Trang chính » Bàn Tròn: Chiến Tranh Việt nam, Biên Khảo, Nghiên Cứu, Nhận Định, Tư Liệu Email bài này

Từ một góc California-Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn: Cuốn sổ bình sanh công với tội (kỳ 9)

clip_image016_thumb.jpg

 

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là một phần đáng kể của nền văn nghệ thuộc Việt Nam Cộng Hòa, nhất là khi có tham dự vào chiến tranh bằng một số ca khúc và bằng thái độ chính trị sau 1975. Cùng với Thích Nhất Hạnh, ông là một trong những người được coi như “phản chiến” thiên tả từ Miền Nam được giới báo chí và truyền thông ngoại quốc nhắc đến và giới báo chí truyền thông khuynh tả khai thác nhiều nhất. Cùng với Phạm Duy thời 1954-1975, nhưng ông được giới trẻ biết đến nhiều hơn với nỗi sầu muộn của một thứ tình ca mới, lời nhạc nhân bản về một thế giới không bình an và nỗ lực tranh đấu cho thế giới ấy bình an hơn, cũng bằng lời nhạc. Sau 1975, một số ca khúc và phát biểu về Miền Nam của ông sẽ góp phần vào lịch sử của một cuộc chiến vẫn cần bằng chứng để được xét đoán cho công bằng cho cả hai bên tham chiến cùng đồng minh của họ. Sau nữa, tiện thế, cũng soi sáng thêm vào cuộc chiến tại Huế Mậu Thân, về hoạt động của người Việt tỵ nạn (là chủ đích của loạt bài này) khi một trong những lý do khiến ông ở lại vì so sánh nghệ thuật với một thứ cây không sống nổi tại đất lạ.

7. Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn-Cuốn sổ bình sanh công với tội, Pétrus Trương Vĩnh Ký

7.1 Những ngày Mậu Thân- Chiều đi qua Bãi Dâu, hát trên những xác người

Tôi được biết đến lần đầu về quãng thời gian Trịnh Công Sơn tại Mậu Thân Huế là nhờ được đọc cuốn Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay [Tạ Tỵ, Lá Bối xuất bản, 1972, Sài Gòn]. Đúng như tên tác phẩm, họa sỹ Tạ Tỵ viết về Trịnh Công Sơn, Túy Hồng, Nguyễn Thị Thụy Vũ, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Nhật Tiến, Thế Uyên, Thế Phong, Bùi Giáng và Võ Hồng. Tuy phân tích lời ca Trịnh Công Sơn bằng con mắt nghệ thuật, Tạ Tỵ không khỏi có lúc bênh vực cuộc chiến tự vệ của Miền Nam, nhất là khi Trịnh Cộng Sơn không hề biết được những gì xẩy ra bên phía Cộng Sản:

-“[…]Ca khúc Ngày dài trên quê hương, nếu xét trên phương diện đấu tranh, đúng là ca khúc phản chiến. Nó đã thê thảm hoá cuộc chiến mà miền Nam chỉ đóng vai trò thuần tuý tự vệ. Thành phố kia, đồng ruộng này nếu có xơ xác và điêu tàn như vậy không phải do chúng ta khơi nguồn máu lệ! Sự có mặt hàng hàng lớp lớp thanh niên hiện diện dưới bóng cờ chẳng phải vì ham thích sự chém giết nhưng đích thực, có mặt để gìn giữ những gì mà họ có nhiệm vụ phải gìn giữ, dù vì bổn phận chứ không do ý thức. Nhưng đứng trên bình diện nghệ thuật để phê phán và xác định, thì ca khúc Ngày dài trên quê hương, chỉ là sự tỏ bày nỗi ai oán của cá nhân trước súng đạn với lo âu, căm thù và đau đớn thay, cuối cùng lại nhận thức ra mình xa lạ ngay cả với quê hương, đồng bào ruột thịt (…) Những ca khúc viết về cuộc chiến của Trịnh Công Sơn, đều mang bên trong nó, đời sống riêng. Cái đời sống thứ hai đó, không phải ai cũng thấy, ai cũng biết, khi nghe nhạc Trịnh Công Sơn, nó chính là lương tri trước cuộc chiến, ẩn nấp sau ngôn ngữ, qua giọng buồn đứt nối của âm thanh. Cái lương tri đó không được nói thẳng với mọi người, nó chỉ như chiếc bóng chập chờn thoáng hiện, thoáng mất, mà mỗi người sẽ tìm thấy ở lòng mình khi chợt bàng hoàng, thảng thốt, vì có anh em, chồng con vừa gục ngã đó đây… Trịnh Công Sơn đã nói thật những gì ẩn nấp trong đầu, qua ngôn ngữ và âm nhạc, nhưng chính điều nói thật này, hàm chứa thiên vị và phiến diện, nên thay vì vô tư, nó trở thành bất lợi cho một phía mà ở đó, sự có mặt của mỗi người là để bảo vệ, nếu không, cũng đừng làm hại nó vì ngộ nhận hay ích kỷ. Chính vì không nhìn thấy và không đoán biết những gì thuộc phía bên kia, nên phần nào Trịnh Công Sơn chủ quan, khi phổ biến ý nghĩa của riêng mình trong vấn đề chung của quốc gia. Tiếng bom có rơi ở xóm làng nào đó, đại bác đêm đêm có vọng về thành phố nữa đi, thì thái độ của con người có ý thức không thể như người phu quét đường dừng chổi đứng nghe được. Cái thái độ dửng dưng chắc chắn không phải điều cần thiết đối với người miền Nam. Khi dùng hình ảnh này, Trịnh Công Sơn muốn nói lên sự bất lực của con người trước những thảm hoạ tuy không muốn, vẫn phải chứng kiến và mỗi số phận đều phải gánh chịu cái sự thực hiển nhiên đó mỗi ngày, mỗi đêm …” [Tạ Tỵ, sđd, trang 30-32]

Tuy thế, theo tôi, Tạ Tỵ đã lầm khi cho rằng Trịnh Công Sơn quy trách nhiệm cho Cộng Sản về các cuộc tan hoang vì bom đạn và tổn thất nhân mạng trong tình huống cực kỳ kinh hoàng tại Huế:

-“[…]Trịnh Công Sơn, đã chứng kiến cuộc tổng công kích của Việt Cộng hồi Tết Mậu Thân vào Kinh Đô Huế. Sơn đã nhìn thấy tận mắt cảnh chém giết hung tàn do Cộng quân gây ra. Đã nhìn thấy bao nhiêu đổ vỡ, bao nhiêu nát tan, đau xót. Đã sống những giờ phút hãi hùng giữa lòng chiến trận với những xác người chết không kịp trối trăn, không kịp nhắm mắt và còn nhiều nữa!… Cảnh tượng này đã gây xúc động thực sự trong hồn Sơn với ca khúc: Hát trên những xác người…” [Tạ Tỵ, sđd, trang 35-36]

Không chỉ Tạ Tỵ mới lầm. Nhà phê bình Đặng Tiến, bạn nhiều năm của Trịnh Công Sơn, cũng vô tình loan một số tin tức chưa kiểm chứng được và, quan trọng hơn nữa, Trịnh Công Sơn không bao giờ “tố cáo” Cộng Sản có trách nhiệm về các cuộc giết người đó:

-“[…] Do đó, vụ Tết Mậu Thân 1968, anh ở Huế, và đã ẩn thân ở thư viện Đại Học Huế. Phe cộng sản dường như có lùng kiếm, dĩ nhiên, để yêu cầu tối thiểu là làm một bài hát ca ngợi “Ngôi sao trên đỉnh Phu văn Lâu”. Sơn đã không làm điều ấy, và ngược lại đã sáng tác hai bài tố cáo cảnh giết người, chôn người là Hát Trên Những Xác Người và Bài Ca Dành Cho Những Xác Người, với địa danh bãi chôn người chính xác : Chiều đi qua Bãi Dâu … Sau đó Trịnh Công Sơn vẫn ở Huế, làm một số bài ca gửi vào Sài Gòn, mà sinh viên, thanh niên tiếp tục hát trong những phong trào xuống đường lúc đó rất sôi nổi…”[Đặng Tiến, “Tiếng ca Hòa Bình”, Trịnh Công Sơn: Tình yêu, quê hương, thân phận, Tạp chí Văn Học, Chủ đề đặc biệt, trang 190, Hoa Kỳ]

Riêng chi tiết được lập lại tại vài chỗ khác, là Trịnh Công Sơn bị quân Cộng Sản lùng bắt, bị giết hụt hay/ và để bị bắt buộc “làm một bài hát ca ngợi” thì chưa đủ thuyết phục vì Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn chí thân, đã ăn cơm tối với gia đình Trịnh Công Sơn ngay tối sang sông lên rừng với Mặt Trận. Sau này, Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ cư ngụ tại ngay căn nhà này khi Trịnh Công Sơn cùng gia đình chuyển vào sống tại Sài Gòn. Căn nhà đó hiện trở thành địa điểm lưu niệm có tên “Gác Trịnh” tại Huế (nếu không lầm). Tôi còn thấy loại tin tức này rất khôi hài là đằng khác: Cộng Sản cần giữ cho ông sống để sử dụng một cách tài tình trước và sau 1975 (sẽ dẫn chứng sau).

Phần “Trịnh Công Sơn-Với tiếng ru máu lệ” trong Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay chấm dứt bằng phụ trương “Văn TRỊNH CÔNG SƠN-HUẾ HÔM NAY” với 2 giòng ghi chú ở cuối:

“(Dispatch News Service International Inc., 1968.) Bản dịch từ Anh ngữ của T. K. Dung.” [Tạ Tỵ, sđd, trang 72]

Phụ trương ấy với một bài nói chuyện giữa Crystal Erhart và Trịnh Công Sơn vào ngay cùng một thời gian sẽ góp phần cho thấy quan điểm của ông một cách rõ ràng hơn.

7.1.1 Chiều đi lên đồi cao, hát trên những xác người/Tôi đã thấy, tôi đã thấy/Trên con đường, người ta bồng bế nhau chạy trốn… Hát trên những xác người, 1968

Cuộc giao tranh tại Huế vào Tết Mậu Thân với hậu quả là cuộc thảm sát do Cộng Sản gây ra đã lưu lại một số phản ứng dây chuyền từ chiến trường tới sáng tác và quan điểm một số văn nghệ sĩ Miền Nam. Trong số ấy, Trịnh Công Sơn nổi bật vì ngoài các bài hát được phổ biến rất rộng rãi, ông còn được giới truyền thông ngoại quốc xưng tụng và truyền tin. Bởi thế, hai bài thượng dẫn rất quan trọng trong cuộc đời sáng tác và, theo tôi, ảnh hưởng trực tiếp phần nào tới các quyết định và phát biểu của ông sau 1975.

Ngoài “Hue Today” in riêng dưới mục “Văn Trịnh Công Sơn”, Tạ Tỵ còn kèm bài “Trinh Cong Son: Portrait of a Vietnamese Poet/Trịnh Công Sơn: Chân dung một thi sĩ Việt Nam” của Crystal Erhart bằng Việt ngữ, nhưng nối ngay vào bài của Tạ Tỵ nên độc giả sẽ khó nhận ra nếu không chú ý [sđd, trang 58-64].

clip_image002

Thư viện Huệ Quang ấn ảnh-2017, tái bản theo nguyên bản 1972

Làm cách nào để thấu hiểu hơn hoàn cảnh của “Hue Today”, duy có một điều hầu như chắc chắn: nó không thể được gọi là “văn” và đã được Dispatch News Service International Inc dịch từ bản Việt ngữ sang Anh ngữ; sau đó, được T.K. Dung dịch ngược trở lại Việt ngữ. Trịnh Công Sơn qua đời vào năm 2001 khi tôi chưa nghiên cứu tới chủ đề này, nếu không, chắc chắn ông sẽ trả lời.

clip_image004

Chân dung Trịnh Công Sơn và thủ bút
Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay, trang 20-21

Tôi tìm tới họa sĩ Đinh Cường, người vẽ bìa cho Mười khuôn mặt văn nghệ hôm nay hầu có thể biết thêm tin tức, nhất là về việc nhạc Trịnh Công Sơn bị chính phủ cấm. Chính sách kiểm duyệt của Việt Nam Cộng Hòa không phải là không có, như thí dụ sau đây:

clip_image006

Đinh Cường, Gửi từ Pleiku, Giữ thơm quê mẹ, Xuân Bính Ngọ
Số 7 & 8, Tháng giêng & 2. 1966

 

-Thế trước đó các anh có ngại bị kiểm duyệt không? Hay các anh đã bị kiểm duyệt phần nào khi nhắc đến việc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa kiểm duyệt nhạc Trịnh Công Sơn?

Đinh Cường cười:

-Anh Tạ Tỵ lúc ấy là Trung Tá Cục Tâm Lý Chiến, anh ấy không kiểm duyệt người khác thì thôi chứ! Thật ra, anh Tạ Tỵ chỉ viết những thứ người khác đã viết rồi. Còn chính phủ cũng vẫn cho hát nhạc Trịnh Công Sơn dù nghe nói cấm đoán. Chưa ai bị bắt vì mở nhạc anh ấy trong quán. Sinh viên vẫn hát nhạc Trịnh Công Sơn. Hồi đó, chị cũng là sinh viên, chắc chị biết hơn tôi.

clip_image008

Thủ bút của họa sĩ Đinh Cường, 2015

-Không, anh ạ. Tôi không hay nghe nhạc Trịnh Công Sơn và cả Nguyễn Đình Toàn, Vũ Thành An, tôi cũng chỉ nghe qua loa. May quá cũng còn các anh là nhân chứng để tôi được hiểu rõ hơn.

Cũng theo Đinh Cường, Tạ Tỵ biết tới 2 bài thượng dẫn vì—là một trong những Trưởng Phòng thuộc Cục Tâm Lý Chiến—ông phải đọc và có đầy đủ báo chí trong nước và ngoại quốc. Nguồn tin này không phải duy nhất từ ngoại quốc mà Tạ Tỵ nhắc đến trong bài. Ngoài ra, tôi đoán Tạ Tỵ nhờ Đinh Cường trình bày bìa còn vì Đinh Cường là họa sĩ đã trình bày hầu hết cho các tập nhạc của Trịnh Công Sơn như Ca khúc Trịnh Công Sơn, Ca khúc Da Vàng, Kinh Việt Nam Như cánh vạc bay vv. Sau 1975, Trịnh Công Sơn sử dụng tranh của chính mình.

Như vậy, Trịnh Công Sơn có biết đến phần viết của Tạ Tỵ? Có phải “Hue today” do chính Trịnh Công Sơn viết rồi được dịch lại và đăng trên Dispatch News Service International, Inc vào năm 1968 và bản ấy có bao nhiêu phần trăm chính xác so với nguyên bản?

