Trang chính » Biên Khảo, Giới thiệu tác giả, Giới thiệu tác phẩm, Nhận Định, Văn Học Hải Ngoại, Văn Học Miền Nam Việt Nam 1954-1975 Email bài này

Nhà thơ Viên Linh: Khởi hành từ Thủy Mộ Quan (kỳ 1)

thuy-mo-quan-vien-linh_thumb.jpg

 

clip_image002

Viên Linh- Thơ, Bút, Mực

Văn chương. Hạnh phúc. Cuộc đời v.v.
Viên Linh

Nhà thơ Viên Linh, người bạn thuộc Văn Học Miền Nam, lìa đời vào cuối tháng 3. 2024. Lần cuối gặp nhau, đúng 6 năm trước, ông bất ngờ đưa cho chiếc bút máy Mont Blanc, “vật bất ly thân” luôn trên bàn viết, trong túi áo, ít nhất từ năm 1995. Màu mực xanh lá cây cũng từ những lọ mực Mont Blanc với hình dáng như một chiếc giếng có mạch ngầm. Thấy tôi ngần ngại, ông thở dài:

– Anh không cần đến nữa. Em cầm mà nhớ đến anh, cố viết về tờ Khởi Hành. Em và anh vẫn bảo nhau, Phải viết, không thì họ sẽ viết thay cho mình, chưa chắc đã tốt đẹp. Em đã đem công lý về cho Huỳnh Văn Lang-Bách Khoa, về cho Mặc Đỗ-Tự Do. Chẳng lẽ em để mặc sức thiên hạ muốn viết gì về Khởi Hành thì viết? Em bỏ sức cho nó quá nhiều, 20 năm hơn còn gì. Nếu em không nghĩ đến em, không nghĩ đến anh, thôi thì cũng nghĩ đến độc giả bạn bè đã nuôi nó sống…

Gần ba mươi năm mỏng mảnh duyên văn chương chỉ dồn lại một vài phút. Người đàn ông ngày nào đã đầu xanh vừa bạc một đời lưu vong (Viên Linh). Tôi nhận chiếc bút, đúng hơn, chạm vào bàn tay, những ngón xương xương có lẽ từ còn trẻ dù ông không gầy gò. Hai anh em vốn không suồng sã. Bao nhiêu năm, mỗi lần đến tòa soạn làm việc, tôi đều hẹn trước. Bấy nhiêu năm, ông rủ tôi xem ciné cuối tuần, cũng luôn hẹn trước. Họa hoằn, cùng người bạn thân ghé thăm mang thêm chai rượu, cũng có hẹn cẩn thận. Chia tay, ông thường nhắc, hơi ngượng vì biết tôi kiêng bị chú ý đến đời riêng:

-Anh làm ơn để ý “người ta” một tý. Sao “người ta” hay ốm vặt thế. Mấy tuần nay mặt mũi “người ta” hốc hác, mắt trũng sâu quá.

Và mười lần như một, người bạn lại vỗ vai ông, an ủy: “Lúc nào mắt cô ấy không trũng sâu quá? Lúc nào cô ấy không gầy gò quá? Lúc nào cô ấy không khảnh ăn quá? Lúc nào anh không kêu ca nhiều quá!? Anh xem thường tôi thế nhỉ? Quên tôi được phong lưỡng quốc Lang Tây à?” Rồi cười lớn hơn, kèm bắt tay từ giã: “Tôi làm ơn cho anh đấy nhé, không cho ‘người ta’. ‘Người ta’ ốm to thì đào đâu ra người làm việc không công cho anh?

Chúng tôi yên lặng trong buổi sáng rạng rỡ, chiếc bút bây giờ nằm trong tay tôi. Một chiếc bút to bản dành cho đàn ông. Tôi mở nắp, cầm bút viết xuống trang giấy 2 câu thơ rất nổi tiếng của ông: Ở đây sầu đã tan tành/Người đi chưa đủ về quanh chiếu ngồi. Ông ngả người ra ghế, u sầu. Viên Linh dọn về Virginia lần thứ 2 vào những tháng cuối 2018. Tôi đã vào bệnh viện từ cuối tháng 3. Không bao giờ gặp lại ông nữa. Nửa năm sau, gượng được dậy, tôi dở chồng thư chưa mở, xếp lệch lạc trên chiếc bàn nhìn ra vườn phất phơ mấy cánh hoa dại. Phong trần đến cả sơn khê. Tang thương đến cả hoa kia cỏ này (Nguyễn Gia Thiều). Một chiếc ảnh rơi ra từ bao thư lớn. Riêng ông, vẫn nguyên nét rạng rỡ ngày ấy:

clip_image004

Chủ nhiệm & Chủ bút Viên Linh & Thư Ký Tòa soạn Khởi Hành Nguyễn Tà Cúc
Santa Ana, California, tháng giêng, 2002
Ảnh: Nhà văn Đỗ Tiến Đức

