Các ngăn trí nhớ của chúng ta dành cho những tác giả văn chương, âm nhạc hay hội hoạ thường có nhiều mức độ khác nhau. Có những tác giả chúng ta biết rất rõ, kể cả tác phẩm và cả cuộc sống riêng tư của họ; có tác giả chúng ta chỉ biết qua tên tuổi, hay cũng có nhiều tác giả chúng ta vừa nhớ được tên vừa nhớ một số tựa đề tác phẩm của họ. Trường hợp của tôi với nhà văn Thảo Trường lại khá đặc biệt. Tôi mê đọc sách từ nhỏ, đọc ngấu nghiến hết sách báo dành cho thiếu nhi, tôi đọc qua luôn cả một số sách báo của người lớn. Ngày đó, trong khi các tạp chí hằng tháng hay hằng tuần của tôi là Tuổi Hoa, Tuổi Ngọc, Thiếu Nhi, Ngàn Thông, Thằng Bờm… thì tờ báo ưa thích của hai người chị tôi là nguyệt san Văn. Tôi nghĩ là mình đã tình cờ đọc truyện ngắn Viên Đạn Bắn Vào Nhà Thục của Thảo Trường trong tạp chí đó, vì ngoài ra hai chị tôi không mua tạp chí nào khác.
Lúc đọc xong truyện ngắn này, chắc tôi cũng chẳng hiểu gì lắm. Sau đó, tôi chỉ còn nhớ tên truyện mà quên mất tên tác giả. Thảo Trường đã nổi tiếng từ lâu, bên cạnh các nhà văn cùng thời khác như Mai Thảo, Nhật Tiến, Nguyễn Đình Toàn, Duyên Anh, Tuý Hồng, Nhã Ca… mà tôi vẫn thường đọc, nhưng không hiểu sao tôi không còn duyên đọc Thảo Trường nữa. Mãi cho đến nhiều năm sau khi vượt biên qua đến Mỹ định cư, tôi mới nghe lại tên Thảo Trường và chỉ được “nghe” về tập truyện Tiếng Thì Thầm Trong Bụi Tre Gai của ông trước khi thật sự đọc cuốn này một thời gian khá dài sau đó.
Khi thưởng thức một bài thơ, một truyện ngắn hay một cuốn tiểu thuyết, tôi vừa là một độc giả, một người cầm bút, đồng thời là một người học và dạy ngôn ngữ. Tôi “nhìn” tác phẩm từ các góc độ khác nhau đó. Một tác phẩm văn chương—với tôi—không khác gì một con người, có linh hồn và có thân xác. Linh hồn của tác phẩm chuyên chở ý tưởng, thông điệp, trong khi thân xác bao hàm ngôn ngữ và văn phong. Hai thành phần chính này quyện vào nhau, chặt chẽ, cấu thành một tác phẩm văn chương toàn diện.
Có biết bao nhiêu điều có thể quan sát và viết lại từ một hay nhiều tác phẩm của một tác giả, đặc biệt khi tác giả đó lại là Thảo Trường với một công trình sáng tác đồ sộ và phong phú. Tác phẩm của ông là những bức tranh hết sức linh động, ngồn ngộn kinh nghiệm sống, trải dài từ thời chiến tranh Việt Nam, qua giai đoạn hậu chiến với cả miền Nam bị nhuộm đỏ và cả nước trở thành một nhà tù khổng lồ, trong đó có những cái-gọi-là “trại học tập cải tạo”, cho đến giai đoạn tác giả đến được bến bờ tự do, tiếp tục sáng tác mạnh mẽ không kém gì—nếu không muốn nói là hơn cả—thời kỳ ông đã từng nổi danh trong trước.
Tôi chỉ có thể chọn một đề tài để viết về Thảo Trường trong phạm vi giới hạn của bài viết này. Đó là thủ pháp trình bày nhân vật và chọn quan điểm cho nhân vật, trước hết, qua một số tác phẩm của Thảo Trường nói chung, và sau đó là trong truyện ngắn Côn Trùng của ông, viết năm 1993 ở Huntington Beach, California[1].