Theo tôi, chắc chắn Trịnh Công Sơn phải biết về sự có mặt của hai văn bản về ông từ Dispatch News. Tạ Tỵ không những là một trong số họa sĩ tiên phong của Hội Họa Miền Nam 1954-1975, mà cũng còn trong giới thân hữu. Có lẽ, để sửa soạn cho tác phẩm này, Tạ Tỵ đã làm một loạt chân dung ngay vào năm 1971 như chân dung Trịnh Công Sơn, Túy Hồng, Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Nhật Tiến, Bùi Giáng và Võ Hồng vv. Sau nữa, một số thủ bút của tác giả kèm theo chân dung đều ghi lại trong năm 1971 như Nguyễn Thị Thụy Vũ (28.6.1971), Dương Nghiễm Mậu (6.1971) hay Thế Uyên (6.1971) vv. Đương nhiên, sau khi được in xong vào ngày 29, tháng giêng, năm 1972 –trước đó đã được giấy phép của Sở Phối Hợp Nghệ Thuật vào ngày vào ngày 20.9.1971– mười tác giả có tên phải được nhận sách biếu của Tạ Tỵ. Trong một lần ăn Tết do Đại tá Cục trưởng Cục Tâm Lý Chiến/ nhà thơ Cao Tiêu khao với sự có mặt của Trung tá/nhà văn Hoàng Ngọc Liên, nhà thơ Viên Linh và tôi, họa sĩ Tạ Tỵ đã kể về những kỷ niệm làm sách ấy, về những bản đặc biệt có chữ ký và/hay dấu triện son của tác giả.

Ngoài ra, so sánh với tiểu sử Trịnh Công Sơn và bài viết của Crystal Erhart (một thành viên của Tổ Hợp Thông Tin Dispatch News), tôi có thể tin được tin tức trong “Hue Today”, nhưng không tin được hoàn toàn bản Anh văn vì có 2 chi tiết rất vô lý. Chi tiết thứ nhất là Trịnh Công Sơn và anh em ngồi trong nhà “bình tĩnh nhấp rượu vang trong khi đạn réo qua đầu”! Chi tiết thứ hai là “Uong Voi hill/đồi Uông Voi”. Tôi đã hỏi vài bạn Huế và cả người bạn… Google nhưng không ai biết tới một địa điểm tại Huế với tên đó. Trịnh Công Sơn là người Huế, ông không thể sai một chi tiết như vậy. Tôi lại có kinh nghiệm với một số nguồn tin ngoại quốc không chính xác nên, nếu có bao giờ cần phải xét đoán về Trịnh Công Sơn, tôi sẽ loại 2 chi tiết này dù vẫn cung cấp bản dịch của tôi cho độc giả và người khác tùy nghi xét đoán. Như đã trình bày trong loạt bài này, chủ đích của tôi không chỉ giới hạn vào Trịnh Công Sơn (hay Sean Fear như đã chứng minh trong bài trước) mà vào toàn cảnh cuộc chiến, gồm cả cái nhìn của người ngoại quốc.

Dù sao chăng nữa, tôi vẫn cần tìm nguyên bản Anh ngữ vì không thể tin vào bản dịch của người khác, lại không biết xuất xứ chính xác. May mắn thay, cả hai bài tái xuất hiện trên tạp chí Edge trên số 9 (cũng là số cuối) do kịch tác gia/dịch giả/ nhà thơ Henry Beissel làm chủ bút. Edge, một tạp chí độc lập, hiện diện hoàn toàn nhờ công sức của ông và anh chị em cộng tác và cổ động.

clip_image010

Edge số cuối, 1963-1969 , Edmonton, Alberta, Canada

Hơn nửa thế kỷ sau, tôi rất hân hạnh và cảm động khi liên lạc được với Henry Beissel vào tháng 5. 2016, không chỉ vì ông cho phép trích dẫn từ nguyên bản, mà còn vì mối cảm thông và độ lượng của ông cho một người xa lạ đã trải qua chiến tranh cùng tinh thần liên đới vì văn chương.

clip_image012

Thủ bút của Henry Beissel, chủ bút tạp chí Edge
Tháng 5.2016, Canada

Chủ đề của số báo cuối là “In Memory of the Battle of Hue: FEBR. 1-26, 1968-A Special Feature as a Tribute to the People of Vietnam/Tưởng niệm cuộc chiến tại Huế: từ ngày 1 tới ngày 26 tháng 2-Chủ đề Đặc biệt dành tặng Nhân dân Việt Nam”.

Crystal Erhart mở đầu chủ đề với “Trinh Cong Son: Portrait of a Vietnamese Poet/Trịnh Công Sơn: Chân dung của một nhà thơ Việt Nam” (sđd, trang 43-46). Ông thuật lại cuộc gặp gỡ với Trịnh Công Sơn sau Mậu Thân.

Rồi tới “Hue Today/Huế hôm nay” của Trịnh Công Sơn (sđd, trang 43-46) chứa đựng cảm tưởng về một Huế tan hoang, rã rời, nghi ngại.

Bài thơ So Ended the Battle of Hue/Thế rồi kết thúc cuộc chiến tại Huế (sđd, trang 49-51) của Michael Morrow tiếp theo sau.

Poem-Letter/Một bài thơ-Một lá thư (sđd, trang 51-53) của Lê Đức Thọ đóng lại chủ đề:

We’ll build util the North is strong/Chúng ta sẽ xây dựng cho đến khi Miền Bắc mạnh mẽ.
We’ll throw bridges to right the wrong/Chúng ta sẽ kết nối với nhau hầu sửa chữa sai lầm
To link both sides of the Ben Hai/ Để nối liền hai bờ Bến Hải [sđd, trang 53]

Theo lời giới thiệu của tòa soạn, bài thơ dài hơn 2 trang được ông làm cho người phụ nữ sau trở thành vợ thứ hai. Theo tiểu sử bài thơ, bà Nguyễn Thị Chiếu (Tám Chiếu), gốc Miền Nam trở thành vợ thứ hai khi tập kết ra Bắc. Lê Đức Thọ, bí danh “Anh Sáu”, giữ chức Phó Bí thư Trung ương Cục Miền Nam, ra Bắc trước đó, từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao chức vụ Cố vấn cao cấp Đoàn Đại biểu Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tại Hội nghị Paris.

7.1.2 Xác người nằm quanh đây, trong mưa lạnh này/Bên xác người già yếu, có xác còn thơ ngây/Xác nào là em tôi, dưới hố hầm này/Trong những vùng lửa cháy, bên những vồng ngô khoai …- Bài ca dành cho những xác người, 1968

“Bài ca dành cho những xác người” là cảm tưởng ghi lại bằng âm nhạc trong khi “Hue Today/Huế hôm nay” diễn tả bằng một đoạn viết của Trịnh Công Sơn về những ngày Mậu Thân, Huế:

clip_image014

Trịnh Công Sơn, “Hue Today”/Huế hôm nay”, Edge số 9, trang 46-48

“Cửa sổ của căn phòng bẩn thỉu, nơi tôi ở, nhìn ra một góc đường đông đúc. Vào buổi tối, tôi nằm rất yên lặng trên ghế bố, nhìn ra ngoài cửa sổ và nhớ tới Huế. Từ cửa sổ ngó ra, Huế là hai cây hoa dâm bụt rực rỡ với những làn mưa nghiêng đổ xuống từ một bầu trời ảm đạm. Mỗi năm vào tháng này, tôi đi Huế. “Đi” ở đây có nghĩa là trở về với cái gì tầm thường nhưng quý giá: một căn nhà hẹp, một tô bún bò gạo giã tay, bạn bè tại quán cà phê nhỏ Mệ Tôn. Đó cũng là để giữ lại Huế trong tay suốt mùa hè. Bản chất Huế nằm trong kích thước nhỏ bé của nó. Không ồn ào hay bận rộn. Vẻ thân mật của những lề đường. (Chỉ đứng) trên một con đường của thành phố, người ta có thể giơ tay vẫy chào bạn bè cả ngày. Khách lạ tới Huế có cảm tưởng rằng tất cả mọi người ở Huế đều có họ hàng với nhau.

“Trước Tết, tôi đã trở về để vui hưởng sự nhỏ bé đó. Tôi mới vừa vui được một thời gian quá ngắn trước khi bom đạn của cuộc tấn công bùng nổ. Một sự kinh hoàng lớn lao chiếm ngự Huế. Thật là điều khó khăn để quên nổi mùi tử thi thối rữa trên đường Lê Lợi, chỗ mà tôi cùng gia đình chạy trốn qua đó. Hai hàng cây trước kia che chở con đại lộ dài bằng bóng mát, nay bị trốc gốc và biến thành chướng ngại vật. Tháng hai, nhìn Huế, tôi thấy gương mặt suy sụp của một thành phố cổ kính. Tôi nghe được giọng sầu thảm nhất suốt một tháng trời trong địa ngục. Người sống sót cuộc tàn sát dường như chỉ còn lại một thân xác vô hồn. Nỗi thảm sầu mất tích khi nỗi đau khổ (trở nên) quá lớn. Dân Huế đều đã trải qua khoảng thời gian nguy hiểm nhất, đều đã cùng nhau hít thở bầu không khí bẩn thỉu tại trại tị nạn. Tất cả đều đã biết tận cùng của cơn khổ nạn.

“Tôi đã chứng kiến những căn nhà bên kia sông bị bộc phá tung lên trong không trung, đạn đại bác và tạc đạn nổ rào trên sông Hương cho đến khi mặt nước biến thành bọt trắng xoá. Trong những ngày đầu của trận chiến, gia đình tôi và tôi ngồi bình tĩnh trong nhà. Buổi sáng trôi qua trên những khuôn mặt khổ não. Các em và tôi ngồi nhấp rượu trong khi đạn réo trên đầu (nguyên văn). Qua song cửa, chúng tôi nhìn thấy những người lính Bắc Việt di chuyển, nấu ăn, đào hố trong vườn trước mặt. Đó là những ngày đẹp nhất của mùa xuân, với giòng mưa nhẹ như sợi tơ lụa trong không khí hơi lạnh. Tôi muốn đi dạo dọc theo những con đường đầy bóng mát trước cửa nhà. Tôi muốn có ly cà phê ở một tiệm bên kia sông, trong Thành Nội, phía trước Trường Âm nhạc và Mỹ thuật. Nhưng tôi đã ngồi bất động hơn 2 tuần. Em tôi và tôi ví những ngày này của chúng tôi với những ngày của Anne Frank.

“Bây giờ, tôi không biết có thể tìm thấy gì một khi được trở lại Huế. Những cây cầu bắc ngang qua dòng sông nhỏ đều bị phá hủy: cầu An Cựu, Kho Rèn, Phú Cam, Bến Ngự, Nam Giao v.v… Một trong những cây cầu này đã chứng kiến sự trưởng thành của người bạn thân thiết, đã cảm thấy dấu chân nàng đi học rồi tan trường về. Khu nhà tôi bây giờ trở thành một bãi chăng dây kẽm gai. Căn nhà, tan tành một phần lớn, đầy rác rưởi. Ngày đầu trở về, tôi ngồi duỗi dài tay chân trên một chiếc giường nát — ngắm những cơn mưa nhỏ lãng đãng rơi từ khoảng trống trên mái nhà– tôi nghĩ mình đang mơ. Huế thật tình chẳng còn gì cả. Không khí ấm cúng và dịu dàng ngày xưa có thể sẽ không bao giờ trở lại. Kho tàng của Huế đã bị thiêu hủy trong bom đạn. Chỉ trong vòng hai tháng, mọi người dân của thành phố Huế đều trở thành công nhân. Lối sống cổ truyền hiện hữu từ lâu của đời sống vương giả theo những gia đình cồ kính bị tẩy xoá mất. Tôi qua lại cầu Tràng Tiền gãy đổ nhiều lần. Tôi sang giòng sông Hương trên một con phà đầy người. Không còn sự thinh lặng nào trong tâm hồn thành phố. Rất khó kiếm một chỗ ở bất cứ nơi nào mà không lỗ chỗ vết đạn. Những con đường tráng nhựa sạch sẽ nay bị lật tung lên. Những đám mây bụi bay cao suốt ngày trên hai con đường chính. Quảng cáo của rạp hát bóng Châu Tinh vẫn còn treo trên một bảng gỗ ở trước cửa chợ Đông Ba. Tên của him này cũng là một thứ điềm gở: Le Temps du Massacre (Thời của tàn sát).

“Máu chảy, thấm xuống đất thành phố. Tôi dành nhiều thời giờ, ngồi trong quán cà phê trên đường Trần Hưng Đạo, quan sát kẻ buồn chán qua lại- những kẻ đã thăm viếng miền tận cùng của đau đớn. Tôi nhớ rằng đã không tắm rửa, đã không thay quần áo, đã không cạo râu hay hớt tóc suốt hơn hai tháng. Sau giờ giới nghiêm, thành phố còn trở nên bi thảm hơn. Cửa Thành Nội đóng lại, đường phố bị bao phủ trong không khí lạnh ngắt của bãi tha ma. Những ngôi mộ mới mọc lên như nấm dọc đường và cả lề đường, trong công viên, trong vườn cam Tây Lộc và trong những cánh đồng bỏ phế nơi trước đây đàn bò gặm cỏ. Những bức tường của Thành Nội há ra với nhiều lỗ hồng. Có lẽ linh hồn của vua chúa đã qua đời và các vị quan lại danh tiếng cũng sợ hãi. Huế luôn luôn biết tới nỗi bất hạnh. Từ lụt lội, bão tố trong quá khứ đã tàn phá hàng ngàn căn nhà, hàng ngàn gia đình trong quá khứ cho tới cuộc thảm sát kinh hoàng hiện tại, người dân Huế đã phải học cách sống trong kiên nhẫn. Dường như Huế bị đính chặt vào một thứ định mệnh khắc nghiệt. Sẽ không bao giờ có thành phố Huế cổ kính như xưa nữa.

“Tại đây, người ta không bao giờ có dịp làm giàu (nhanh chóng) trong một tháng hay một ngày. Người ta cần tới 4 thế hệ: ông, cha, con và cháu, mới có thể dựng được một căn nhà; căn nhà này được truyền từ đời nọ sang đời kia. Người nào phải xa nhà đều vẫn có thể nhớ từng cột nhà, từng xà nhà, từng bậc cửa. Bởi thế, phải cần một thời gian lâu dài, người ta mới có thể nhìn tới Huế mà không thấy khuôn mặt bị tàn phá của Huế. Huế của ngày xưa đã biến mất khi chiếc mái cao của cửa Thượng Tứ và cửa Đông Ba bị tàn phá, đầy lỗ thủng. Tôi bước dọc ven tường Thành Nội nơi hàng ngàn căn nhà đã bị cháy rụi thành tro tàn hay nằm như củi khô. Tôi lên An Hoà, đứng trên ngọn đồi Uông Voi, nhìn ra toàn cảnh với những hố bom sâu hơn 10 thước. Nơi đây là nhà cửa của hàng ngàn gia đình nghèo khó. (Nay) họ đã trở về để chứng kiến dấu vết lưu lại trên những thứ từng thuộc về họ: những cây chuối non, những cột gỗ lim, những bàn thờ nhỏ (và) từng bậc đá.Tất cả mọi thứ đều bị phá hủy. Huế phải cúng kiếng thêm cho nhiều vong hồn lang thang. Huế từng đã có một ngày tưởng niệm quan trọng cho người chết, ngày Thất thủ Kinh Đô (nghĩa là ngày quân Pháp tấn công và chiếm được Huế), ngày mà người ta nhìn thấy nhiều xác người. Nhưng bây giờ lại tăng thêm nhiều xác người nữa. Sự tàn phá cũng nhiều hơn. Nước mắt của người dân Huế đủ tạo thành một giòng suối nhỏ. Những ngôi mộ ở chùa Áo Vàng, tại Bãi Dâu, tại Kim Long, tại Long Thọ, là những dấu vết của một thứ bạo lực hung ác, không thể quên được trong những trái tim còn đập.