Kèm vào bức ảnh là mảnh giấy có mấy câu thơ cũ mà tôi rất thích–không biết ông làm trong hoàn cảnh hay quãng thời gian nào–chép lại bằng mực đen vì ông đã cho đi chiếc bút. Đây là lần thứ hai tôi nhận được khác với lần đầu chữ bằng mực xanh khi tôi trở lại Pennsylvania vào năm 2007.

Giờ này Em ở đâu
Em của âm thầm lặng lẽ.

*

Tưởng tượng em bên 1 gốc sồi
Ngó lên cây cao nghìn tuổi.

*

Em nghĩ gì về chuyện trăm năm?
Như mây bay
Như gió nổi
Như đời giông bão gian nan.

*

Em có nghe chăng sợi nắng
Reo rì rào trong ngàn vàng
Em có thấy cánh bướm
Đo chập choạng thời gian xanh?

*

Chiếc lá khô trên trời
Vừa tìm về gốc cội
Tiếng ca nào trong không
Vừa chìm vào bóng núi.

*

Hãy trả về trời câu ân ái
Anh nghe nức nở cõi lòng riêng. [Viên Linh]

 

Cuối năm 2019, một bức thư khác, dài trang rưỡi, chữ đã run:

clip_image006

Viên Linh, “Viên Linh gửi Ng. Tà Cúc
Ngày 11 tháng 11.2019, Virginia

 

– Gác máy sau khi gọi và nói chuyện với Cúc qua cell phone (000)-000-0000. Không ngờ giờ này Cúc còn làm việc […] Cảm thấy con người không có gì thay đổi. Con người (qua cách nói chuyện) vẫn như xưa. Thế là tốt (…) Sẽ viết cảm ơn Cúc thời gian từ (…) xuống Midway City, Westminster, Quận Cam (và Santa Ana) làm 248 số báo Khởi Hành […] Đi đưa báo ở Huntington Beach! Đóng gấp báo ở đường Kramer, Bolsa Avenue, Jefferson St… Trong tất cả, Nguyễn Tà Cúc là người duy nhất đã với tôi trên toàn thể đời sống từ riêng tư tới ngoài xã hội, trong các tòa soạn, giữa phố xá ngã tư, sóng bước trên hè đường hay ngồi trên một chiếc xe, nơi một hàng quán hay giữa một hội trường cả chục cả trăm người, bằng hữu hay quan khách-ở phòng hội nhật báo Người Việt, ở tòa soạn Khởi Hành hay Phòng Khánh Tiết Thành phố Westminster trong những cuộc tiếp xúc với cộng đồng quan khách hay văn giới đoàn thể. Nguyễn Tà Cúc đã luôn luôn cùng tôi tiếp đón độc giả, bằng hữu, văn giới, quan khách một các hòa hợp và tốt đẹp đưa đến thành công từ lúc thực hiện biên soạn tờ báo đưa tới nhà in Westminster Press hay Number One Printing, tới lúc chở cả ngàn tờ báo đem ra Bưu Điện gửi cho độc giả dài hạn ở khắp các tiểu bang hay các tiệm sách, xạp báo từ California, Toronto, Bonn, Frankfurt, hay cả Honolulu (Hawaii), Saigon, Hànoi. Chúng tôi đã thành công nhờ cả hai, và nhờ Tà Cúc đã hy sinh và tự chế…” [Viên Linh, “Viên Linh gửi Nguyễn Tà Cúc”, Virginia, Thứ hai, ngày 11.11.2019]

Chưa bao giờ ông viết rõ về cả hai và Khởi Hành đến thế:

Chúng tôi đã thành công nhờ cả hai, và nhờ Tà Cúc đã hy sinh và tự chế.

Lá thư trên là sự chứng nhận chính thức từ Chủ nhiệm kiêm Chủ bút dành cho Thư Ký Tòa Soạn thay cho lời biểu đồng tình với tiểu sử tạp chí Khởi Hành-Hoa Kỳ đang được soạn thảo, hy vọng sẽ xuất hiện trong tương lai dưới dạng một tác phẩm, trước khi cả hai qua đời. Tiểu sử ấy–của tạp chí văn học duy nhất ấy trong cả văn sử Miền Nam lẫn hải ngoại vì không thay đổi 2 người điều hành (mà một người là phụ nữ) từ khởi đầu đến kết thúc và đúng nghĩa báo bán một cách chuyên nghiệp– càng cần thiết hầu triệt tiêu mọi ngộ nhận, cố tình hay không, khiến dẫn tới một chân dung thiếu xác thực như đã xẩy ra cho nguyệt san Bách Khoa-Huỳnh Văn Lang và nhật báo Tự Do-Mặc Đỗ.