Quan điểm của nhân vật trong một truyện ngắn, truyện vừa hay truyện dài, thường được các nhà văn chọn ngay từ đầu để xác định mối tương quan giữa người viết, nhân vật và người đọc, đồng thời cũng với mục đích tạo hiệu quả cao nhất trong việc chuyển tải nội dung và tư tưởng của tác giả đến độc giả. Về vấn đề này, trong cuốn To Kill a Mocking Bird (1960), nhà văn Harper Lee đã để cho nhân vật trong truyện, Atticus Finch—một luật sư/người cha độc thân—thổ lộ (xin tạm dịch), “Chúng ta không thể hiểu rõ một người cho đến khi có thể xét đến mọi điều từ quan điểm của người ấy… cho đến khi chúng ta bước vào bên trong họ và đi cùng khắp trong đó”[2].
Như chúng ta đã biết, trong văn phạm cũng như văn chương, ba quan điểm của nhân vật là ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai và ngôi thứ ba (số ít hay số nhiều). Trong phần lớn các tác phẩm của mình (Bà Phi, 1968/2009 – Cánh Đồng Đã Mất, 1971 – Ngọn Đèn, 1970 – Mé Nước, 1971, v.v.), Thảo Trường dùng ngôi thứ ba cho các nhân vật, đặt người đọc vào vị trí của khán giả, quan sát tất cả nhân vật một cách bao quát, và chỉ “thấy” được quan điểm của họ qua hành động và lời đối thoại một cách gián tiếp.
Ngôi thứ hai—quan điểm ít khi được dùng trong văn xuôi—được Thảo Trường sử dụng trong truyện ngắn Trong Nôi (1999), qua đó tác giả thủ thỉ nói chuyện với một đứa bé hãy còn nằm trong nôi mà ông gọi bằng “cháu”. Đứa bé “đi theo” mẹ biểu tình chống kẻ trương hình hồ tặc và cờ đỏ ở Bolsa, Little Saigon, thủ phủ của người Việt tị nạn ở California. Đứa bé bị bắt theo mẹ, trở thành tù nhân chính trị nhỏ tuổi nhất (nhưng sau đó được sớm thả ra) trong một cuộc biểu tình tranh đấu chống hình tượng độc tài khát máu kéo dài nhiều tuần lễ với hàng ngàn lượt người tham gia.
Ngôi thứ nhất—không kể trong những tác phẩm có tính chất tự truyện như Khẩu Hiệu (1993), Trong Hẻm (1990s)—nhiều khi được Thảo Trường dùng một cách đầy sáng tạo. Chẳng hạn như nhân vật xưng tôi trong truyện dài Lá Xanh (1972) hay truyện ngắn Trong Bếp (1990s) chính là hiền thê của tác giả (còn ông thì trở thành ngôi thứ ba). Phức tạp hơn nữa, nhân vật xưng tôi trong Cơn Sốt 3 (1999) là linh hồn của tác giả trong tình trạng cảm-nghiệm-ngoài-thân-xác—out-of-body experience—bay lên cao và nhìn xuống chính mình, khi ông bị một cơn bệnh thập tử nhất sinh (được kể ở ngôi thứ ba), đang nằm trong phòng mổ. Cách “tách” quan điểm này đã giúp cho câu chuyện có thêm một chiều không gian, chứa đựng thêm nhiều hình ảnh và ý tưởng, làm tất cả trở nên sinh động và hiện thực, mặc dù rõ ràng là không-có-thực.
Nhưng đặc biệt hơn cả là nhân vật xưng tôi trong truyện ngắn Côn Trùng (1993). Đó là một con nhện giăng tơ trên trần nhà, ngó xuống một nhân vật ở ngôi thứ ba/một người đàn ông (và đôi khi trở thành ngôi thứ hai, khi con nhện đối thoại trực tiếp với người này). Nhân vật ngôi thứ hai/thứ ba đó—dựa trên các chi tiết trong truyện—chính là tác giả Thảo Trường, kể lại những ngày ông trở về từ chốn lao tù và đang chờ được đi đoàn tụ với gia đình ở Mỹ.
Thật ra, hình ảnh con nhện giăng tơ này đã được Thảo Trường nhắc đến một lần trong truyện ngắn Tầm Xa Cũ, Bắn Hiệu Quả (1969)[3]. Trong truyện này, nhân vật Miện, một sĩ quan quân đội Cộng Hoà (ở ngôi thứ ba), sau cái chết thương tâm của một đồng đội, trở về phòng ngủ sĩ quan độc thân, “gieo mình trên chiếc giường trống” rồi “nhìn lên trần nhà xem một con nhện đang đuổi bắt muỗi, theo dõi cuộc truy sát đến khi hai mắt nhíp lại…” (tr. 171)
Hai mươi bốn năm sau, Thảo Trường tái hiện hình ảnh nhện và người trong truyện ngắn Côn Trùng, nhưng quan điểm nhân vật giờ đây đã thay đổi: Con nhện trở thành ngôi thứ nhất và con người nay thành ngôi thứ hai và ngôi thứ ba.
