (đầu đề): Diễn hành Hoa anh đào ở thủ đô Mỹ; ngày 13.2.2024 viết (đầu đề): Diễn hành Tết Giáp Thìn ở Little Saigon;… Nhưng cũng báo ấy, ngày 22.11.2012 lại viết (đầu đề): Cuộc diễu hành ngày Lễ Tạ Ơn ở New Yor; và trong bài Lễ Lao động 2021 (6.9.2021) cũng viết: “công nhân Thành phố New York đã nghỉ không lương và diễu hành”; bài gần đây (21.3.2024) tiếp tục viết (đầu đề): Bộ trưởng Thể thao Pháp: với lệnh cấm diễu hành tại Olympics… Về từ “diễu binh” ngày 18.8.2018 VOA viết (đầu đề): Vì sao Trump không thể diễn binh như mong muốn? Nhưng trước đó ngày 14.7.2017 lại viết (đầu đề): Diễu binh Mỹ có thể tốn hơn 90 triệu đôla; ngày 8.2.2018 cũng viết (đầu đề): Triều Tiên diễu binh trước ngày khai mạc Thế vận hội; và gần đây nhất ngày 21.12.2024 vẫn viết (đầu đề): Mỹ bỏ kế hoạch diễu binh tốn kém. V.v.
(10) Người viết bài này cũng là một thành viên Ban văn học Cổ cận đại Viện Văn học từ ngày 5.1.1961 nên có may mắn được chứng kiến việc làm phiếu tra cứu của Nhóm từ điển Hoàng Phê.
(11) Trần Văn Tích. Từ điển tiếng Việt. Bđd, tr. 35 – 37.
(12) Xin xem: https://tuancongthuphong.blogspot.com/2020/07/sai-sot-trong-tu-ien-chinh-ta-tieng.html (Kỳ 1)
https://tuancongthuphong.blogspot.com/2020/07/sai-sot-trong-tu-ien-chinh-ta-tieng_18.html (Kỳ 2)
https://tuancongthuphong.blogspot.com/2020/07/sai-sot-trong-tu-ien-chinh-ta-tieng_19.html (kỳ 3)
Diễn hành, diễn binh
Diễu hành, diễu binh
“Xin được nói một câu ngoài đề: đọc báo chí tiếng Việt hải ngoại hiện nay, cả báo mạng và báo giấy, ta thường bắt gặp hai từ “diễn binh” và “diễn hành”, chỉ những cuộc tuần hành của quân lính, của đám đông quần chúng. Hai từ này gần như không có trên báo chí tiếng Việt từ xưa đến giờ (để kiểm tra xem trước ngày 30-4-1975 “diễn hành” và “diễn binh” đã có mặt trong lời ăn tiếng nói của người miền Nam hay chưa,…”(Nguyễn Huệ Chi)
Diễn hành, parade, marching; diễn binh, duyệt binh, millitay parade, các từ này trước 75 ở Miền Nam, tôi đã nghe mọi người nói cũng như đọc trên đài phát thanh như vậy. Còn xuất hiện trong sách báo thời đó thì tôi không nhớ rõ đọc được từ đâu. Có điều chắc chắn là các từ “diễu binh diễu hành” chỉ xuất hiện sau 75 theo bước chân của người từ Miền Bắc đem thêm vào. Tôi không nghĩ từ nào đúng từ nào không. Chúng tương đương ý nghĩa với nhau. Tôi chỉ có ý kiến như sau, như cách mà mọi người hiểu chung:
. Diễn hành: người đi bộ hành hoặc dùng phương tiện di chuyển để trình diễn, trong các dịp lễ kỷ niệm lớn như Lễ Quốc Khánh, Lễ Vía Quốc Tổ Hùng Vương, Lễ Hai Bà Trưng, ngày Lễ Phật Đản, Lễ Giáng Sinh v.v (thường diễn hành đi theo sau cộ xe hoa trang trí).
. Diễn binh: đi diễn hành trong Ngày Quân Lực VNCH, ngày mãn khóa Sĩ Quan Đà Lạt, Sĩ Quan Thủ Đức, Sĩ Quan Cảnh Sát QG v.v. Đi đều bước, có bồng súng trên vai, bước theo nhịp trống, mặc đồng phục đại lễ hoặc tiểu lễ theo từng quân binh chủng. Người Hoa cũng có các từ này. Dĩ nhiên, họ xử dụng từ ngữ 演行 演兵 diễn hành diễn binh theo nghĩa hơi khác với Việt ngữ của VN.
. Còn: diễu hành, diễu binh? Ý nghĩa cũng như diễn hành diễn binh nêu trên. Nhưng mà chữ “diễu” từ Nôm, theo từ điển của Hội Khai Trí Tiến Đức chú nghĩa là “chạy chung quanh”. Sư diễu đàn (nghĩa là nghi lễ khi các ông sư đi vòng vòng chung quanh trai đàn cúng tế gì đó). Diễu quân (binh lính chạy vòng quanh trong khi luyện tập đội hình chiến đấu).
Nhưng tôi không nghĩ từ “diễu hành” được chế ghép như vậy (Nôm + Hán) để thành từ đôi trong Việt ngữ. Tiếng Việt có vô số cách nói Nôm + Hán nhưng chúng không thành lập từ đôi. Chúng chỉ ghép chữ ghép câu khi nói. Thí dụ: lính lệ, ông giáo, xứ Đoài, con hổ, pháo bông, mắt phượng, v.v.
Diễu hành, không chừng là người dịch nghe nhầm từ du hành 游行. Tiếng Hoa Quan Thoại đọc chữ du 遊 [yóu] nghe na ná … diễu, đi lòng vòng diễu qua diễu lại, hay chăng 😊🙂
遊行 yóuxíng [parade;march;demonstration]: 廣大群眾為了慶祝、紀念、示威等在街上結隊而行
Du hành: Quảng đại quần chúng vị liễu khánh chúc, kỷ niệm, thị uy đẳng tại nhai thượng kết đội nhi hành.
Du hành: Đông đảo người đi diễn hành trên đường phố trong dịp lễ chúc mừng, lễ kỷ niệm, để cùng biểu thị uy thế.