Tôi còn xác nhận thêm một điều vốn vẫn hồ nghi, khi mắt không ngừng di chuyển trên những giòng chữ gẫy, kín hơn một trang thư. Thơ, với ông, cực kỳ quan trọng, nhưng nguyệt san Khởi Hành (tái lập tại Hoa Kỳ) vẫn đòi ở lại trong một ký ức nay đã bắt đầu lãng đãng. Ngỡ hồn dĩ vãng vẫn kêu oan (thơ Viên Linh). Ông đủ vương vấn để nhắc tôi thuật lại ơn hồi sinh mãnh liệt giúp tái tạo đời người và đời văn, khởi đi từ bi kịch riêng vào quãng 1989-1990 và cơn tai bay vạ gió cuồng nộ chỉ gần mươi năm sau (1996), tưởng chừng như đã nuốt chửng ông vào bãi cát lầy sống tuồng như chết.

Trước 1975, ông vốn là nhà văn/nhà thơ duy nhất của Văn Học Miền Nam kiêm Thư ký Tòa soạn của mấy tạp chí văn học như Nghệ Thuật, Khởi Hành và vài tờ nhật báo có tiếng. Ông là người đặt danh hiệu CHÓE cho nhà biếm họa này. Ông nổi tiếng về nghề trình bày sách báo. Là người cộng tác với ông hơn 20 năm, tôi sẽ trình bày về phần chính quãng đời hoạt động văn nghệ sau 1975 khi ông định cư rồi qua đời tại Hoa Kỳ, một quãng đời rất ít người biết rõ, thậm chí hiểu lầm.

Nhưng hãy nói về Thơ trước, về Lục bát Viên Linh– mượn chữ Tuệ Sỹ, trước 1975 và Thủy Mộ Quan, sau 1975.

1. Lục bát Viên Linh Nơi đây trời rộng cây già/Cúc Hoa, thân thể quê nhà đã tanh

Khi Viên Linh qua đời, tôi có ý tìm xem độc giả nhận xét thế nào về thơ Viên Linh, một trong ba nhà thơ được biết đến nhiều của Miền Nam, bên cạnh Thanh Tâm Tuyền và Tô Thùy Yên. Nhà phê bình Đoàn Nhã Văn và nhà thơ Long Nguyen nhắc tới thơ lục bát.

1.1 Đoàn Nhã Văn, Mà không chỉ lạ, nó còn rất “quái”

Đoàn Nhã Văn dùng một chữ rất đắc vị cho Thơ Viên Linh: “quái”. Đúng thế, vừa “quái” vừa “đáng nhớ”:

– Ông viết văn, làm thơ. Tuy nhiên, tôi thích nhất là những bài lục bát của ông. Lục bát, có thể nói, khởi đi từ đại thi hào Nguyễn Du, qua bao sóng dập, gió dồn, đến Huy Cận, Bùi Giáng, Viên Linh, Cung Trầm Tưởng, rồi Nguyễn Duy, Đồng Đức Bốn… Trong đời, họ đắm mình nhiều lần trong lục bát. Riêng nhà thơ Viên Linh, ông không thực sự sống chết cùng lục bát. Ông đến, rồi đi. Tuy nhiên, những bài lục bát của ông là những bài thơ đáng nhớ. Thơ ông mang rất nhiều hình ảnh lạ. Mà không chỉ lạ, nó còn rất “quái”. Chẳng hạn:

Ở đây sầu đã tan tành
Người đi chưa đủ về quanh chiếu ngồi.

Hoặc:

Chiều nay mưa dưới âm ty
Ta nghe kiếp trước thầm thì hỏi han.

Hoặc là:

Thiếu em, lan thiếu một nhành
Tay dư mười ngón, bóng hình dư gương

Bánh lăn, trục cuốn chiếu giường
Một nghìn cửa sổ thiếu đường tìm em.

Còn nữa:

Thiên cùng Địa tận về thôi
Ở đây trời đất và tôi một người…

[Đoàn Nhã-Văn, “Lục bát Viên Linh”, Đăng ngày 30.4.2024- https://www.nguoi-viet.com/tuong-nho/luc-bat-vien-linh-2/]

Viên Linh có rất nhiều chữ “quái”, trong và ngoài lục bát. Chẳng hạn chữ “v.v.” trong Văn chương. Hạnh phúc. Cuộc đời v.v…:

Sao không tỏ. Thét sao băng
Vụt nghe tiếng hạc trong trăng gọi mời.