“Nhớ tới những ngày ở Huế trong tháng Giêng và tháng Hai, tôi không bao giờ quên được người mẹ chạy theo xe chở xác con trai. Vừa chạy, bà vừa vỗ tay cười suốt trên con đường lầy lội bùn đất đỏ. Tôi cũng sẽ không bao giờ quên được những người lính Mỹ ngồi dài trên lề đường nhìn bà ta rồi cười vui. Tôi cũng nhớ một người đàn ông trọng tuổi, bước những bước nặng nhọc. Ông khiêng trên vai một cỗ quan tài nhỏ, cố giữ thăng bằng những nén nhang đang cháy, cắm trong một cốc chứa gạo, trên quan tài. Huế đã sống qua những ngày dã man nhất. Hàng đoàn người theo nhau nhìn xuống những chiếc huyệt lớn để tìm xác cha, anh, mẹ hay chị. Tiếng khóc than của người tiếc thương có thể rung chuyển cả núi rừng. Quá nhiều cái chết đủ chứng minh sự ác độc của loài người. Tâm hồn tôi thành tảng băng trong những ngày trú ẩn tại thư viện Viện Đại học Huế. Chung quanh tôi, mọi thứ đều tiếp tục phai lạt càng lúc càng nhiều khỏi phối cảnh của chúng. Tôi không thể nói gì khi đời sống chỉ là một trò chơi. Trong một tháng, tôi đã sống trong bầu không khí ẩm ướt, lạnh lẽo, ảm đạm của thư viện. Tôi không biết phải làm gì với cảnh đổ vỡ này. Ý nghĩa chính trực của cuộc chiến/ “the morality of this war” đã vượt khỏi giới hạn thuộc khả năng chịu đựng của con người… Ôi Huế! Tôi hy vọng thanh bình trở lại để có thể ăn bánh bèo Tây Thượng, bún bò thịt nướng Kim Long, bún bò O Rớt. Tôi sẽ trở về để ngủ đêm trên sông Hương và gọi ông Bé mang cho tôi một bát bún với ớt cay, cay tới chảy nước mắt. Tôi sẽ gọi cô con gái trên thuyền mang cho tôi một con mực nướng khô, một múi bưởi hay một cốc rượu nhỏ để khiến đêm trở nên ấm hơn, những bài hát nửa đêm trở nên réo rắt hơn đoạn thiếp ngủ một giấc hiền hoà trong tiếng sông ru êm đềm.” [Trịnh Công Sơn, “Hue Today”, Edge, trang 46-48, Chủ bút: Henry Beissel, Canada, Số Mùa hè 1969 *Những giòng in ngả là của tôi, cho thấy sự nghi ngờ về những câu này trong bản Anh ngữ như đã giải thích.]

7.1.3 Xác người nằm bên nhau treo trên gầm cầu/Trong góc nhà đổ nát dưới những hào sâu/Xác người còn xương khô trong khắp bụi bờ/Sau những hè phố vắng trên dốc đường mấp mô …-Bài ca dành cho những xác người, 1968

Trước đó, Crystal Erhart trong bài “Trinh Cong Son: Portrait of a Vietnamese Poet/Trịnh Công Sơn: Chân dung một thi sĩ Việt Nam” xác định nhiều tin tức trong bài của Trịnh Công Sơn như ông đã chứng kiến người lính Bắc Việt di chuyển qua vườn nhà, sống cùng nhiều người tỵ nạn khác trong một căn phòng ẩm mốc, theo dõi nhiều ngôi mộ tập thể được khám phá, Thành Nội bị ném bom, kẻ hấp hối và người chết. Và đây chính là điều tôi nhận ra: Erhart cũng có lối suy luận tương tự như một số người ngoại quốc khác khi kết luận rằng nhạc của Trịnh Công Sơn lúc ấy nói thay cho linh hồn dân Việt trong biến cố Mậu Thân:

-“[…] Xác người năm bên nhau treo trên gầm cầu
Trong góc nhà đổ nát dưới những hào thông sâu
Xác người còn xương khô trong khắp bụi bờ
Sau những hè phố vắng trên dốc đường mấp mô …”

“Bài hát này phát biểu thay cho tâm linh người Việt sau trận đánh Tết Mậu Thân ngày 31, tháng Giêng. Trịnh Công Sơn là một ca sĩ và nhà soạn nhạc thịnh hành–người được dân chúng Việt Nam kính trọng, nhất là giới học sinh, sinh viên–vì nhạc của ông kết hợp tâm trạng ai oán nhưng nghiêm trọng của người Việt ngày xưa với nét nhạc mới hơn từ Tây phương. Ngôn ngữ trong ca khúc của ông giống như Ca Dao, loại ca dao Việt Nam đã có từ hơn cả ngàn năm trước, tràn đầy ảnh hưởng đạo Lão, với hình tượng thiên nhiên cùng ngôn ngữ giản dị (nhưng) cụ thể. Trịnh Công Sơn đã xuất bản 3 tập nhạc dân gian và sẽ xuất bản một tập mới nữa, mang tên Sau ngày hưu chiến. Trước Tết, Trịnh Công Sơn đã có nhiều buổi hát tại các đại học, nơi mà sinh viên vẫn có một số tự do nào đó. Nhiều bài hát của ông hiện bị chính phủ cấm vì phản chiến (…) Khi tới Sài Gòn vào một số ngày, ông ấy ngụ tại một căn nhà cũ kỹ tọa lạc đằng sau Hội Hoạ sĩ Trẻ Việt Nam trên đường Lê Thánh Tôn. Căn phòng này có ba phía tường bằng xi măng, phía kia bằng gỗ tạp. Một chiếc dù quân đội chăng trên trần nhà để che mưa, quần áo máng đầy trên tường, một cái bàn gỗ mộc, hai ghế bố, một giường gỗ rộng, một chiếc trạn với những chân bằng thiếc đã mòn và vài cái chai bằng thủy tinh màu xậm. Căn phòng sáng được nhờ cửa sổ mở ra, một đèn bóng dài và một chiếc khác có bóng đèn bao quanh bằng chiếc chụp giấy (…) Sơn đã trở lại Huế sáng tác tập nhạc: Những ca khúc mớiTôi thích sáng tác ở Huế, Sơn cười buồn, bởi vì dù thành phố này bị tàn phá, nhưng rất yên lặng, không ồn ào, bụi bậm như Sài Gòn. Bây giờ, mọi cảm hứng của tôi đều đến từ khuôn mặt thật của chiến tranh, lời ca và ý nhạc đều được hình thành vì nỗi buồn mà tôi được chứng kiến (…) Khi Sơn hát và chơi đàn, bóng tối phủ xuống căn phòng, cơn mưa chiếu bắt đầu. Một vài người bạn đến, ngồi nghe Sơn hát…” [Crystal Erhart, sđd, trang 43-45]

Tôi chú ý tới một đoạn khác thường trong tâm sự của Trịnh Công Sơn khi trò chuyện với Crystal Erhart. Trịnh Công Sơn đề cập đến sự chia rẽ giữa các giai cấp trong xã hội cùng một cuộc chiến mới sẽ cản trở giấc mơ “hòa bình” và “thống nhất” một mai cuộc chiến này kết thúc:

-“[…] What I feel most for my fatherland,” he says. “is if it becomes a slave nation, and that the Vietnamese people will be cut from the roots of their true color. Next, what I fear most is that all social classes will be separated from each other because of hatred and jealousies.” “After the war,” Son Continues (sic), “what I fear is the beginning of another war. And thus, it ‘s very difficult to dream of peace and reunification being carried out in our homeland/ Điều tôi cảm thấy nhiều nhất cho quê hương tôi”, Sơn nói, “là biến thành một quốc gia bị nô lệ, và dân Việt sẽ bị tách rời tận gốc từ bản chất thật sự của họ. Tiếp đó, điều tôi sợ nhất nữa là mọi giai cấp trong xã hội sẽ bị chia cách bởi sự thù ghét và ghen tức.” “Hậu chiến tranh”, Sơn tiếp tục, “(lại là) Sự bắt đầu của một cuộc chiến khác khiến tôi sợ hãi. Và, bởi thế, thật khó khăn để mơ tưởng đến việc thực hiện được hòa bình và thống nhất trên quê hương chúng tôi.” [Crystal Erhart, sđd, trang 45]

Tại sao Trịnh Công Sơn mâu thuẫn với chính ông? Lời hát thì cổ võ hòa bình thống nhất, hầu chấm dứt bất công, giới nghiêm, đàn áp (tại Miền Nam):

Chờ bước đi trên những con đường không chông mìn
Chờ đường giao thông chấp nối chuyến xe qua ba miền
Chờ tin mừng sông chờ núi cũng chờ mong
Chờ trên vừng trán mẹ thắp lên bình minh
Chờ khô nước mắt
Chờ đá reo ca
Chờ áo cơm nuôi cho những trẻ con không nhà
Chờ ngày Việt Nam thống nhất cho những tình thương vỡ bờ
Chờ tiếng kèn đưa về đây những đàn con
Chờ tim người không còn nuôi những hờn căm
Chờ đêm không cấm
Chờ sáng thênh thang
Chờ lúa thơm lên dưới những bàn tay dân mình
Chờ lòng yêu thương đất nước quyết đi xây thanh bình
Chờ trống dồn tin mừng khắp phố làng ta
Chờ nghe từ đất dậy tiếng ca tự do
[Chờ ngày quê hương sáng chói, 1967]

Hoặc:

Trên cánh đồng hoà bình này
Mặt trời yên vui lên đỏ chói
Đỏ trái tim người
Ngày Việt Nam đã qua cơn đau dài
Triệu trái tim người
Cùng nhịp vui với con tim nhân loại
Ngày lên cùng niềm tin
Bàn tay ta quyết lo vun trồng
Hoà bình như lúa thơm nuôi dân mình…
[Cánh đồng hòa bình, 1968]

Và:

Ta đi trong cách mạng tự hào
Ta sẽ chiếm trăm công trường
Ta xây nên nghìn phố hòa bình
…Triệu nắm tay anh em nối dài
Ðồng bào ơi lập phố phường bằng bàn chân
Ðã đến lúc cách mạng tiến lên
…Cho đất này chợt dậy đấu tranh
Tình nước non trong ta xây thành
Ðồng bào ơi nối cho bền triệu bàn tay
Dân ta quyết dựng lấy ngày mai.
[Việt Nam ơi hãy vùng lên, 1969)

Nghĩa là, lời nhạc của ông không khác gì luận điệu tuyên truyền và ngôn ngữ bạo động của Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam và Cộng Sản, nghĩa là cũng rất gần gũi với Thành Phần Thứ Ba, và cả một thiểu số người Quốc gia sử dụng cùng loại ngôn ngữ nhưng không biết đang cổ võ cho Cộng Sản. Ngôn ngữ ấy lộ nguyên hình qua Ðã đến lúc cách mạng tiến lên hoặc đặc những chữ “đỏ” như mặt trời đỏ chói, đỏ toàn dân Việt từ trái tim. Vậy mà ông lại nhấn mạnh về tình trạng sau chiến tranh, lại hình dung một cuộc chiến “đấu tranh giai cấp” và dân Việt sẽ bị nô lệ hóa đến nỗi không thể có thống nhất và hòa bình? Trở thành “nô lệ” cho ai khi Hoa Kỳ phải rút quân khỏi Miền Nam? Và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa (với giới nghiêm vv.) không còn tồn tại? Câu trả lời, không chỉ cho ông mà cho toàn dân Việt, Nam và Bắc, sẽ đến sau ngày 30 tháng 4. 1975.

7.2 Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẽ đến đây với thái độ hòa giải tốt đẹp. Các bạn không có lý do gì sợ hãi để mà ra đi cả…-Trịnh Công Sơn, ngày 30 tháng 4. 1975, Sài Gòn

Rồi ngày ấy đã đến. Trịnh Công Sơn lên Đài Phát Thanh Sài Gòn, vào trưa ngày 30 tháng 4. 1975, kêu gọi dân Miền Nam hợp tác với chính phủ Cách mạng Lâm Thời Cộng Sản và kết tội người ra đi “phản bội đất nước”. Người chết không nghe được nữa, nhưng người sống và các thế hệ tương lai sẽ được nghe Trịnh Công Sơn một cách nhỡn tiền nhờ phương tiện truyền thông ngày nay:

-“[…] Cũng như những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do và thống nhất thì hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả những kết quả đó. Tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam (…) mà hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Cách mạng Lâm thời miền Nam Việt Nam. Những kẻ đã ra đi chúng ta xem như là đã phản bội đất nước. Chúng ta là người Việt Nam. Đất nước này đất nước Việt Nam. Chúng ta ở trên đất nước chúng ta. Chính phủ Cách mạng Lâm thời sẽ đến đây với thái độ hòa giải tốt đẹp. Các bạn không có lý do gì sợ hãi để mà ra đi cả. Đây là cơ hội đẹp đẽ và duy nhất để đất nước Việt Nam thống nhất và độc lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước từ mấy chục năm nay…” [Trịnh Công Sơn phát biểu trên Đài Phát Thanh Sài Gòn- https://www.youtube.com/watch?v=g_rnQDC18w0]

Sau 1975, ông vẫn tiếp tục sáng tác và chính thức bước vào hành trình “hòa bình và thống nhất trên quê hương” cùng người dân và bạn bè. Tới đây, một kết luận về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn—không phải về một thần tượng âm nhạc hay một thần tượng có tỳ vết chính trị –chỉ có thể may ra đạt được sau khi đối chiếu một Trịnh Công Sơn của những Diễm xưa Hát trên những xác người với một Trịnh Công Sơn sau 1975 với loại nhạc như:

Xa nông trường ra biên giới
Có đôi khi đi không trở lại
Nhưng trong lòng nghe tiếng nói
Những gian nan sẽ đo lòng người
[Em ở nông trường em ra biên giới, 1981]

Hoặc:

Rèn đôi tay
Chắc đôi chân
Lao động là vinh quang
2. Kìa các em xinh xinh
Chân bước vội đến trường
Từng chiếc khăn em quàng
Thắp đỏ bình minh
[Khăn quàng thắp sáng bình minh, 1991]

Kết luận này, theo tôi, nên có nguồn gốc từ chính ông, như cuộc đối thoại với chiếc bóng trước một chiếc gương. Ông đã giải thích ra sao về lời trấn an và khuyến khích dân Miền Nam trên Đài Phát Thanh Sài Gòn? về những người ra đi và tiếp tục bỏ nước ra đi bằng bất cứ phương tiện nào? về cuộc “nội chiến” mà ông đã chọn không đứng về phía Việt Nam Cộng Hòa? về chính sách bắt giam quân cán chính VNCH dưới tên mỹ miều “cải tạo”? về chính sách Kinh Tế Mới hầu cướp nhà đất và về sự kỳ thị dân Miền Nam trên mọi lãnh vực? Sau cùng, mối liên hệ giữa ông và chính quyền mới ra sao?