Thảo Trường gởi đến chúng ta thông điệp gì đây? Trong tất cả các tác phẩm khác của ông, nhân vật chính là con người, con người thiện, con người ác, con người quen, con người lạ, con người tình, con người thù, con người đời thường, con người chiến tranh, con người tù tội, con người thắng trận, con người bại trận… nhưng dẫu sao chăng nữa, tất cả đều thuộc loài người.
Trong truyện này, tác giả chọn con nhện làm “nhân vật” chính thứ nhất—bên cạnh nhân vật chính kia là người đàn ông—vốn là loài côn trùng thấp bé, xếp dưới cả loài động vật có xương sống, như chính tựa đề đã nói rõ. Chọn quan điểm này, Thảo Trường cho phép con nhện ngắm nhìn, quan sát nhân vật gọi là “anh ta”, mà không tham dự vào sinh hoạt của người đó.
Anh ta rất rảnh rỗi, hình như không có việc gì để làm, giữa một xã hội mà ai cũng phải đi làm, và ai cũng muốn có việc làm. Thường thì chỉ thấy anh ta đi đâu đó một lát rồi trở về. Và ở nhà thì chỉ thấy anh ta nằm trên giường, mà nằm trên giường thì bắt buộc anh ta phải nhìn lên chỗ của tôi. (tr. 29)
Mối quan hệ giữa nhện và người thoạt đầu là theo kiểu “mạnh ai nấy sống”—live and let live:
Lúc đầu thì tôi không để ý đến anh ta, bởi vì tôi nghĩ rằng anh ta cũng chẳng để ý tới mình. Ối, hơi đâu mà để ý tới những cái không liên quan đến mình. Cuộc sống này gấp rút và xô bồ quá, ai cũng có phần vụ riêng của mình để mà lo, còn thì giờ đâu và hứng thú gì mà đi để ý tới những cái vớ vẩn như nhân vật nằm ngửa nhìn lên kia. (tr. 29)
Mới đọc vào truyện, người đọc có thể nghĩ rằng tác giả chọn con nhện như một biểu tượng của lòng kiên nhẫn. Con nhện giăng tơ, quan sát và chờ đợi con mồi. Hình ảnh con nhện cũng gợi lên ý niệm về thời gian, về cuộc sống diễn ra theo thời gian, âm thầm, kín đáo và không có sự can thiệp nào…
Cho đến chỗ cao trào, lúc người bắt đầu tấn công nhện một cách bất ngờ:
… sức gió do anh ta giơ cái gối khá mạnh cũng làm cho cơ ngơi nhà cửa của tôi bị chao đảo và chính bản thân tôi cũng bị quăng lên quăng xuống suýt rơi vào khoảng không vũ trụ. (tr. 30)
Từ lúc đó trở đi, mối quan hệ giữa nhện và người, một phần có ý thức (từ quan điểm của con nhện), một phần là vô ý thức (từ quan điểm của người đàn ông), đã trở nên sống động hơn, không hẳn là về mặt vật lý, mà phần nhiều là về mặt tinh thần, tư tưởng—thứ tư tưởng nhuốm màu triết lý.