Chúng ta một lứa bên trời
Yêu nhau yêu tự cõi đời sơ tân.

Ba sinh hương lửa có gần
Gửi em đầy đủ
Thân
Tâm
Ý
Lời

Gửi em tiếng khóc câu cười.
Văn chương. Hạnh phúc. Cuộc đời v.v.

Viên Linh dùng chữ Miền Nam rất tài tình: Sao không tỏ. Thét sao băng. “Thét” ở đây có nghĩa là “thế rồi, mãi rồi”. Ông đắc ý kể cho tôi nghe có vài người bạn Bắc kỳ không đoán được chữ “thét” này. Trong tâm sự gửi “Ông bạn trẻ”, viết ngày 5.6.1972 đăng trên số báo cuối của Khởi Hành, tại tòa soạn đường Phạm Ngũ Lão, Viên Linh cũng xen vào mấy đoạn thơ thực “quái” (mượn chữ Đoàn Nhã Văn). Cũng chỉ có dân Miền Nam mới hiểu mấy chữ “hồn ma vú dài” xuất xứ từ đâu:

Trong tôi có cái gì thừa
Cái gì lại thiếu, cái vừa như in?

Trong tôi có cái ưa chìm
Cái gì lại nổi mà tìm không ra?

Ngó vào Trời Đất bao la
Trước gương lộn cổ hồn ma vú dài.

*

Trong tôi La Hán nghìn tay
Phạm Nhan phạm thủ tối ngày lo toan

Ngó ra Trời Đất bàng hoàng
Soi gương tự ải hồn oan mấy người.

[Tuần báo Khởi Hành đình bản, Số 156, ngày thứ năm 8 tháng 6, năm 1972]

Khác với Đoàn Nhã Văn, nhà thơ Long Nguyen chú trọng đến cách gieo vần và làm mới lục bát.

1.2 Long Nguyen, Cũng như Truyện Kiều, chúng có khả năng tự làm mới theo thời gian

Được nhắc đến trong cùng một đoạn với Truyện Kiều là một hân hạnh cho bất cứ người làm thơ lục bát nào:

Lục bát Viên Linh còn giữ được cái duyên của gieo vần lưng thơ Việt. Lục bát Viên Linh không cũ. Cũng như Truyện Kiều, chúng có khả năng tự làm mới theo thời gian.

Đêm qua tầm tã cây mưa
Văn chương vô mệnh hoang sơ lắm rồi

Hỏi ta đừng hỏi bằng lời
Một cây rụng lá vườn trời không bay

*

Đêm qua giấy hỏi câu này
Tay ai cầm bút ban ngày hỏi ta?

(trích, “Chữ nghĩa”)

Cảm ơn câu hỏi đêm qua
Sáng nay giấc mộng quê nhà lại xanh

Hỏi rằng Bến Hải Sông Gianh
Bờ Nam bờ Bắc lòng anh bờ nào?

*

Lòng anh quanh quẩn bờ ao
Như con nhện nước ra vào lưới trong

(trích, “Cám ơn”)

[Long Nguyen, “Nhà thơ Viên Linh qua đời tại Virginia, Hoa Kỳ”, Đăng ngày 30.3.2024- https://damau.org/99502/nh-van-vin-linh-qua-doi-tai-virginia-hoa-ky ]

Lại thêm một người nữa hiểu thơ bạn tôi hơn tôi. Một buổi trưa cuối tuần, khoảng 2006, đang làm việc tại Tòa soạn Khởi Hành, Viên Linh rót rượu, đọc mấy câu ảm đạm: Văn chương vô mệnh hoang sơ lắm rồi, đoạn thầm thì vài lần Văn chương vô mệnh, văn chương vô mệnh…Ông cao hứng ngân nga thêm:

…Tôi từ trang sách tro than
Hồn ma theo cánh phượng hoàng tái sinh

Bóng chiều rực rỡ bình minh.
Văn chương vô mệnh nhập hình núi sông

Chữ bay theo nẻo tiên rồng
Mực từ thân xác thuồng luồng gọi mưa…
[Viên Linh, “135. Tôi, II”, 60 năm Thơ Tuyển 1955-2015, trang 170, Nhà Xuất bản Khởi Hành, California, 2017]

Son phấn và văn chương, nỗi nào “hữu thần”, nỗi nào “vô mệnh”? Hay cả hai:

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư… [Nguyễn Du, Độc Tiểu Thanh ký]