Vào năm 1990, Công Ty Truyền Thông BBC thực hiện chương trình Homelands về 6 quốc gia. Vào ngày 20 tháng 7. 1990, Vietnam: Trinh Cong Son and Van Cao là buổi truyền hình cuối. Nhiều đoạn dưới đây được trích dẫn từ chương trình này sẽ cho chúng ta biết thái độ của ông liên quan trực tiếp đến những vấn đề thượng dẫn. Nhắm cho độc giả dễ theo dõi, tôi chọn một nơi đã tái phổ biến buổi truyền hình đó nhưng chỉ riêng với phần Trịnh Công Sơn: “Phỏng Vấn Cố Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn & Tâm Hồn Người Nghệ Sĩ Tài Hoa, do KTS Lê Quốc Phi đăng trên kênh YouTube, tại https://www.youtube.com/watch?v=Ze49aO6M5Ro”. Những phát biểu điển hình của Trịnh Công Sơn được dẫn chứng sau đây, những phát biểu được lập lại trong một số bài phỏng vấn hay bài viết khác, sẽ cũng cho thấy Trịnh Công Sơn quy trách nhiệm của cuộc chiến vào Hoa Kỳ. Bởi thế, đó là lý do ông đã làm hàng loạt các bài nhạc chống chiến tranh với lời lẽ cần phải xét lại, nhất là sau 1968. Từ 1975, ông tình nguyện sáng tác một số bài nhạc có thể xếp vào loại “tuyên truyền”, thậm chí đến trình diễn các bài hát ấy tại địa điểm do nhà nước chỉ định người dân– có khi lên tới hàng vạn người– tới lao động.

7.2.1 Lúc thống nhất phải hát liền cái bài đó

Đoạn phát biểu của Trịnh Công Sơn vào ngày 30 tháng 4. 1975 đánh dấu khởi đầu của một cuộc hợp tác với chính phủ mới dù không trực tiếp như một người tham chính. Ông đã được chọn –với Cộng Sản, không có chuyện tự động—để chiêu dụ một Sài Gòn chưa chịu và sẽ không quy hàng hoàn toàn:

-“[…]Anh đã hát bài đó, bởi vì nếu không hát thì không còn cơ hội nào tốt hơn, đẹp hơn để hát bài đó, bởi bài đó là ước mơ thống nhất, thì lúc thống nhất phải hát liền cái bài đó. Anh hát bài đó đúng vào 30 tháng 4…” [KTS. Lê Quốc Phi, Tư Liệu-Phỏng Vấn Cố Nhạc Sĩ Trịnh Công Sơn & Tâm Hồn Người Nghệ Sĩ Tài Hoa, sđd, Phút 12:22-Nguồn: Đài Truyền Hình BBC, 1990]

Trịnh Công Sơn không nói rõ hơn, nhưng một nguồn tin khác đề cập rất chi tiết về hoàn cảnh phía sau buổi hát “Nối vòng tay lớn” ngày 30 tháng 4 khiến tôi suy nghĩ. Khoảng đầu năm 2000, nhà văn Tuấn Huy rủ nhà thơ Viên Linh đi ăn trưa, tình cờ gặp tôi tại Tòa Soạn Khởi Hành bèn có nhã ý mời luôn. Tuấn Huy có tiếng trong giới Văn Học Miền Nam ngay từ những năm cuối 1950 nên quen biết khá nhiều, kể cả khá thân với Trịnh Công Sơn. Ông là người thân của Cố Thiếu Tá truy thăng/Thủy quân Lục chiến Nguyễn Văn Nghiêm kiêm nhà văn bút hiệu Song Linh. Khi Song Linh tử trận, Khởi Hành-Sài Gòn đã đăng một đoạn di cảo của ông.

Tuấn Huy nhận ra tôi, không vì trong giới văn nghệ (tôi chưa quen ai trước 1975), mà vì đã gặp tại câu lạc bô Huỳnh Hữu Bạc và trong quán ăn vài lần, chưa kể một lần đáng nhớ trong quán billard khi đám “anh chị” bắt nạt nhóm bạn thư sinh khiến hai bên hỗn chiến. Tôi phải mượn ngay cơ/queue của một ông bên cạnh hòng khi …tự vệ. Tuấn Huy nói, không biết thật hay đùa, sau khi kể lại: “May đấy. Tà Cúc cầm bút chứ không còn cầm cơ như ngày xưa”. Viên Linh phản ứng rất nhanh: “Sao anh biết cô ấy không còn?!” Tôi biết ông vui không phải vì tôi mà vì những kỷ niệm ùa về làm nhớ đến các bạn nay đã không còn hoặc xa cách. Thỉnh thoảng, quá cao hứng, ông lại hỏi: “Viên Linh còn nhớ không…? Tà Cúc còn nhớ không…” Viên Linh gật gù, còn tôi thì phải đính chính, là hồi đó đâu đã được hân hạnh quen biết với anh hào văn nghệ như Tuấn Huy, Trịnh Công Sơn, Mai Thảo hay Viên Linh mà “em còn nhớ hay em đã quên…”! Nhắc lại mấy buổi gặp gỡ xa xưa, ông “À” một tiếng rồi cho biết đã gặp Trịnh Công Sơn ngay sau buổi phát thanh định mệnh đó. Biết tôi không dám hỏi xa hơn tuy không giấu nổi sự hiếu kỳ, ông cười: “Rồi có ngày Tà Cúc sẽ hiểu. Chuyện như thế này không nên nói chỉ trong vài câu.” Ít lâu sau, Viên Linh chuyển cho tôi tờ Văn Học, Ấn bản Số đặc biệt-Chủ đề “Trịnh Công Sơn: Tình yêu, Quê hương, Thân phận”, tháng 10&11. 2001.

clip_image016

Văn Học, Trịnh Công Sơn: Tình yêu, quê hương, thân phận, Hoa Kỳ
Bìa: Tranh Đinh Cường

 

Tuyển tập này gồm cảm tưởng hoặc phân tích về nhạc Trịnh Công Sơn với sự góp bài bằng thơ văn của 20 tác giả gồm cả Miền Nam lẫn Miền Bắc, cả trong lẫn ngoài nước: Cổ Ngư, Nam Dao, Bửu Ý, Tuấn Huy, Lữ Quỳnh, Hoàng Xuân Sơn, Nguyễn Việt Thường, Trương Thìn, Nguyệt Thư, Trần Hữu Thục, Y Chi, Trần Nhựt Tân, Lê Minh Hà, Thơ Thơ, Trúc Chi, Bùi Vĩnh Phúc, Đặng Tiến, Quỳnh Giao và Lê Hữu.

Đúng như Tuấn Huy hứa, bài “Trịnh Công Sơn, cỏ xót xa người” chứa đoạn hồi ức tôi đang chờ đợi. Đoạn này—khác với lời giải thích vắn tắt của Trịnh Công Sơn– cho thấy một người bị giao động vì bị nhận chìm vào sức nặng của khoảnh khắc định mệnh, một khoảnh khắc biến người nhạc sĩ tự do thành một văn công, biến giọng hát tình yêu thành một chuỗi âm thanh sắt máu. Tuấn Huy là nhân chứng cho khoảnh khắc ấy qua chính lời thú nhận của Trịnh Công Sơn:

-“[…] Sau 30-4 ít ngày, tôi có gặp TCS một buổi sáng đầu tháng 5 năm 1975. Ngã ba đường Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp. TCS đang bụm tay bật lửa châm điếu thuốc. Tôi rà chiếc xe đạp cũ đến gần Anh. Thấy tôi, Anh như hơi ngỡ ngàng, lên tiếng hỏi: “H. không đi à? Xe hơi đâu rồi mà đi xe đạp?” Tôi nhớ, giây phút đó, tôi không trả lời TCS mấy câu TCS vừa hỏi. Tôi hỏi lại TCS giọng như hơi gay gắt: “Tại sao nông nổi vậy? Tại sao hấp tấp làm việc đó?” Lẽ ra, tôi không nên hỏi TCS câu hỏi ấy, vì tôi không được quyền, và nhất là không thể nhân danh một cái gì mà hạch hỏi TCS cả. Nhưng có lẽ giây phút đó, tôi nóng lòng muốn giãi tỏ với TCS phản ứng chân thành của một người bạn hằng quý mến và ngưỡng mộ tài năng của TCS, khi thấy Anh đã có một “hành động khác thường” trưa ngày 30 tháng 4 như vậy. Nhưng TCS không bận tâm câu nệ, Anh vẫn ôn tồn điềm đạm nói: “Không phải nông nổi. Mà là một sự bồng bột” (TCS dùng tiếng Pháp: “C’est une effervescence”.) Tôi thở dài. Buồn hay giận TCS thì việc cũng đã qua rồi. Tôi nhìn Sơn kỹ hơn. Chắc mấy ngày nay râu ria Anh không cạo. Chiếc quần jean và chiếc sơ-mi màu xám nhăn nhúm. Không đâu, tôi chạnh lòng tội nghiệp cho Sơn. Việc Anh làm trong biến cố vừa qua là sai hay đúng? Thái độ đó chỉ phát xuất từ một sự bồng bột, như lời Anh vừa nói, hay chính là chủ ý của Anh đã ấp ủ từ lâu? Thực tình tôi không thể biết và cũng không thể hiểu. Tuy nhiên, vì kính trọng niềm riêng tư của cá nhân Anh, tôi không muốn hỏi thêm gì nữa. Tôi rủ Anh đến một cái kiosque gần đó để ăn sáng. Anh gật đầu. Chúng tôi đang bước đi, tự nhiên Anh khựng lại. Anh nhìn thẳng vào hai mắt tôi rồi thầm thì: “Một sự bồng bột… hay đúng hơn một sự bồng bột vì bị bắt buộc phải bồng bột. Không phải tự moa muốn làm việc đó. Entre nous (giữa chúng ta) moa mới nói, nhưng H. đừng kể với ai nghe, mấy người bạn cũ trong nhóm sinh viên pro-com (thiên cộng) quá khích đã bắt buộc moa phải làm… Một ngày nào đó, H. sẽ biết rõ hơn. Bây giờ moa không thể nói được, vì moa đã lấy danh dự hứa với họ…” Tôi thở dài. Rồi nắm nhẹ bàn tay gầy nhỏ của Sơn. Cả hai chúng tôi câm lặng nhìn nhau… Tôi dựng chiếc xe đạp chỗ cột đèn đường. Minh Châu, cô chủ quán, ngơ ngác ngó hai chúng tôi hỏi giọng buồn rầu cam phận: “Không đi được hà anh H.? Gia đình Châu cũng bị kẹt lại…” Không biết Minh Châu, người con gái tài sắc một thời của các vũ trường Sàigon, có nhận ra được TCS không. Có lẽ không, vì cô chỉ hỏi chuyện tôi mà không đá động gì đến sự có mặt của TCS cả. Như vậy cũng là may, vì dường như tất cả dân Sàigon đang bất mãn về việc TCS đã làm. Chúng tôi ăn bún chả (món quà ngon nổi tiếng của kiosque này), và uống cà phê sữa đá. Tôi mừng khi thấy TCS ăn hết được phần bún chả của mình và đang châm thuốc hút. Nét bơ phờ mỏi mệt thấy rõ trong dáng điệu và qua ánh nhìn buồn bã của TCS. Sau đó, tôi chia tay TCS lặng lẽ, vì cũng chẳng muốn hỏi TCS những ngày sắp tới Anh sẽ làm gì? Vừa chậm chạp, vừa chán nản đạp xe trở về nhà ở vùng Gia Định, tôi nhẩm đi nhẩm lại mãi câu TCS nói: “Ce n’est qu’une effervescence”. Đó chỉ là một sự bồng bột, vì bị ép buộc… Tôi, cá nhân tôi, có thể thông cảm được sự giải thích của TCS. Nhưng còn bao nhiêu người khác? Những người đã hằng ngưỡng mộ và quý mến TCS, liệu có thể hiểu được việc làm của Anh trưa ngày 30-tháng-4 chỉ là một hành động bồng bột vì bị bắt buộc? Riêng phần tôi, sau bữa ăn sáng nặng nề đó, chẳng bao giờ tôi còn được gặp TCS nữa…” [Tuấn Huy, “Trịnh Công Sơn, cỏ xót xa người”, sđd, trang 34-35 * Các chữ viết tắt hay chữ “Anh” viết hoa là của nguyên bản.)

Tuấn Huy vượt biển sang Hoa Kỳ khoảng cuối 1979 hay 1981. Người vợ ông ở lại trên biển cả.

7.2.2 Quyết định ở lại- Không nên bỏ đất nước này đi…

-“[…]Dân tộc Việt Nam có định mệnh rất là khác những dân tộc khác (…) Đây là một định mệnh rất đặc biệt mà những người giống như anh, những người nghệ sĩ, những người làm văn nghệ, những người làm văn học nghệ thuật cần phải suy nghĩ chuyện đó nhiều hơn. Đúng ra là không nên bỏ đất nước này đi, bởi vì một cái đất nước mà đau thương, thí dụ như đứa con có cha mẹ đau ốm mãi mà bỏ cha mẹ đi, thì đứa con ấy không tốt…” [Trịnh Công Sơn, sđd, Phút 2:23]

7.2.3 Lý do trốn línhNhững phong trào chống lại sự hiện diện của người Mỹ ở phía này…

-“[…]Như trong gia đình của anh, anh cùng các em của anh đánh nhau thì mình không thể đứng về phía này không thể đứng về phía khác được bởi vì tất cả đều là anh em hết. Cho nên mình phải muốn làm một cái gì khác để sự đánh nhau này không còn tồn tại nữa. Vì vậy anh đã viết những bài hát chống lại cuộc chiến tranh đó và đã hát trong trong phong trào của sinh viên học sinh. Những phong trào đó là những phong trào chống lại sự hiện diện của người Mỹ ở phía này. Để thế nào? Để mở cho cuộc chiến phải chấm dứt để cho hai miền Nam và Bắc được thống nhất, để hòa bình thống nhất và không còn chiến tranh trên đất nước nữa. Anh trốn lính là vì vậy, trốn không tham dự vào chiến tranh suốt trên 10 năm…” [Trịnh Công Sơn, sđd, Phút 6:23]

7.2.4 Bị hiểu lầmsuốt cuộc đời của anh, không bao giờ anh làm 1 cái điều gì xấu và không đúng cả…

-“Thì anh nghĩ người ta hiểu lầm về anh, nhưng mà đến một lúc nào đó, người ta sẽ hiểu anh, bởi vì suốt cuộc đời của anh, không bao giờ anh làm 1 cái điều gì xấu và không đúng cả…” [Trịnh Công Sơn, sđd, Phút 11:15]

7.2.5 Người Việt vượt biển vượt biên vì lý do kinh tế-Có rất nhiều người đi vì lý do kinh tế, vì muốn sống giầu hơn, muốn có tiền hơn…