Một tù nhân chính trị trong 17 năm như Thảo Trường đã thấy rõ hơn ai hết, rằng cuộc nội chiến của Việt Nam không chấm dứt vào ngày 30 tháng 4, mà còn kéo dài đến mấy mươi năm sau, bắt đầu trong xã hội lầm than sau “giải phóng”, trong những nhà tù oan nghiệt, rồi sau đó tiếp tục âm ỉ cho đến tận ngày nay, vươn từ trong nước ra đến hải ngoại. Ngày nào lòng người còn ly tán, còn phân biệt ý thức hệ, còn nói hai loại tiếng Việt khác nhau, ngày ấy cuộc chiến Việt Nam vẫn còn đó. Trong thời gian đi tù, Thảo Trường đã thấm thía cảnh “người với người đã trở thành thiên tai”, như nhà văn/nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn đã viết trong bài hát Sống Một Ngày. Cũng trong tâm tình đó, Thảo Trường đã mượn lời con nhện để nói, rất mỉa mai, vì đây là những lời lên án của một con côn trùng đối với con người:
Muỗi chích người ta để hút máu là vì con người có máu. Mà máu dường như là thức ăn cao cấp hơn cả. Muỗi cũng như bao sinh vật khác, rất cần ăn. Vì ăn mà các sinh vật đã giết lẫn nhau, nhất là loài người. Chưa có loài thú vật súc sinh nào đánh lẫn nhau lớn như loài người đánh lẫn nhau. Loài người đánh lẫn nhau thành đại chiến thế giới, hình như sắp tới hồi thứ ba thứ tư gì đó… (tr. 32)
Con nhện cảm thấy cay đắng vì bị con người tấn công mà không có duyên cớ rõ ràng, trong khi ít nhất—theo như nó nghĩ—nó đã giúp anh ta không bị muỗi cắn vì nó giăng tơ bắt rất nhiều muỗi. Một cách phi hiện thực—mà cũng rất hiện thực, suy nghĩ của con nhện về cuộc chiến, về kẻ thù cộng sản, về người đồng-minh-phản-bội Mỹ đã tiến xa đến chỗ khiến nó phải đối thoại thẳng với anh ta, biến anh ta thành ngôi thứ hai trực diện:
Ối, cái tình cái nghĩa làm gì có trên cõi đời hả anh? Hồi sống trong Rừng Lá, các anh vẫn nói rằng các anh sợ nhất muỗi, rắn và đàn bà. Bây giờ anh nghĩ sao? Muỗi, cộng sản, Mỹ và tôi, ai tử tế, ai không tử tế với anh? Ai làm sao, chưa biết ý anh thế nào, nhưng có điều chắc chắn là anh sẽ sang Mỹ và sẽ thành Mỹ. Thế thì còn gì để mà “bình” nữa, còn gì để mà “chửi” nữa? Chẳng lẽ mình lại chửi mình? (tr. 34)
Điểm độc đáo của Côn Trùng là thông qua hai nhân vật chính—con nhện và người đàn ông—tác giả đã làm cho mỗi nhân vật lúc thì đại diện cho thực thể này, lúc thì đại diện cho thực thể khác. Áp dụng cùng một thủ pháp, một nhà văn Mỹ đương đại, tương đối trẻ (cô ở lứa tuổi 40) là Sabaa Tahir, đã bày tỏ như sau (xin tạm dịch): “Đa-quan-điểm cho tôi xem xét các nhân vật từ nhiều góc cạnh rất khác nhau, điều này cho phép tôi tìm hiểu thêm về họ trong khi viết.”[4]
Có lúc con nhện đóng vai loài vật để phán xét loài người. Có khi người đàn ông chính là tác giả, nhưng có khi chính con nhện cũng là tác giả nốt, như trong đoạn Thảo Trường nhắc đến khả năng sinh tồn, tự tái tạo vô biên của một con người sau thời gian bị đầy đoạ đến tận cùng:
Sau mấy trận càn quét mà tôi vẫn sống, tôi vẫn làm lại cuộc đời, tôi vẫn làm lại nhà, tôi vẫn giăng lại lưới, tôi vẫn bắt muỗi làm thứ sinh nhai và tôi vẫn từ trên này nhìn xuống anh. (tr. 35)
“Anh” trong đoạn này dường như không phải là tác giả nữa, vì lúc này con nhện đang nói những lời mà chúng ta có thể hiểu là của một người tù vừa trở về từ địa ngục trần gian, đó mới chính là những lời của tác giả. “Tôi vẫn từ trên này nhìn xuống anh.” Một người vừa bị kéo xuống tận đáy của sự đau đớn về thể xác lẫn tinh thần, giờ đây ngạo mạn từ trên cao nhìn xuống một người (vừa là chính người đó, vừa như là một người khác), như một kẻ khốn cùng đang phán xét cả loài người sau cơn khổ nạn.