Mượn lời Long Nguyen, “Lục bát Viên Linh không cũ”. Làm mới lục bát rất khó. Đó là một thể thơ thách thức thời gian, không phải vì quá khó, ngược lại, vì quá dễ làm, đã gạch một nét đậm trong tâm hồn dân Việt. Cả 2 điều này đã được nhắc đến trong một cuộc thảo luận của Nhóm Sáng Tạo về chủ đề Thơ từ năm 1960, khi các thể thơ có vần, điển hình là Lục bát, có vẻ bị yếu thế trước thơ Tự do đang thời sung sức. Tôi không ngạc nhiên khi chủ soái trường phái Tự Do Thanh Tâm Tuyền khai chiến với Cung Trầm Tưởng, một trong những chủ soái của trường phái Lục bát:

THANH TÂM TUYỀN: Thơ bây giờ không phân biệt với thơ xưa bởi số câu số chữ. Người ta đã rất ấu trĩ khi nói rằng trong ca dao, trong thơ cổ, trong Tản Đà, Thế Lữ, đã có thơ tự do. Sự thực thì hình thức bị phá vỡ bây giờ cũng chính là nội dung. Tôi muốn nhận định về một tình trạng mới xảy ra ít lâu nay trong thơ chúng ta: nhiều nhà thơ bây giờ có khuynh hướng hồi sinh lại thể lục bát. Tôi thấy lục bát bây giờ khác hẳn lục bát của ca dao, của Nguyễn Du, của Huy Cận. Muốn hỏi ý kiến vấn đề này với anh Cung Trầm Tưởng. Vì nếu tôi không lầm anh sửa soạn cho in một tập thơ lục bát bây giờ.

CUNG TRẦM TƯỞNG: Thể lục bát, một thể thơ thuần túy Việt Nam vẫn còn có thể diễn đạt được khát vọng của người thơ hôm nay. Ngôn ngữ thơ bây giờ vẫn có thể biểu hiện qua thể lục bát mà không bị cưỡng ép và rơi vào cạm bẫy thơ lục bát thời trước.

DUY THANH: Tôi hy vọng thể thơ lục bát có thể hay và mới được. Gia dĩ nó lại có chất “dân tộc tính” Việt Nam.

THANH TÂM TUYỀN: Tôi muốn hỏi ý kiến về vấn đề lục bát vì muốn biết đó có phải là sự hóa thân thực sự cho một thể thơ đã có mấy nghìn năm hay chỉ là những giây phút mệt mỏi chán chường vì sự gặm nhấm của mối bất lực ngôn ngữ mà chúng ta đã nói ở trên, và những nhà thơ làm thơ lục bát bây giờ tìm về một chốn nghỉ ngơi tạm thời? Chính nhiều lúc tôi có tâm trạng này.

TÔ THÙY YÊN: Đôi khi tôi cũng làm thơ lục bát và thơ đều chữ. Nhưng khi làm những bài thơ như vậy tôi không nghĩ là làm thơ lục bát hay thơ đều chữ, mà là làm thơ bây giờ. Sự mới mẻ trong thơ không phải là số chữ, số câu mà chính là trong tâm tư bài thơ ấy. Niêm luật thường là chỗ ẩn tránh mờ ám của những thi sĩ bất tài nối liền những vần bằng phẳng không tạo được cho bài thơ một tiết điệu riêng. Bất cứ với một thể thơ nào, người làm thơ cũng phải tạo cho bài thơ một tiết điệu thích hợp với tâm tư của nó. Ví dụ câu thơ này của Hồ Xuân Hương:

Một đèo, một đèo, lại một đèo

Và tất cả giá trị âm thanh của câu thơ này là đã đi liền một cách khéo léo với hình ảnh.

CUNG TRẦM TƯỞNG: Trả lời thắc mắc của anh Thanh Tâm Tuyền: tôi không hề bao giờ thấy làm lục bát là một sự nghỉ ngơi dễ dãi. Trái lại đó là một khai phá khó nhọc cho những chân trời mới lạ mà tôi tin thơ lục bát còn chứa đựng… [“IV. Nói chuyện về Thơ bây giờ-Thảo luận giữa Cung Trầm Tưởng, Doãn Quốc Sỹ, Duy Thanh, Lê Huy Oanh, Mai Thảo, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Thái Tuấn, Tô Thùy Yên, Trần Thanh Hiệp”, Thảo-luận giữa Cung Trầm Tưởng, Doãn Quốc Sỹ, Duy Thanh, Huỳnh Văn Phẩm, Lê Huy Oanh, Mai Thảo, Ngọc Dũng, Nguyễn Sỹ Tế, Thanh Tâm Tuyền, Thái Tuấn, Tô Thùy Yên, Trần Thanh Hiệp, trang 145-146, Nhà Xuất bản Sáng Tạo-Tủ sách Ý Thức, Sài Gòn, tháng 4.1965]