-“[…] Thường thường có người vượt biển vì có chiến tranh cho nên có những chuyện đó xẩy ra. Nếu không có chiến tranh thì không có những chuyện đó xẩy ra. Những người đã đi xa, những người vượt biển thì trong đó cũng có những người thân của anh. Có người đi vì không thích chế độ Cộng Sản, và cũng có rất nhiều người anh biết đi vì lý do kinh tế, vì muốn sống giầu hơn, muốn có tiền hơn thì người ta đã đi. Đặc biệt với Khánh Ly đi ngày 30, đi trước ngày 30 tháng 4, đi trong lúc, lúc mà mọi người đi biển, vượt biển đi qua Cali đi bằng đường biển qua Cali. Bài Em còn nhớ hay em đã quên là anh nói về những người Việt Nam đã bỏ quê hương ra đi, nhưng mà trong đó có đoạn là em còn nhớ hay em đã quên nhưng mà quê hương vẫn vậy thôi, không thay đổi gì hết, thì là em ra đi, nhưng mà nơi này không thay đổi. Mẹ vẫn nhớ thương em tất cả mọi người đều nhớ người ra đi, nhớ hết. Và đến lúc em quay về, mọi đất nước vẫn bình yên như thế…” [Trịnh Công Sơn, sđd, Phút 14:20]

7.2.6 Không thể sáng tác nếu rời Việt Nam– thì không có cảm hứng, không thể viết được cái gì hết cả, không biết làm gì cả…

-“[…] Cái cây nó mới mọc lên như như 1 cái cây được trồng trên cái đất, anh là người làm, người sáng tác thì phải có cái đất Việt Nam này nó mới mọc lên được . Bởi vì sao? Bởi vì anh không…nếu 1 ngày nào, anh bỏ Việt Nam đi, có nghĩa là anh bỏ những kỷ niệm của anh ở trên tất cả cuộc sống ở đây. Thí dụ như ở Việt Nam, ra khỏi Việt Nam, đi đến 1 nơi khác thì giữa anh và cái thiên nhiên ở đấy với những con người ở đấy không có kỷ niệm nào cả; và nếu không có những kỷ niệm đấy thì không có cảm hứng, không thể viết được cái gì hết cả không biết làm gì cả; bởi vì đang ở trong một chế độ này qua một chế độ khác cách suy nghĩ cái hoàn cảnh xã hội nó khác nên cách suy nghĩ nó khác, cho nên làm việc không được …” [Trịnh Công Sơn, sđd, Phút 15:38]

7.2.7 Bất lực trước chính sách giam cầm quân cán chính VNCH của chính phủ Cộng Sảnanh có những người em, những người bạn họ đi học tập quá lâu…

-[…]Nói chung là trong những người đi học tập thì có người em của anh cũng đi học tập, thì anh, tại vì anh không có quyền gì để tham dự vô cái sự giải quyết này hết nhưng mà anh cho là nếu không có chuyện đi học tập thì nó tốt hơn nhiều lắm, sẽ hay hơn. Tất nhiên anh cũng buồn vì có những người em, những người bạn họ đi học tập quá lâu. Đúng ra thì có thể là không cần phải học tập nhiều như thế hoặc là có 1 biện pháp khác…” [Trịnh Công Sơn, sđd, Phút 16:46]

7.2.8 Thời kỳ sáng tác âm nhạc cổ võ cho chính sách của chính phủ qua mối quen biết với Thủ Tướng Võ Văn Kiệt: Anh Sáu có vẻ buồn (…) thì từ đó tôi viết bài Em còn nhớ hay em đã quên

Một chi tiết quan trọng có lẽ chỉ sau này mới được biết đến một cách xác thực là nguyên ủy của bài hát Em còn nhớ hay em đã quên. Bài hát này, qua bầy tỏ của Trịnh Công Sơn, cho thấy ông đã hợp tác với chính quyền Cộng Sản tới mức độ nào qua mối liên lạc với Thủ tướng Võ Văn Kiệt, một đảng viên cao cấp góp phần rất lớn vào việc chiếm Miền Nam. Trước 1975, Võ Văn Kiệt—bí danh Sáu Dân—là Ủy viên Thường vụ Trung ương Cục Miền Nam, Bí thư Khu ủy kiêm Chính ủy Quân khu 9, Ủy viên Đảng ủy đặc biệt của Chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau 1975, ông tuần tự giữ các chức: Phó Bí thư Thành ủy, Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân Thành phố Hồ Chí Minh, Bí thư Thành ủy, Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà Nước, Phó Chủ tịch Thứ Nhất của Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng và, sau cùng, Thủ tướng Chính phủ Nước Cộng hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam. Trịnh Công Sơn còn vô tình cho thấy ông rất thoải mái qua cách nhắc tới bí danh “Sáu Dân” của Võ Văn Kiệt. Dĩ nhiên “anh em trong giới văn nghệ sĩ” này là thuộc bên kia rồi:

-“[…]Thủ tướng Võ Văn Kiệt– trước đây chúng tôi anh em trong giới văn nghệ sĩ thường gọi là anh Sáu Dân– thì hồi sau 1975, những năm đầu tiên, chúng tôi có thành lập 1 cái nhóm gọi là nhóm “Giới thiệu những sáng tác mới”. Sau 1 thời gian hoạt động ngắn thôi thì anh Sáu Dân, anh có biết nghe và biết đến cái nhóm này. Anh có nhờ người là mời nhóm này xuống An Phú đế gặp anh Sáu để mà trao đổi 1 số vấn đề liên hệ đến Văn học Nghệ Thuật nhất là Âm nhạc—nhóm của chúng tôi là nhóm Âm nhạc– thì anh rất thích cái nhóm này và anh thích những sáng tác của nhóm này, nhưng có những điều chúng tôi lúc đó chưa tiện để viết ra thì, qua anh Sáu, anh bảo cứ viết tự nhiên, cứ viết tự do. Có cái gì trong cuộc sống mà cần thiết phải phát biểu qua hình thức của Âm nhạc thì nên nói để cho mọi người nghe. Đó là giai đoạn hơi gay go mà cũng rất khó khăn để mà có thể nói được nhiều điều trong đời sống bình thường của xã hội. Tuy nhiên, anh Sáu anh ấy nói, bây giờ mình đề nghị, thì cứ viết, cảm thấy cái gì thì cứ viết cái đó để cho nó tự nhiên; thì trong loạt bài đầu tiên mà viết đó, thì tôi có viết 1 bài– anh Sáu có than phiền và anh có vẻ buồn vì chuyện này lắm–, đó là những năm đầu tiên là số người trí thức của thành phố bỏ đi rất nhiều, và có nhiều người đi và để thư lại cho anh Sáu, thì tôi cũng có đọc một hai lá thư đầy tình cảm, nhưng vì đời sống khó khăn quá, họ không thể ở lại, phải đi, thì từ đó tôi viết bài Em còn nhớ hay em đã quên. Đó là muốn gửi gấm 1 cái gì đó cho những người đã ra đi, muốn nói đến tình cảm người ở lại, thì nếu có đi hãy trở về, bởi tất cả những người ở lại đây đều nhớ người ra đi cả. Thời kỳ mà chỗ Trị An bắt đầu thủy điện Trị An, bắt đầu mà khởi công thì anh Sáu cũng rủ tôi lên Trị An, những ngày đầu tiên đã lên đó rồi hát cho công nhân nghe. Sau đó tôi có viết bài về Trị An…” [Chút Kỷ Niệm Với Trịnh Công Sơn, Lời bình Lê Văn Duy & Đọc lời bình: Đoàn Thịnh *Tư liệu của K.T.S. Lê Quốc Phi post lên theo link: https://www.youtube.com/watch?v=ES_m-INtsMA ]

“Em còn nhớ hay em đã quên” không phải là bài duy nhất. Đây là lời bài hát về khu thủy điện Trị An:

Về giữa mùa mưa ầm vang thác đổ
Trị An đầy gió giữa chiến khu xưa
Về giữa mùa xuân rừng mai hé nụ
Vàng trên ghềnh đá tựa đàn bướm giữa hồ.
Bàn tay anh đến khơi lên dòng điện
Trị An dâng hiến trái tim
Vì người cùng với thiên nhiên một lòng
Điện ngày mai sẽ sáng lên…
Thị trấn ngày mai ngồi nghe nhắc lại
Trị An ngày ấy là chiến khu Đ
Và phía đồi xa rừng xưa đứng kể
Vùng sông hồ đó là nguồn sáng bây giờ…
[Về giữa Trị An, 1985- https://www.tcs-home.org/songs/titles/ve-giua-tri-an]

Mênh mông Đồng Tháp

1. Mùa nước năm xưa em đang là du kích
Trên cánh đồng nước nổi xuồng lướt dưới bom rơi
Mùa nước năm nay em trên đồng lúa nổi
Trên chiếc xuồng trĩu hạt giọng hò lướt trong mây …
[Mênh mông Đồng Tháp, 1985- https://www.tcs-home.org/songs/titles/menh-mong-dong-thap ]

Tôi để ý tới mấy chữ tượng trưng cho quá khứ “chống Mỹ” như “du kích” và “Chiến khu Đ” mà Trịnh Công Sơn đã cố tình để lọt vào các bài hát này. Rồi tới Em còn nhớ hay em đã quên:

…Em còn nhớ hay em đã quên
Nhớ Sài gòn những chiều gặp gỡ
Nhớ món ăn quen nhớ ly chè thơm
Nhớ bạn bè chào nhau quen tiếng
Phố em qua gạch ngói quen tên…

…Em ra đi nơi này vẫn thế
Vẫn có em trong tim của mẹ
Thành phố vẫn có những ước mơ
Vẫn sống thiết tha
Vẫn lấp lánh hoa trên đường đi …
[Em còn nhớ hay em đã quên, 1980]

clip_image017

Trịnh Công Sơn, “Em còn nhớ hay em đã quên”
Nhà Xuất bản Hồng Lĩnh, 1991, Hoa Kỳ

 

Trịnh Công Sơn lẽ ra phải biết rõ hơn ai hết: Sài Gòn vào những năm cuối 70 và đầu 80 đã khốn đốn cùng cực vì những lần đổi tiền, đốt sách, trục xuất về vùng Kinh Tế Mới, hàng ngàn ngàn người bị bắt giam, hàng trăm ngàn người vượt biển, thân nhân bạn bè tứ tán, nhà cửa bị tịch thu, bị buộc “xung phong” để làm lao động. Cơm không có mà ăn, phải ăn độn bo bo thì làm gì có thời giờ trồng hoa và ngắm hoa cùng lá me xanh! Thảm kịch 20 cô “xung phong” “hy sinh ở biên giới Tây Nam” được chính Trịnh Công Sơn ghi lại rõ ràng:

-“… Đêm Nhị Xuân không còn thấy rõ màu đất đỏ và những bãi mía, bãi dứa cùng lán trại cũng khoác một màu áo khác. Mưa xuống. Hội trường dã chiến như một cái rá lọc nước thả xuống những giọt dài. Chúng tôi (Phạm Trọng Cầu, Trần Long Ẩn và tôi …) cùng anh em Thanh niên xung phong nam nữ hát với nhau dưới một bầu trời trang trí lạ mắt như thế. Đêm cứ dài ra và những tiếng hát cứ dài ra. Nước ở con kênh dâng lên. Mặc kệ. Cứ đứng, cứ ngồi, cứ hát. Gần khuya có cô gái Thanh niên xung phong nhanh nhẹn vui tươi mang cho chúng tôi những bát cháo gà trước khi chia tay. Những khuôn mặt ấy, tôi đã quen đã nhìn thấy nhiều lần. Một giờ khuya, lên xe giã từ Nhị Xuân, lòng còn âm vang tiếng cười, tiếng hát. Những bàn tay siết chặt, những cái vẫy tay trong đêm không nhìn thấy. Quá giờ giới nghiêm, xe nằm lại giữa đường, không được vào thành phố. Ngủ lại chờ sáng. Về lại thành phố, trở lại công việc thường ngày. Nhưng ở Nhị Xuân, có hai mươi người con gái Thanh niên Xung phong đi về phía khác. Mấy tháng sau, tôi được tin tất cả hai mươi khuôn mặt tôi đã nhìn, đã gặp trong đêm hôm nào ở Nhị Xuân cùng nhau ca hát, đã hy sinh ở biên giới Tây-Nam. Những tiếng hát, giọng cười còn đó. Những cây mía, cây dứa của các bạn trồng vẫn còn đó, vẫn lớn lên. Tôi bồi hồi nhìn ra quãng trời rộng và thấy lại trong trí nhớ những con người trẻ trung ấy. Trong những trái tim ấy có cái gì khác chúng ta không. Trong giấc ngủ ban đêm, trên những vầng trán khoẻ mạnh ấy, đã có những cơn mơ nào. Chúng ta nói quá nhiều sự tròn đầy và chúng ta quên đi sự mất mát. Chúng ta vẽ ra lắm nụ cười mà quên đi những nỗi ngậm ngùi riêng tư. Những người bạn nhỏ ấy đã ra đi thật vĩnh viễn, nhưng nỗi nhớ về họ chưa được hát đủ. Như một nỗi đau. Còn thiếu sót biết bao nhiêu điều chưa nói hết lúc ở nông trường và còn chưa nói được một mảy may lúc ra biên giới. Làm một điều gì chưa đến nơi đến chốn với một người không còn nữa, có phải cũng đã phạm tội với cuộc đời rồi hay không. Nhưng hãy tha thứ cho những dòng chữ óng mượt, những sắp xếp tinh khôn, những cân nhắc dong do xuôi chèo thuận lái.” [Phạm Văn Đỉnh trích dẫn Trịnh Công Sơn, “Trịnh Công Sơn, một sản phẩm?…”, Diễn Đàn, số 109, tháng 7/2001, Pháp – https://www.tcs-home.org/ban-be/articles/TCS-MotSanPham]

Đó không phải là bài duy nhất. Ông còn bài “Nam Thạch Hãn những ngày đầu tháng ba”:

-“-[…] “3 tháng 3-1978 – 6 giờ. Đường ra Thạch Hãn sương mù dày đặc. Đường sương, ruộng sương, cầu sương, sông nước cũng sương. Xe bật đèn. Những con mắt vàng mở to trong sương sớm. Hai bên đường loáng thoáng bóng người rải sắn lát, chờ sương tan để nắng lên hong khô. Chiếc xe jeep không thể chạy nhanh, nhưng gió ngược cũng đủ làm tóc rối bù (…) 7giờ 30. Xe rẽ vào con đường đất đỏ sát hông chợ Quảng Trị. So với năm ngoái, năm nay chợ đã phình ra thêm một đoạn. Thực phẩm đầy ắp, xanh tươi. Người đứng, kẻ ngồi, đi đi lại lại. Xe vượt qua. Tiếng động nằm sau lưng. Phía trước đã thấy hiện ra một chấm đỏ lưng chừng trời, ở trên đồi cao. Đến gần, chấm đỏ biến thành lá cờ bay bay như bàn tay vẫy dẫn lối. Xin mời về phía này. Xe rẽ sang phải, leo dốc ngắn. Thêm dăm bảy lá cờ. Lên đến đầu dốc, một rừng cờ đỏ rực trên một rừng người đứng thành đội ngũ chỉnh tề như một khối bê-tông vững chắc. Trên từng tấm biểu ngữ ai cũng có thể đọc được: “Công tìrnh (sic) đại thủy nông Nam sông Thạch Hãn”. Nghe như thơ (…) như một làn nhạc chuyển điệu không ngừng, và cứ thế cái tiết tấu chung chuyển theo từ công trường này qua công trường khác (…) Đầm đơn đầm đôi rập ràng nện chặt bờ đập mới nhú. Tiếng đập nhịp nhàng đến độ muốn khơi dậy một tiếng hò nện đã quen. Nước ứa ra ở đoạn thấp của con kênh dự trù. Một tốp nữ tát nước ra ngoài, đều tay như múa. Hiện trường bỗng chốc mang cái khí hậu của một sân khấu rộng rãi ngoài trời, màu đất đỏ non tươi làm nền cho một đại vũ khúc mang tên “công trình đại thuỷ nông Nam sông Thạch Hãn” (…) Màu non tươi của đất đỏ đã về đậu trên môi, má của đội nữ gánh đất (…) Đội nữ gánh đất từ đồi cao lao xuống nhanh như những cánh hải âu vụt xuống mặt song (…) Đoàn quân chân đất khuôn mặt hiền từ nhưng thách đố. Mỗi bàn chân có năm ngón. Mười ngón chân bám chặt mặt đất như những câu móc bằng thép nguội. Không gì gỡ ra nổi. Những bàn chân bỗng chốc dạy cho tôi biết vì sao mặt đất quê hương này không bao giờ mất được. Những ngón chân rễ cây đại ngàn đã cắm sâu vào lòng đất nước (…) Nếu ai hỏi vì sao…? Đã nhiều câu hỏi như thế mọc lên cùng với nỗi ngạc nhiên của nhân loại trong thời kỳ bom đạn Mỹ rải thảm nơi này. Trong mỗi tấc đất đều chằng chịt vết thương. Thiên nhiên cùng xóm làng đều nằm rạp xuống thành mặt phẳng, chỉ có con người đã bền vững đứng lên. Những con người ấy hôm nay lại có mặt ở nơi này để lao vào trận mới. Nếu ai hỏi vì sao? Có lẽ chẳng phải hỏi gì nhiều mà chỉ thử cố gắng có mặt ở những giờ phút này thì sẽ hiểu vì sao” (…) Điểm đáng nói ở những công trường này, hoặc những công trường khác trên khắp đất nước, không chỉ là sự lợi ích đa dạng của con kênh về mặt thuỷ lợi, thông điện, thuỷ sản, lâm sản v.v… mà qua những công trường ấy, chúng ta dễ nhận ra cái triết lý sâu sắc của những sức người bền bỉ. Trong chiến tranh, dân ta ăn môn vót trên rừng để triết lý với giặc bằng cây súng. Giữa mùa xây dựng này cũng những con người ấy triết lý với đồi cao, với đất cứng bằng cái cuốc cái đầm. Một thứ triết lý đơn giản mà đáng kính đáng yêu biết bao để làm nên sự sống…”

[Tôi tổng hợp các đoạn trích dẫn trong bài “Nam Thạch Hãn những ngày đầu tháng ba” của Trịnh Công Sơn, đã đăng trên báo Văn nghệ Bình Trị Thiên, số 9, tháng 7-1978 với hai nguồn. Nguồn thứ nhất tại “Trịnh Công Sơn với công trường đại thủy nông” của Nguyễn Hoàn. https://www.tcs-home.org/ban-be/articles/tcs-voi-cong-truong-dai-thuy-nong-nam-thach-han . Nguồn thứ hai tại “Nơi lưu dấu bài bút ký duy nhất của Trịnh Công Sơn”, báo Tiền Phong, đăng ngày 23.6.2019, https://tienphong.vn/noi-luu-dau-bai-but-ky-duy-nhat-cua-trinh-cong-son-post1119682.tpo * Nếu có sai sót, xin độc giả làm ơn cho biết vì cho tới nay, tôi vẫn chưa tìm được hoàn toàn nguyên bản.]

Tôi vẫn tự hỏi có thanh niên thanh nữ–nhất là thanh nữ–nào lìa bỏ gia đình êm ấm đặng xung phong tới những chỗ đó? Hay họ chỉ là những số phận vô danh được Trịnh Công Sơn phong thánh một cách tàn nhẫn? Với tôi, tất cả bài hát và bài viết loại này đều chứng minh Trịnh Công Sơn chỉ làm theo đúng quan điểm của ông: ngả sang chủ nghĩa Cộng Sản một cách tích cực và hoàn toàn trước 1975 và trong một thời gian sau 1975. Trước 1975, Trịnh Công Sơn đã có một loại nhạc như thế. Đầy dẫy. Điển hình là “Nhân danh Việt Nam”:

-“ 1 2 3/1 Nhân danh Hòa Bình ta chống chiến tranh/Nhân danh cơm áo ta chống chiến tranh/Nhân danh xương máu ta quyết đòi Hòa Bình/Nhân danh Việt Nam ta chống chiến tranh 1 2 3/1 Nhân danh phú cường ta chống chiến tranh/Nhân danh đổ nát ta chống chiến tranh/Nhân danh mơ ước ta quyết đòi Hòa Bình/Nhân danh tình thương ta chống chiến tranh… 1 2 3/1 …” [https://www.youtube.com/watch?v=ex9T-_P8VFI, Phút 34.59]

Chúng ta cần nghe lại bài này để cảm được tính chất sắt máu không thua gì loại sáng tác “vùng lên”, “cách mạng” “tranh đấu” của Mặt Trận, nhất là với giọng hát không kém sắt máu của chính tác giả. Đó là một thứ nhạc kích động ra quân, không phải nhạc tranh đấu như của các nhạc sĩ khác ở Sài Gòn. Có thể tôi sai khi có cảm tưởng như vậy nhưng có một điều chắc chắn: quá khứ tự do của những Diễm Xưa, Biển Nhớ, Hạ Trắng… đã tương phản với phần hiện tại đang câm nín trong nhà tù. Sau 1975– thay cho các bài báo bênh vực cán bộ Cộng Sản nằm vùng, ca ngợi văn nghệ sĩ thiên tả như Trịnh Công Sơn hay chỉ trích chính phủ VNCH và Hoa Kỳ trước 1975–các cơ quan truyền thông ngoại quốc phổ biến rộng rãi các bản tường thuật kèm báo động về chính sách vi phạm nhân quyền của chính phủ Việt Nam.

Vào ngày 3, tháng 7. 1986, Chủ Tịch Văn Bút Quốc tế Francis King gửi văn thư cho Chủ Tịch Hội đồng Bộ Trưởng Phạm Văn Đồng về kết quả nghị quyết của Đại Hội Đồng tại Hamburg, Đức Quốc, tháng 6.1986:

clip_image019

Chủ Tịch Văn Bút Quốc tế Francis King gửi văn thư cho Chủ Tịch Hội đồng Bộ Trưởng Phạm Văn Đồng, Việt Nam
Tài liệu của Trưởng Ủy ban Nhà Văn-Bị Cầm tù Nguyễn Tà Cúc

Theo đó, thứ nhất, Văn Bút Quốc Tế kết án chính phủ Việt Nam đã vi phạm nhân quyền của nhà văn Việt Nam khi giam giữ họ trong các trại cải tạo, trái ngược với thủ tục tố tụng tại các quốc gia văn minh [vâng, civilized countries/các quốc gia văn minh!] Thứ hai, sự qua đời của Cựu Tổng Thư Ký Hiếu Chân (Nguyễn Hoạt)-Trung Tâm Văn Bút Việt Nam, trong trại cải tạo là điều hết sức đáng tiếc. Thứ ba, Văn Bút Quốc Tế lấy làm ân hận rằng nhà cầm quyền Việt Nam im lặng trước số phận của các nhà văn này (nên) đòi hỏi họ phải được trả tự do tức khắc.

Cũng trong cuối thập niên 80, có một vụ án không những chấn động mà còn gây bàng hoàng cho có lẽ hầu hết dân Miền Nam và người Việt tỵ nạn.

Sáng ngày 28.9.1988– theo tin của nhật báo Sài Gòn Giải Phóng số 4109 ra ngày 29.9. 1988-Tòa án Nhân Dân Thành Phố Hồ Chí Minh bắt đầu cuộc xét xử Thượng Tọa Thích Nguyên Chứng (hiệu Tuệ Sỹ), Đại Đức Thích Trí Siêu, ni cô kiêm dịch giả Trí Hải (khuê danh Công Tằng Tôn Nữ Phùng Khánh) và chừng 20 tòng phạm về tội “Hoạt động nhằm lật đổ Chính Quyền Nhân Dân”. Bức ảnh có Trí Siêu, Tuệ Sỹ, Trí Hải và tăng ni tại phiên tòa được đăng lại trong Vietnam: “Renovation” (Doi Moi), the Law and Human Rights in the 1980s do Amnesty International Hoa Kỳ ấn hành, 1990, trang 29:

clip_image021

Tuệ Sỹ, Thích Trí Siêu, Ni Cô Trí Hải và khoảng 17 ni cô cùng tăng sĩ trước Tòa Án Nhân Dân, Sài Gòn
Trí Siêu ngồi (cực trái) và Tuệ Sỹ đứng
Tài liệu của Trưởng Ủy ban Nhà Văn-Bị Cầm tù Nguyễn Tà Cúc

Cũng theo tin của Sài Gòn Giải Phóng, số ra ngày 1 tháng 10. 1988, Tuệ Sỹ và Trí Siêu bị kết án tử hình sau 3 ngày nghị án. Sau đó, vì sự phản đối kịch liệt của công đồng thế giới và Người Việt Tỵ nạn, cả hai được giảm án xuống còn chung thân rồi được thả vào năm 1998. Tuệ Sỹ bị giam tổng cộng khoảng 16 năm và bị quản thúc ba lần. Hòa Thượng Thích Nguyên Chứng hiệu Tuệ Sỹ viên tịch vào ngày 24. 11.2023 sau khi thay thế Hòa Thượng Thích Quảng Độ lãnh đạo Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Tuệ Sỹ, một học giả và tác giả nổi tiếng với thơ (và văn), có thể đại diện cho một Miền Nam bị giam nhưng không chịu khuất phục, trong khi Trịnh Công Sơn vẫn bị cuốn vào vòng xoáy lịch sử khi bị chịu ảnh hưởng từ một nhà giam lớn hơn mà kinh nghiệm tại Canada không phải là kinh nghiệm duy nhất, hay có lẽ, day dứt và sầu hận nhất.

7.3 không ít những người vẫn dường như thiếu lòng tín cậy ở tôi…Trịnh Công Sơn, tháng chạp 1990

Tôi thường được nghe và được đọc rằng nhạc Trịnh Công Sơn từ bi và nhuốm màu Phật Pháp, lại có tính triết học. Tôi không tin ở 2 khía cạnh từ bi và Phật pháp, mà còn trái lại là đằng khác. Tôi trích dẫn vài đoạn sau đây nhắm cho thấy đối tượng bị sân hận lại chính là quá khứ của ông. Khi viết và cho đăng bài “Chuyển hoán” (1990) thì ông đã và đang xuất hiện bên những người có…bí danh; hoặc văn nghệ sĩ bên kia, những người có tên như Nguyễn Quang Sáng hay Trần Tiến. Không bao giờ chúng ta còn thấy bên cạnh ông những nhà thơ Tô Thùy Yên (người viết bạt cho một tập nhạc của ông), những nhà thơ Viên Linh, Thư ký Tòa soạn Khởi Hành-từng đăng bài của ông vào ngay trong tạp chí của Hội Văn Nghệ sĩ Quân Đội, những họa sĩ Tạ Tỵ-đã vẽ chân dung và viết về ông.

Thời điểm xuất hiện của “Chuyển hoán” không tình cờ mà ngay trong cao trào ra đi chính thức của hàng ngàn quân cán chính VNCH. Trong số đó, văn nghệ sĩ cùng thời với Trịnh Công Sơn như Tô Thùy Yên, Thanh Tâm Tuyền sẽ ra đi hầu hết. Ông cũng vô tình cho biết loạt ra đi chính thức của nhiều văn nghệ sĩ này đã tác động ra sao tới Sài Gòn thời đó:

-“Ở vào thời điểm này, chuyện đi, ở, nghe ra đã nhuốm màu cũ kỹ. Kẻ ở người đi dường như chỉ còn là chuyện riêng tư của mỗi người, của câu chuyện đời riêng. Cái hăm hở của người này không còn làm xao động sự trầm tĩnh của kẻ khác. Trong số bạn bè thân thiết của tôi, qua nhiều thời kỳ, số người ra đi nhiều hơn người ở lại. Những năm gần đây có người ra đi tuồng như muốn dấu kín một nỗi ân hận trong lòng. Đi mà cứ như muốn nhắn gởi lại một lời minh oan: đừng phiền trách mình nghe bạn. Tôi chẳng bao giờ có một lời trách cứ nào đối với bạn bè tôi. Tôi vẫn luôn nghĩ rằng những người ra đi ấy muốn thể nghiệm mình trong một đời sống khác. Bên cạnh đó, có những con người, chỉ vì giao tế trong đời, tôi đã gặp. Họ là những người có học và thậm chí đã có những vị trí tương đối trong xã hội. Thế rồi, bỗng trong những bữa tiệc chia tay, họ ăn nói huyên hoang, họ mặc trước cho mình những phong cách thiếu khiêm tốn và họ cùng vẽ ra cho nhau những dự án huy hoàng, những buổi gặp gỡ thần tiên trên xứ sở xa xôi mà họ sẽ đến. Có điều lạ là thường những loại người này đều tập trung vào một nơi sẽ gánh vác họ là đất Mỹ. Trước năm 1975 tôi có vài người bạn Mỹ. Họ đều thuộc thành phần trung lưu của xã hội đó. Họ yêu mến Việt Nam, và qua đó họ đã dành những tình cảm đặc biệt đối với tôi. Ở họ, tôi chưa hề một lần bắt gặp cái kiểu cách hợm hĩnh, phô trương như những người tương lai sẽ là Mỹ da vàng kiểu nói trên.