Trong phần cuối truyện, Thảo Trường một lần nữa lại thay đổi quan điểm của nhân vật. Người đàn ông bây giờ ở ngôi thứ nhất, vừa ra tù, còn ở Việt Nam, thủ thỉ qua lá thư với người vợ đang sống ở nước ngoài—ở ngôi thứ hai—mỗi lời như một vết thương rướm máu. Trước đây, văn Thảo Trường đầy ắp thực tế, thực tế về chiến tranh. Triết lý, nếu có, cũng chỉ nấp sau những dòng chữ, những câu đối thoại, những cảnh tượng hay diễn tiến trong truyện… mà mỗi người đọc phải tự tìm thấy. Trong Côn Trùng, triết lý không cần phải che giấu nữa, nó bật ra như những dòng máu nghẹn ngào, bây giờ mới có dịp tuôn chảy. Cuộc đổi đời sau 1975, của dân tộc và của chính tác giả, đã làm văn chương của ông thấm đẫm những dòng triết lý mà trước đây ít thấy. Ông nhìn cuộc sống với cặp mắt của một triết nhân. Trích đoạn dưới đây trong bức thư của người đàn ông gửi vợ nhắc chúng ta nhớ đến lời nhà văn Albert Camus về ý nghĩa của cõi trần gian (xin tạm dịch): “Nhận thức rằng cuộc đời là phi lý không thể nào là một kết thúc, mà chỉ là một khởi đầu”[5]:
Từ cái xứ sở đau thương này, chuyện gì đáng nói, chuyện gì cần nói, em biết không? Tất cả, chuyện gì cũng đáng phải nói, chuyện gì cũng cần phải nói, và chuyện gì cũng nên quên đi. Đất nước chúng ta đã phải trải qua một cơn đảo điên kinh hoàng khủng khiếp đến nỗi khi ngồi trước bàn viết thấy cái gì cũng cần phải ghi lại và cái gì cũng muốn xoá đi! Xã hội tan rã đến nỗi cái gì cũng có thể có và cái gì cũng có thể không! Cái gì cũng thật, cái gì cũng giả! Thế cho nên em cũng đừng nghĩ rằng những dòng chữ này là thư cho em hay là sáng tác, là hiện thực hay giả tưởng… (tr. 35)
Thành công của truyện ngắn Côn Trùng, tôi thiết nghĩ, là sự kết hợp tài tình giữa nội dung hiện thực—realism—và hình thức hiện-thực-huyền-ảo—magical realism— cũng như qua thủ pháp hoán chuyển linh động của giữa các nhân vật và quan điểm của họ. Ông dùng cái ảo để nói lên cái thực, và mượn cái thực để ám chỉ những hão huyền của cuộc tồn sinh. Trong truyện ngắn này, Thảo Trường đã lồng nhân vật này vào nhân vật kia, lồng quan điểm này vào trong quan điểm nọ, luân chuyển liên hồi. Chẳng khác chi con búp-bê thủ công dân gian Nga[6]—mở con búp-bê lớn ra, thấy một con nhỏ hơn bên trong; mở con nhỏ này ra, lại thấy một con bên trong nữa, cứ thế, cứ thế, cứ thế… cho đến con sau chót, nhỏ chút xíu, không còn mở ra được nữa—giống như mọi thứ trên đời này, chập chùng, phủ trùm, chồng chéo lên nhau, ngỡ là to tát lắm, để rồi cuối cùng thấy cái gì cũng nhỏ nhoi, vô nghĩa như nhau.
Trần C. Trí
_________________________________________________
[1] Trong tuyển tập Tiếng Thì Thầm Trong Bụi Tre Gai do nxb Tin (Paris, 1995) ấn hành.
[2] Nguyên văn tiếng Anh “You never really understand a person until you consider things from his point of view… Until you climb inside of his skin and walk around in it.”
[3] truyện ngắn này (trong tuyển tập Những Miểng Vụn Của Tiểu Thuyết, nxb Người Việt, 2008) là một trích đoạn trong trường thiên tiểu thuyết Bà Phi xuất bản ở hải ngoại 40 năm sau khi được sáng tác (nxb Đầm Sét, 2009).
[4] Nguyên văn tiếng Anh “Multiple points of view let me examine characters from entirely different perspectives, allowing me to learn more about everyone in the process,“ trích trong bài blog của chính tác giả trên Barnes & Noble có tựa đề “An Ember in the Ashes Author Sabaa Tahir Makes a Case for the Multiple POV Novel”.
[5] Nguyên văn tiếng Pháp “Constater l’absurdité de la vie ne peut être un fin, mais un commencement,” trích trong bài phê bình của Albert Camus trên tạp chí Alger-Républicain về cuốn tiểu thuyết La Nausée (1938) của nhà văn Jean-Paul Sartre.
[6] Tên gọi của loại búp-bê bằng gỗ này là матрёшка (“matryoshka”).
Cám ơn giáo sư Trần Chấn Trí đã bỏ công vào sưu tầm các tác phẩm của Thảo Trường và cho một bài viết về Thảo Trường rất phong phú, chi tiết và hay. Cám ơn còn nhớ đến Thảo Trường sau 15 năm.