Tôi phải công nhận nhà thơ Hà Huyền Chi nói đúng: Lục bát là cửa tử, một thứ Nhạn môn quan cho bất kỳ ai. Bởi thế, sau này, khi thân với Tô Thùy Yên, tôi đã không đồng ý với nhận xét: “Niêm luật thường là chỗ ẩn tránh mờ ám của những thi sĩ bất tài nối liền những vần bằng phẳng không tạo được cho bài thơ một tiết điệu riêng…” Theo tôi, đã là “thi sĩ” hay “nhà thơ” thì không thể có chữ “bất tài” đi kèm. Trừ phi danh hiệu ấy thuộc loại tự phong hay được các nhà phê bình… bất tài phong tặng thì đâu còn gì để bàn.

Riêng tôi, tôi còn để ý tới “Cúc Hoa” và “Kim Xuyên”, 2 chủ đề giúp làm mới và làm khác Lục bát Viên Linh.

1.3 Cúc HoaKim Xuyên: Bóng em thấp thoáng lối về địa phủ (Viên Linh)

Đây là một trong số nhiều bài Cúc Hoa của một địa phủ vẫn chờ đợi. Loạt Cúc Hoa bắt nguồn, nhưng không dừng lại từ một hình bóng qua đời ông lúc quá trẻ mà khi từ giã ông và cuộc đời, cũng vẫn quá trẻ. Ở đây, rốt cuộc Phạm Công, không phải Cúc Hoa, mới cần được dẫn đường ra khỏi âm ty:

Cúc Hoa

Gù lưng nghĩ một canh trường
Ở không cũng động muôn phương cõi này

Ầm ầm mưa đổ bên tai
Cúc Hoa, anh ngủ nghìn tay kéo đầu.

*

Gù lưng tính chuyện nông sâu
Tóc ta rơi rụng hồ châu lệ người

Đầm đầm máu nhỏ thân tươi
Cúc Hoa, em ngủ quên đời quạnh hiu.

*

Gù lưng đến xứ tiêu điều
Hai vai ác quỉ trong chiều thánh ca

Nơi đây trời rộng cây già
Cúc Hoa, thân thể quê nhà đã tanh.

Và đây là một trong những bài Kim Xuyên. Viên Linh có ít nhất ba bài mang tên Kim Xuyên. Một trong những trang đầu Hóa Thân xuất bản ở Sài gòn (1964) đã ghi tên 6 tác phẩm sẽ được xuất bản, trong đó có Cúc HoaChị Lê Kim Xuyến. Bản thảo Cúc HoaChị Lê Kim Xuyến đã thất lạc khi rời Sài Gòn, chỉ còn những bài lẻ tẻ thu thập được trên báo chí Miền Nam.

Kim Xuyên

Đêm đi gõ nhẹ tuổi đời
Mắt tôi đồn vọng canh trời truy hoan

Ga thôn tính mộng điêu tàn
Toa không từng chặng còn đang dồn về

Thương mình bước mỏi phân ly
Cây khuyên nhủ mộng một kỳ chiêm bao

Hôn em ôi khổ ngần nào
Tay dơ bến gọi cúi chào anh đi

Xe lên tiếng thở thầm thì
Trong tay thuốc đỏ một vì cô đơn

Lên đây thấy dạ bồn chồn
Ván khô lưng tựa nghe mòn tiếng ru

Kiếp xưa cánh vỗ nghìn thu
Trời non biển cạn quên dù hồi sinh

Lên cao trẻ dại tan tành
Lũng sâu thu nhặt ít ngành héo khô

Đời coi hiu quạnh đến giờ
Canh khuya nến thắp ngồi hơ ngón gầy

Tuổi mòn rút nhỏ móng tay
Biển du tàn mộng quên ngày Kim Xuyên.

Cuối cùng là “Bài phượng liên”, được biết đến khá nhiều. Ông làm bài này khi quen với Công Tằng Tôn nữ Phùng Khánh (dịch giả Phùng Khánh) lúc ấy còn ở Huế, trước khi xuất gia đầu Phật thành ni cô Trí Hải. Tên của bài thơ này rất “quái” (mượn chữ Đoàn Nhã Văn) vì có chữ “Bài” ngay trong tên bài thơ và “phượng liên” không viết hoa. Tên bài thơ chỉ viết được đúng mỗi một lần, theo tôi biết, khi xuất hiện lần đầu trên Hiện Đại (Nguyên Sa chủ trương) số 2, tháng 5.1960. Trước khi dọn về Virginia vào cuối năm 2017, ông tặng tôi cuốn Hóa Thân tái bản đã được sử dụng như một thứ bản thảo với nhiều thay đổi theo ý muốn. Ông viết “của Phùng Khánh” dưới tên bài “Phượng Liên”.

clip_image008

Viên Linh, Phượng Liên
“của Phùng Khánh”, bút tự của Viên Linh
 

Tôi chép lại theo đúng ý nguyện của ông:

Bài phượng liên
của Phùng Khánh

 

Anh đi hồn tiếc thương nhiều
Ngọn soan thưa lấp bóng chiều cuối sân

*

Nẻo sầu đôi dạ phân vân
Nửa thân yên ngựa nửa thân tay mình

*

Có hoài tuổi dại không em
Trời thôi ráng đỏ thu phiền không gian

*

Mắt em đầy mộng điêu tàn
Yên nghe ván ấy xuôi tràng giang xa

*

Thôi cồn với tháp bao la
Ngựa đi bước nhỏ mây là cửa ô

*

Mai quen với dạ bơ thờ
Hơi nghe lãng đãng sương mù nhớ nhau

*

Thôi còn giấc ngủ canh thâu
Một hành lang rộng vây sầu phượng liên.

Với tôi, loạt Cúc Hoa đại diện người chết vẫn sống và loạt Kim Xuyên thay cho người sống vẫn chết trong cảm hứng thơ Viên Linh. Trong Văn Viên Linh, còn có Liên. Liên cũng là bóng ma, những bóng ma đi tìm hạnh phúc. Ông đã nói về những bóng ma này khi trả lời Nguyễn Xuân Hoàng vào tháng 3.1972. Nguyễn Xuân Hoàng cho in lại bài phỏng vấn Viên Linh– đã đăng trên Văn, Số Đặc Biệt về Thơ, ngày 15 tháng 3, 1972 tại Sài Gòn –vào Văn số 95 & 96, tháng 11 & tháng chạp, 2004 dành cho Chủ đề Viên Linh:

N.N.A. [Nguyễn Nam Anh – bút hiệu của Nguyễn Xuân Hoàng]: Ông yêu nhân vật nào nhất trong những nhân vật của ông?

V.L.: Trong hầu hết các truyện dài của tôi, đều có một người đàn bà tên Liên. Tôi yêu nhân vật này nhất. Ông muốn biết tại sao? Đó là người tôi chưa bao giờ gặp. Có điều mỗi khi cầm bút để khởi đầu một cuốn truyện dài, tôi đều thấy thấp thoáng bóng ma đó. Bóng ma, chữ này có đúng để nói đến một ám ảnh chăng?

Ám ảnh gì thế, thưa ông?

Hạnh phúc. Nàng luôn luôn là người đi tìm Hạnh Phúc.

Liên xuất hiện trong hầu hết các truyện dài của ông, như thế có nghĩa là nàng sẽ còn có dịp xuất hiện nữa?

Đúng như thế. Tôi chưa bao giờ thấy nàng tìm được Hạnh Phúc cả.

Trong thơ, ám ảnh của ông có lẽ là Cúc Hoa?

Cảm ơn ông, đúng như vậy.

Vậy thì Cúc Hoa là ai?

Chắc ông có đọc Phạm Công Cúc Hoa? Cúc Hoa cũng không ngừng đi kiếm tìm Hạnh Phúc. Nàng đã tới Địa Ngục để tìm nữa. Nàng là một thứ Hạnh Phúc địa ngục. Từ năm 1962, tôi đã khởi viết lại một thứ Phạm Công Cúc Hoa mới, xong chưa đi đến đâu. Tôi chỉ mới làm được những bài Cúc Hoa rời rạc, một phần đã đăng báo, hoặc in trong tập Hóa Thân, như ông biết… [Nguyễn Nam Anh, “Đi xa với Viên Linh”, Văn số 95 & 96, tháng 11 & tháng chạp, 2004, trang 64]

Nguyễn Xuân Hoàng cũng cho đăng lại bài của nhà phê bình Nguyễn Nhật Duật, người phân tích sự liên hệ giữa bóng ma và hạnh phúc qua bài “Cúc Hoa và Viên Linh trong Vườn Quên Lãng” [sđd, trang 89-97].

clip_image010

Viên Linh, Vườn quên lãng, Hồng Hà xuất bản, 1970

Khởi Hành tái bản Vườn quên lãng vào tháng 3.2016 cùng Phụ Lục gồm Bạt và “10 Bài thơ gửi Cúc Hoa gom lại in lần đầu”. Đây là “Cứ cơn mưa đổ”, bài thứ 9:

Cứ cơn mưa đổ

Nhớ em, em một phương trời
Hơn hai mươi tuổi, bến đời sang ngang
Chiếc hồn luân quách cư tang
Ba sinh hương lửa trần gian đợi chờ.

Em đi từ đó đến giờ
Cứ cơn mưa đổ anh ngờ có em.
Mưa rơi thánh thót ngoài thềm
Cửa mưa anh mở dưới miền hóa sinh. 

Tìm em, lớp lớp u minh
Cúc Hoa, sao chăng hiện hình hóa thân.
Nhớ em từ thuở thanh tân
Lầm anh giữa lúc quỉ thần đổi vai.

Nhớ em, trong giấc ngủ dài
Lầm anh trong lúc ở ngoài hư không.

*

Cúc Hoa, giờ đã hừng đông
Thôi anh trở lại con sông trần hoàn.

Nguyễn Nhật Duật kết luận Cúc Hoa đã, sau cùng, nhòa đi như hình ảnh cô gái áo đỏ tưởng đã nhảy cầu tự tử. Thay vào đó là Xuân Lan-nhân vật nữ, một người rất sống rất tươi đẹp rất hiển hiện, nhưng cũng sẽ biến đi như Cúc Hoa, đẩy Chính-nhân vật nam tiếp tục cuộc truy tầm hạnh phúc. Tôi thích cách giải thích này của Nguyễn Nhật Duật khi ông phản chiếu được một cá tính khác của tác giả mà tôi biết: ham sống yêu đời. Chính cá tính ấy cho thấy, tuy dõi theo hạnh phúc đã chết—những Cúc Hoa những Kim Xuyên những Liên— Viên Linh bao giờ cũng vẫn ước mong đạt được hạnh phúc trong cõi sống qua hình bóng Xuân Lan.

Hạnh phúc và ám ảnh cá nhân ấy sẽ chuyển động vào một thế giới Thơ hoàn toàn khác sau 1975. Nếu không có Thủy Mộ Quan, đời thơ Viên Linh sẽ chấm dứt. Tính chất lịch sử nghiệm từ huyền sử lập quốc và thực tế di dân sẽ tạo thành nhà thơ Viên Linh tỵ nạn Cộng sản tại Hoa Kỳ.

2. Thủy Mộ Quan: Thế kỷ lầm than nhân loại ốm/ Trời đau nhan sắc ám mây đen/Tháng tư huyết hải trào trong miệng/ Thượng đế se mình giảng lộn kinh (Viên Linh)

thuy-mo-quan - viên linh

Nếu được chọn trong sự nghiệp Thơ Viên Linh, tôi sẽ chọn tập Thủy Mộ Quan, trường thi lịch sử. Tác phẩm này được “Hội Sinh viên và Chuyên gia Công Giáo Việt Nam tại Mỹ Châu & Tác giả” xuất bản lần đầu tại Washington, D.C., 1982 và do Thời Tập tái bản tại California, 1992.

Nhà thơ cho chúng ta biết nguyên ủy về tập thơ của ông qua bài phát biểu “Con đường mồ mả dưới biển” khi ra mắt sách tại Paris vào ngày 28.6.1992:

-V/chương đối với người cầm bút lưu vong cũng giống như vụ gặt của một mùa hạn hán. Chữ nghĩa đối với người xa xứ cũng giống như hoa trái của thảo mộc bứng ở Giang Nam đem trồng nơi Giang Bắc. Trong suốt 17 năm ở hải ngoại, chúng tôi chỉ xb được duy nhất 1 thi phẩm: đó là cuốn TMQ này-so với 17 cuốn đã xb trong một thời gian ngắn hơn (…) mà hoa trái sai hơn. Nhưng mà suốt 1 đời đi đày, hoàng tử An Tiêm, con vua Hùng Vương, không những đã sống sót ngoài tại hải đảo, mà còn mang về quê cha một giống dưa đỏ-Thì đây cũng là một thứ dưa đỏ của một người dân lưu lạc là tôi đã vun xới tạo thành nơi xứ người (…) Khi sáng tác TMQ, tôi ra khỏi sự phù phiếm, để tìm đọc lại Sử Đất Nước, sáng tác từ Lịch sử và Huyền Thoại Dân Tộc, bắt đầu từ câu hỏi này: tại sao lại là Nước? Tại sao cái gì cũng nước? [Viên Linh, sđd]

(còn tiếp)

bài đã đăng của Nguyễn Tà Cúc

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)