Trong xã hội, cái thành phần bị xem thường nhất là lớp người bị liệt vào loại du đãng, du thủ du thực. Thời còn trẻ, không hiểu cơ duyên nào đã đưa tôi đến chỗ quen biết khá nhiều những kẻ được sắp xếp vào thứ thành phần không được coi trọng đó. Tôi có một số kinh nghiệm về họ bởi vì chính bản thân tôi và cả những bạn bè tôi đã một vài lần được họ bênh vực và thậm chí che chở trước những hăm dọa vô lý của những bạo lực không đâu. Đó là những con người vì một oán giận hay một bức bách nào đó từ cuộc sống mà đã tự biến mình thành kẻ vô lại. Tôi gọi họ là những tên du đãng có tâm hồn. Và một ngày đẹp trời, bỗng những tên du đãng ấy khoác áo thiện tính bước vào cõi đời chung. Cuộc sống càng dài thì mắt ta càng được nhìn thấy nhiều chuyện đời lạ lắm. Tâm hồn đẹp là tài sản chung của con người. Nhưng rõ ràng đã có những sự chuyển hoán của tâm hồn từ vị trí này sang vị trí khác, từ người này sang người khác. Đã có biết bao con người tưởng chừng tử tế đã biến thành kẻ vô lại và cũng không thiếu những kẻ vô lại chuyển mình thành con người hào sảng. Tôi thường có cảm giác mình là một kẻ thiếu may mắn. Sống qua nhiều thời kỳ, ngoài cái vốn bạn bè ít ỏi, tôi thấy không ít những người vẫn dường như thiếu lòng tín cậy ở tôi. Và nếu như trong một ý nghĩa phù phiếm nào đó, tôi đã quan niệm cuộc sống như một trò chơi lớn nhỏ, thì người đời thường ép tôi vào một cuộc chơi không sòng phẳng. Vào những ngày cuối năm 90 này tôi bỗng muốn nhớ lại một chặng đường dài mình đã đi qua. Nhớ những khuôn mặt đã gặp, những tấm lòng đã thấy. Nhớ mà không vui. Bởi những lời đàm tiếu độc địa vẫn như những viên sỏi bắn vào thân tôi không chống đỡ. Từ một lời nguyền rủa nào đó, những lời vu khống đầy ác ý vẫn còn bay quanh đời tôi như những đàn ong độc […] Quả đúng là dù ở đâu chúng ta cũng chỉ có mỗi một công việc là làm nghệ thuật. Cái nghiệp này xét cho cùng cũng không tồi mà cũng chẳng sang. Không thiên đường không địa ngục. Chỉ có điều như người làm vườn tôi gắng thu xếp để chọn được cho hạt giống của mình một thứ đất phù hợp, một bầu khí hậu thuận lợi nhất cho hạt giống thở được bằng chính lá phổi của nó, không vay mượn, không van xin.Với tôi, sự tự do sau cùng của mỗi số phận là sự tự do chấp nhận.” [Trịnh Công Sơn, “Chuyển hoán”, Tháng 12/1990. Nguồn: Báo Phụ Nữ, số Xuân 1991 (Tân Mùi), tr. 28. https://www.tcs-home.org/writings/chuyen-hoan]

Tôi quả ngạc nhiên: Trịnh Công Sơn quên Không quân Đại tá truy thăng Lưu Kim Cương (không phải một du đãng) đã che chở cho ông rồi sao? Tại sao một nhạc sĩ danh tiếng phải cất công thóa mạ những người vô danh chỉ vì tin đồn? Ai lại đối thoại với những xác chết? Tại sao phải nguyền rủa những kẻ phải gặp chỉ vì giao tế trong đời? Tại sao phải để tâm đến lời đàm tiếu hay những lời vu khống đầy ác ý? Tại sao phải cho lời đàm tiếu độc địa ấy cái danh dự được nhắc đến?

Để tránh mang tiếng đạo đức giả–vì cũng từng là đối tượng của vài bầy ong độc hoặc không độc trong rất nhiều năm, thậm chí cho đến ngay bây giờ– tôi có thể hiểu một thực tế hiển nhiên trong giới văn nghệ, như trong bất cứ giới hay nhóm nào ngoài đời, là có những tin đồn có thể đúng có thể sai, có khi có thiệt và có khi thất thiệt. Bởi thế, chính vì thế mà, cũng theo tôi, là sự thường tình và không cần phải khó chịu quá đáng vì chưa chắc người ta đã cố ý. Ngày nay, các con ong không làm ra nổi một hũ mật ấy sẽ tụ tập ở đóa hoa này, ngày mai sẽ chung quanh đóa hoa khác. Thế nên, tại sao phải than vãn người đời thường ép tôi vào một cuộc chơi không sòng phẳng? Sòng phẳng hay không phải do mình quyết định.

Ngoài ra, tại sao phải cần người khác có lòng tín cậy trong khi lòng tín cậy là một điều kiện phải được đáp ứng bằng hành động. Ông đã làm gì trước 1975? Và không làm gì sau 1975? Tôi càng không lầm khi kết luận rằng “đối tượng bị sân hận lại chính là quá khứ của ông” sau khi đọc loạt “Du Ký Canada” vào năm 1992. Trước đó, ông đã không tiếc lời chê bai “những loại người này đều tập trung vào một nơi sẽ gánh vác họ là đất Mỹ” và, 2 năm sau, ông chỉ rõ “Khối chống cộng là khối bê bối nhất…” tại Canada khi có dịp được phép du lịch ngoài Việt Nam, chính thức có cơ hội gặp những người ra đi ấy.

7.4 Nhìn tôi lên cao nhìn tôi xuống thấp/Con mắt còn lại nhìn cuộc tình phai/Tình trong hai tay một hôm biến mất/Con mắt còn lại là con mắt ai/Con mắt còn lại nhìn tôi thở dàiCon mắt còn lại, 1992

Tôi không rõ Trịnh Công Sơn có những cuộc đi nào sau 1975, nhưng ít nhất có cuộc đi Pháp (1989) và Canada (1992). Cả 2 cuộc đi đều không hoàn toàn vui.

7.4.1 Tôi không có ai để nhớ và cũng không có ai để quên…, Paris, 1989

Cuộc đi Pháp không vui đến nỗi người bạn thân Phạm Văn Đỉnh phải viết lời giới thiệu bài “Viết bên bờ Loiret” của Trịnh Công Sơn như sau:

-“Trịnh Công Sơn và Paris.

“Vừa tới Paris, rồi lánh Paris, về một nơi thanh thản hơn, mà nghĩ về Paris và về giấc mơ Paris. Mấy dòng tản mạn dưới đây, do Trịnh Công Sơn viết vài ngày sau khi tới Paris, không khỏi tạo cho người đọc những phút giây bàng hoàng. Không biết sự việc gì đã làm cho Trịnh Công Sơn khó chịu và thất vọng như thế, quan cảnh hay quan hệ? Paris hỗn ồn? Đâu bằng Sài Gòn! Paris hành hung đồng hương? Có thể! Paris trói chân phố xá? Có lẽ! Hay đơn giản hơn: giấc mơ và hiện thực luôn luôn là hai chuyện khác nhau! Thôi thì tìm về một gốc vườn, ngồi thật yên mà ngắm và nhớ thiên nga của mới năm nào, chưa xa lắm…Cám ơn Ngô Văn Tao đã đánh máy lại và gởi cho Hội văn hoá Trịnh Công Sơn. Bài này đã xuất hiện đầu tiên trên Đoàn Kết (Paris), số 413 (tháng 5/1989), tr. 19 và đã được đăng lại trong cuốn Trịnh Công Sơn, người hát rong qua nhiều thế hệ, nxb Trẻ, 2001, tr. 13-14; chúng tôi sửa theo bản của Đoàn Kết. Theo chúng tôi biết, bài này là bài duy nhứt mà Trịnh Công Sơn viết trong suốt thời gian ở Paris, từ 17/05/1989 đến 26/06/1989, viết trước khi“ra mắt”công chúng bạn bè chiều 27/05/1989 (khai mạc triển lãm tranh) và tối cùng ngày.” [Phạm Văn Đỉnh, 12/08/2005)- https://www.tcs-home.org/writings/VietBenBoLoiret ]

Tuy không biết lý do, nhưng tôi cảm thấy sự giận dỗi, ấm ức thì đúng hơn, trong “Viết bên bờ Loiret”:

-“[…]Tôi không có ai để nhớ và cũng không có ai để quên. Tôi đã nhớ một đời và đã quên hết nửa đời. Những con thiên nga làm tôi nhớ những đôi chân đẹp. Đẹp một cách lạnh lùng tự nhiên vì màn đã khép, đôi chân đã về và tôi cũng trở về với chốn riêng tôi. Người ta chia sẻ vẻ đẹp và người ta cũng chia sẻ nỗi khổ đau. Nhưng sự bất khả tư nghi (l’impensable), không ai chia sẻ được. Paris là ước mơ của một thời tuổi trẻ, nhưng giờ đây ước mơ ấy không còn ở lại đây với tôi. Hoá ra giấc mơ và sự thật không phải là một. Người ta có thể yêu nhau và ghét nhau, nhưng xin đừng hãm hại nhau. Tôi sợ lắm những gì mang đến bất hạnh cho con người. Hãy cố gắng mang đến cho nhau những giấc mơ, những giấc mơ làm nên hạnh phúc. Đi đâu đến đâu hãy chỉ thấy những nụ cười, những nụ cười như đoá hồng đứa bé cầm trên tay đi qua đường phố, rực rỡ một lòng yêu thương vô tận. Chúng ta hình như thừa bạo lực nhưng lại thiếu lòng nhân ái…” [Trịnh Công Sơn, “Viết bên bờ Loiret”, Orléans, 22 tháng 5. 1989- https://www.tcs-home.org/writings/VietBenBoLoiret ]

Trịnh Công Sơn nói đến “hãm hại” và “bạo lực” ở một nơi đã được một số thân hữu tiếp đón nhiệt thành và long trọng trong hơn một tháng trời?! Có điều chắc chắn ông đã phải nhận ra truyền thông Pháp không còn chú ý tới những người “phản chiến” như ông mà quay sang vấn đề vượt biển vượt biên. Vào năm 1980, bác sĩ Bernard Kouchner cho xuất bản cuốn L’Île de Lumière thuật lại hành trình của tàu Đảo Ánh Sáng do ông gợi ý, sáng lập và thành lập cùng một số tình nguyện viên. Sau này, ông trở thành Chủ Tịch Hội Medécins du Monde/Y sĩ của Thế giới.

clip_image023

Bìa sau của L’Île de Lumière có đoạn giới thiệu tàu Đảo Ánh Sáng và Bernard Kouchner:

-“Souvenez-vous: cinq cent mille Vietnamiens fuyant en Mer de Chine sur des barques rouillées. Souveney-vous: le 17 avril 1979, à la télévision, ce navire blanc ancré devant l’Île de Poulo Bidong…/Xin quý vị nhớ tới 500.000 người Việt trốn chạy trên biển Trung Quốc trên những con thuyền rỉ sét. Xin quý vị nhớ, vào ngày 17 tháng 4, năm 1979, xuất hiện qua màn ảnh truyền hình, con tàu màu trắng bỏ neo trước đảo Poulo Bidong…”

Trong số các bác sĩ đáp ứng chương trình của bác sĩ Bernard Kouchner, có bác sĩ Phan Minh Hiển. Ông tham dự cuộc vớt người trên biển từ 1982 tới 1984 và để lại hồi ký Biển Nhớ-Hồi ký của một bác sĩ Việt trên tàu cứu trợ Le Goëlo. Ông học chương trình Pháp tại Sài Gòn, chỉ 1 năm cuối mới học chương trình Việt trước khi du học nên viết hồi ký bằng một lối văn rất giản dị lộ rõ cảm xúc.

clip_image025

Phan Minh Hiển, Biển Nhớ-Hồi ký của một bác sĩ Việt trên tàu cứu trợ Le Goëlo
Lá Bối xuất bản, Paris & San Jose, 1984

Bác sĩ Phan Minh Hiển cũng phát động phong trào giúp đỡ Thương phế binh VNCH vào năm 1992. Ông và Nguyễn Văn Huy là đồng tác giả Những mảnh đời rách nát (Nhà xuất bản Ngày Nay, 1999, Hoa Kỳ) về đời sống chật vật của thương phế binh VNCH dưới trào Cộng Sản. Tôi sửng sốt khi được bạn hữu báo tin ông qua đời bất ngờ vì bạo bệnh vào tháng chạp 2021, hưởng dương 65 năm. Giữa một Paris nhân ái chìm trong biển nhớ những nạn nhân Cộng Sản nhưng đã quên Trịnh Công Sơn thì Paris không như ông tưởng tượng là phải. Paris cần lòng nhân ái được chứng minh bằng hành động.

7.4.2 Khối chống cộng là khối bê bối nhất– Canada, 1992

Nếu ở Paris, Trịnh Công Sơn còn giữ được lịch sự khi sử dụng Paris như một cái khiên thì, vài năm sau, ông không còn ngần ngại khi bầy tỏ về người Việt chống Cộng:

-“Người Việt Nam ở Montréal sống trong ba loại cộng đồng khác nhau. Cộng đồng của người Việt yêu nước. Những hội đoàn chống cộng. Và cộng đồng của những người Việt không phe phái. Đa số những người Việt Nam trong cộng đồng sau cùng này là những người du học từ lâu trước 75. Họ đã hòa nhập vào xã hội đó và sống như người bản xứ. Tất cả đều có công ăn việc làm ở mức từ trung bình trở lên. Khối chống cộng là khối bê bối nhất. Lấy nghề chống xã hội Việt Nam của chúng ta làm lẽ sống. Càng chống đất nước càng trở thành anh hùng. Và nói chung, dù chỉ mới từ bỏ đất nước đi sau 75, không một ai trong cộng đồng đó hiểu Việt Nam là gì trong quá khứ, trong hiện tại… Con người Việt Nam chúng ta đã làm được không ít điều lớn lao đẹp đẽ trong quá khứ và hiện tại cũng đã góp mặt, so vai một cách đáng tự hào với thế giới ở lĩnh vực này, khía cạnh khác. Chỉ có điều, tốc độ của sự chuyển biến chung về kinh tế – xã hội có lẽ chưa làm cho nhiều người chúng ta hài lòng. Nhưng, tôi lại nghĩ: muốn cho xã hội chuyển biến nhanh hơn, tốt hơn được hay không còn tuỳ thuộc vào nỗ lực của mỗi người Việt yêu nước và có trách nhiệm trên xứ sở mình. Giàu có hay không là do mình. Đẹp đẽ hay không cũng tự mình. Vấn đề là mỗi người chúng ta ý thức đầy đủ về bổn phận phải làm gì và làm như thế nào để đất nước thân yêu của chúng ta phải đẹp phải huy hoàng như mọi miền xứ sở nơi này nơi kia trên mặt đất này. Yêu đất nước không chỉ là một lời nói suông, cũng không là một tiếng nói lên gân bậy bạ. Thử bắt đầu bằng một động tác rất nhỏ như đi trồng một cây hoa đẹp trên đường phố chẳng hạn. Hãy yêu thương quê hương như yêu tình nhân của mình vậy.” [Trịnh Công Sơn, “Canada du ký-Phần 5: Nghĩ về hiện tại và quá khứ”, Nguồn: báo Phụ Nữ số 64, ngày 26.08.1992, tr. 5. – https://www.tcs-home.org/writings/canada-du-ky-5 ]

Tôi không ngạc nhiên khi đọc loại lý luận Càng chống đất nước càng trở thành anh hùng, hay Không một ai trong cộng đồng đó hiểu Việt Nam là gì trong quá khứ, trong hiện tại Hãy yêu thương quê hương như yêu tình nhân của mình vậy vv và vv. Lỡ tình nhân không yêu lại thì sao?! Cả bài này không thuyết phục được ai, nhất là Yêu đất nước không chỉ là một lời nói suông, cũng không là một tiếng nói lên gân bậy bạ. Trước hết, có ai được nói trong chế độ Cộng sản đâu mà lên gân bậy bạ hay không bậy bạ?! Sau nữa, nói thì không được nhưng hát suông cổ động cho chính phủ thì được. Lấy thí dụ Trịnh Công Sơn. Ông không phải phục vụ tại “nông trường” hay “ra biên giới”. Chính phủ mới cho phép ông sống một đời phủ phê ngay tại Sài Gòn với cà phê hạng nhất, thuốc lá hảo hạng, rượu “ngoại” đắt giá, bạn bè thuộc lớp thịnh thời, giao du với ông lớn, tự do di chuyển (trong nước), đàn hát, vẽ vời. Riêng việc vẽ vời này cũng đáng nói đến vì ông có vật liệu dư giả, trong khi chính mắt tôi đã được đọc một mẩu thư của một họa sĩ danh tiếng nhờ 1 người bạn cũ đã di tản gửi cho các tube sơn màu trắng. Thế mà, tuy nguyền rủa những kẻ ra đi và chống Cộng, ông (chọn ở lại và không chống Cộng) không tránh được sự mâu thuẫn khi bày tỏ nỗi tiếc hận quá rõ ràng trong một dịp thoát khỏi chiếc lồng vàng trong chốc lát, đủ để ngộ ra một khung trời tự do nên xinh đẹp nay đã ngoài tầm bay:

-“[…] Mình hỏi người bạn: Ông ở đây đã mấy chục năm, ông có thấy dân ở đây hồn nhiên vô tư lự và dễ thương không? Anh bạn dạy học, đồng thời cũng là người làm thơ, cười cười: Cái thành phố không có anh hùng nó sản sinh ra loại người như vậy đó toa ạ! (…) Một hôm ở Vieux Montreal mình cùng người bạn đang đi lang thang ngắm trời ngắm cảnh gặp hai cô bé Nhật. Họ đưa máy ảnh nhờ chụp giùm hai người đứng trước một nhà thờ cổ. Sau khi chụp hình xong mình hỏi: Xin phép đi du lịch có khó không? Cả hai ngơ ngẩn không hiểu: khó là gì? Cắt nghĩa mãi họ mới hiểu ra: “Ai muốn đi thì cứ đi bất cứ lúc nào”. À, thế là mình chợt nhớ lại một điều rất cũ kỹ là con người có đôi chân thì cứ lúc nào muốn đi thì đi. Mạnh khỏe thì đi xa. Ốm yếu thì đi gần. Đi là cái quyền tối thiểu của mỗi con người tự do. Ở Montreal, nhà nước được sắm ra là để cho phép chứ không phải để cấm. Có nhiều đêm trời mưa, xe chạy qua nhiều khu phố trông giống như một vài nơi ở Sài Gòn. Thấy nhớ kỳ lạ. Thường những lúc ấy trong đầu lại nảy sinh những phác họa tương lai lộng lẫy cho thành phố mình. Không hiểu sao dạo này mình hay lẩm cẩm như thế. Đi qua Amsterdam, Singapore, dù không muốn, cái đầu vẫn cứ gán ghép một Sài Gòn vào những hình ảnh đẹp đẽ nhất của những xứ sở đó. Giá như Sài Gòn có thêm cái này, có thêm cái kia v.v… Nếu mọi người có ý thức, xem thành phố mình ở như căn nhà riêng của mình thì có lẽ thành phố sẽ đẹp lên một cách dễ dàng. Có người bạn là một nhà khoa học nghiên cứu về bụi, làm việc ở Pyrénées, đã có lần than thở: Chưa có thành phố nào trên thế giới này mà lại không thấy chim như ở Sài Gòn. Nghe đau khổ thật. Mình nghĩ rằng không phải chỉ vì ô nhiễm mà vì mấy thằng vô ý thức cứ ngày ngày mang súng Tiệp đi bắn chim trong thành phố. Những thứ tự do vô lại như thế thì không ai ngăn cấm cả. Làm một điều tốt thì phải xin phép nhưng làm điều bậy thì tha hồ. Đi xe đạp nghênh ngang lấn đường sá cũng là một thứ tự do đương nhiên. Cái gì rồi cũng thành thói quen cả. Chúng mình thật bất hạnh là đã nhiễm dần những thói quen xấu mà không còn phản ứng nữa (…) Mình gặp tuyết rồi. Thích lắm. Mặc lạnh cóng, mình cứ ngang tàng đi trong bão tuyết. Hôm ấy có cả Đinh Cường (họa sĩ) từ Washington D.C. sang. Những lọn tuyết tròn lớn hơn nắm tay chỉ vài phút sau là đã phủ trắng xóa cả cây cối, xe cộ, và đường phố. Tối hôm ấy mình về vẽ ngay một bức tranh Thiếu nữ tuyết. Lần đầu tiên cầm trong tay một nắm tuyết trắng tinh như vậy mình mới hiểu thế nào là màu trắng. Không vẽ ra được cái màu trắng ấy. Không hiểu một tâm hồn trong trắng thì cái trắng ấy như thế nào. Lúc mình cầm nắm tuyết vào quán cà phê ở góc phố thì cô bạn Anna cười bảo: Các anh lãng mạn quá. Mình hơi ngượng nhưng cũng nói lại: Không có sự lãng mạn có lẽ chúng tôi không tồn tại nổi đến hôm nay đâu. Có quá nhiều điều để nói về thành phố này. Một thành phố dễ ở và dễ thương. Những con người hiếu khách và độ lượng. Không ai nổi giận với ai. Chỉ có nụ cười và một cách sống dễ dàng ngoạn mục hơi thoáng vẻ bohémien. Một điều rất hay là khi hòa nhập với cuộc sống nơi này rồi thì mọi nỗi buồn tan biến. Sự tử tế giữa con người với con người làm mình tin rằng điều tốt là một cái gì có thể thực hiện được giữa cuộc đời này. Không có gì quan trọng cả và vì thế cũng không có gì đáng phải nản lòng. Thành phố đang chuẩn bị cho Festival de Jazz vào mùa hè. Đã có những tiếng kèn saxo vang lên từ những hè phố. Đời sống sao mà vui vậy. Chỉ có lễ lạc và những trái tim không bóng tối.” [Trịnh Công Sơn, “Thư viết từ Montreal không gửi”, Canada, 1992- https://www.tcs-home.org/writings/thu-viet-tu-montreal-khong-gui- Nguồn Tuổi trẻ chủ nhật, Số 31, ngày 9.8.1992, trang 16]

Đúng thế: Không có sự lãng mạn thì chúng tôi các cô Sài Gòn không tồn tại nổi đến hôm nay đâu để vừa hát vừa catwalk! Tóm lại, Trịnh Công Sơn chỉ là một thứ tiền vệ không hơn không kém như vô số tiền vệ kiểu Thành phần Thứ Ba, Thân Tả đã vô tình giúp Cộng Sản thanh toán Miền Nam. Ông không đến nỗi là một kẻ tham lam quyền thế. Bản tính nghệ sĩ đã giúp ông tránh được vết đổ của những người sử dụng nghệ thuật hầu đổi lấy bả vinh hoa, nhưng cũng chính vì bản tính nghệ sĩ ấy mà ông có một thứ lý tưởng cả tin –khiến sáng tác những bài nhạc hay bài viết sẽ không còn ai nhớ đến nữa– với một tâm hồn quá dễ thương tổn. Ông biến thành một thứ chim trong lồng vàng vì, thừa biết, ngoài kia, trại giam vẫn mở cửa, xã hội phân rẽ với nhiều loại giai cấp mà dân Miền Nam đứng cuối bậc thang, ngưởi chiến thắng Miền Bắc đã không nối vòng tay, bất kể lớn nhỏ, với kẻ bại trận, đúng như lời tiên đoán với Crystal Erhart trước đó đã mấy chục năm.

Nhà phê bình Trần Hữu Thục (bút danh của nhà văn Trần Doãn Nho) giải thích giai đoạn mà ông gọi là sáng tác có “tính cách ‘sống còn’” của Trịnh Công Sơn một cách rất thuyết phục trong bài “Một cái nhìn về ca từ Trịnh Công Sơn”. Ông dành một phần trong bài hầu phân tích những bài hát về tình yêu cùng thân phận, trong cả thời bình lẫn thời chiến, bằng một tượng hình trong biểu đồ liên tục với 3 cạnh của một tam giác: Em, Cõi ThếTôi. Tôi nhìn biểu đồ này như 3 thế giới tương tác không ngừng một cách hòa bình, nhưng khi một khía cạnh trong ba có trục trặc, chiến tranh sẽ xẩy ra trong nội tâm Trịnh Công Sơn khiến ông phải tìm cách “sống còn”. “Nhân sinh ca” được tác giả trình bày như sau:

-“ IV-Nhân sinh ca—Mấy hình tượng chính

Như đã trình bày ở phần trên, tôi gọi chung những bài tình ca thân phận ca TCS là nhân sinh ca. Ta có thể tổng quát hóa các hình tượng chính trong nhân sinh ca của TCS như sau:

clip_image026

Em là ngôi vị để chỉ người tình. Có thể là một người tình cụ thể (như Diễm, Lộc…) mà cũng có thể là người tình tưởng tượng. Và cũng có thể chỉ là một khái niệm, một bóng dáng, một hình ảnh, một sản phẩm thuần túy tưởng tượng. Nhưng đàng nào thì cũng là một người nữ.

Tôi là chủ thể, là tự ngã. Có khi Tôi trở thành Ta. Trong hầu hết ca khúc, cái Tôi đây không chỉ riêng một TCS cụ thể với những hoàn cảnh cụ thể riêng biệt, mà là một thân thế, một hiện sinh, một số kiếp. Tôi, hầu hết là chỉ người nam, nhưng có khi là con người nói chung. Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, thì rõ ràng Tôi là con người, nam nữ. Trong thực tế, nhiều khi là nam, nhưng ý muốn nói là con người.

Cõi thế (hay “cõi đời” hay “một cõi đi về”) có thể là người đời hay đời người hay những đối vật gần gũi tham dự trong kiếp hiện sinh, tồn tại bên cạnh mỗi người, bên cạnh cái Em, bên cạnh cái Tôi, trong cái Em, trong cái Tôi hoặc tạo thành cái Em, cái Tôi: giòng sông, ánh nắng, con trăng, bông hoa, con đường, góc phố với những liên hệ xa gần với Em, với Tôi, với người đời và đời người. Cõi thế, như thế, là nơi chứa chấp Em và Tôi và người đời như những thân phận. Thành thử, ta không ngạc nhiên khi thì anh ru Tôi, rồi ru Ta, rồi ru đời, rồi ru người.

Tương quan giữa Em và Tôi tạo thành cái được gọi là tình yêu, nỗi nhớ, sự tiếc nuối, nỗi buồn, sự mất mát, lòng mong ước và là nguồn cảm hứng bất tuyệt cho những bản tình ca Trịnh Công Sơn.

Tương quan giữa Tôi và Cõi thế tạo nên cái mà Trịnh Công Sơn gọi là “một cõi đi về”, là nguồn gốc của mọi bi kịch, của thân phận, là nỗi tuyệt vọng không cùng, đeo đẳng gần suốt sự nghiệp và cuộc đời của Trịnh Công Sơn. Có những giai đoạn, tương quan đó trở nên “bất bình thường”, anh bị “vong thân”, nghĩa là bị ném ra khỏi cái Tôi cố hữu của anh. Tôi biến thành cái Ta, thành cái Chúng ta. Đó là cái Tôi trong một số bài của “Ca khúc da vàng”, của hai tập “Kinh Việt Nam” và “Ta phải thấy mặt trời”, tóm lại là cái Tôi đặc biệt trong những bài ca nói về chiến tranh, về cuộc tranh đấu cho hòa bình, về mơ ước xây dựng lại đất nước vân vân. Đó cũng là cái Tôi của giai đoạn sau này khi sống dưới chế độ Cộng Sản. Giai đoạn trước, những lời tâm sự biến thành những lời than van, gào thét, lên án và những mơ ước rực rỡ nhưng viển vông. Giai đoạn sau thì cái Tôi cũng trở thành cái Ta hoặc biến mất trong cái Ta chỉ để… “sống còn”. Cái trước nghe còn có chút gì là của anh, cái sau hoàn toàn vong thân, biến tính. Để hiểu cái tính cách “sống còn” này của TCS, có lẽ không có gì cụ thể thể hơn là đọc trích đoạn sau đây của Nguyễn Duy, một nhà thơ trong nước, viết về anh vào năm 1987: ‘Một số ca khúc mới của TCS, sáng tác từ cảm hứng trước hiện thực mới, đã được công chúng lan truyền rộng rãi, trong đó, bài “Em ở nông trường, em ra biên giới” được đáng kể là cái mốc đánh dấu chặng đường mới của anh. Anh đã thật sự “bắt” vào mạch đời sống hiện thực mà vẫn giữ được cái giọng riêng, cái bản sắc tươi sáng. Một vài năm trước 1975, anh hơi sa đà vào mạch thiền, bắt đầu có dấu hiệu lẩn quẩn (…). Chính hiện thực đời sống đã giúp anh “trẻ lại”, anh đi nhiều, sáng tác và hát, ở nhà trường, công trường, nông trường, ở các tụ điểm sinh hoạt xã hội của thanh niên, sinh viên và trí thức thành phố, lên biên giới, ra biển khơi, vào tận bưng biền Đồng Tháp Mười. (…). Với anh, có thể kể ra hàng loạt những bài hát được nhiều người ưa thích “Em còn nhớ hay em đã quên”, “Chiều trên quê hương tôi”, “Huyền thoại mẹ”, các bài hát trong phim “Pho tượng”, phim “Y võ dưỡng sinh”v.v…đều là những bài nhạc và lời tương sinh như xác với hồn, những chi tiết hiện thực đời sống được nâng lên trong xu hướng vươn tới cái đẹp lâu bền”(17).

Giọng điệu Nguyễn Duy nghe ra có vẻ thật tình, chắc cũng giúp được TCS trong giai đoạn xoay sở để “sống còn” này. Chẳng có gì là lạ, ai cũng muốn sống còn cả mà! Có lẽ chính vì nhận ra cái tính chất giai đoạn, tính chất “bất bình thường” của chúng mà trong tuyển tập Những bài ca không năm tháng của anh không có những bài ca tuyệt hay về chiến tranh và mơ ước về hòa bình, lại càng không có một số bài ca được sáng tác với mục đích “sống còn” này. Chỉ trừ bài “Em ra đi nơi này vẫn thế”, tuy phảng phất hơi hướm tuyên truyền, nhưng vẫn là một bài đầy chất tâm sự. Phải chăng anh đã xem chúng như là những bài ca “có năm tháng”, không thể hiện đúng ý hướng của anh là “Mỗi bài hát của tôi là một lời tỏ tình với cuộc sống, một lời nhắn nhủ thầm kín về những nỗi niềm tuyệt vọng và cũng là một nỗi lòng tiếc nuối khôn nguôi đối với buổi chia lìa (một ngày nào đó) cùng mặt đất mà tôi đã một thời chia xẻ những buồn vui cùng mọi người”? (18) Cũng không có cả “Nối vòng tay lớn”, bài hát đã để lại một kỷ niệm chẳng mấy vui cho những người yêu mến anh…” [Trần Hữu Thục, “Một cái nhìn về ca từ Trịnh Công Sơn”, sđd, trang 69-71 * Chữ TCS viết tắt là của nguyên bản.]

Duy có 1 điều tôi nghĩ Trần Hữu Thục hơi khoan dung với Em còn nhớ hay em đã quên (“Em ra đi nơi này vẫn thế”). Đó là 1 bài có tính tuyên truyền hoàn toàn theo chính lời tác giả. Trịnh Công Sơn đã sáng tác, tuy không theo chỉ thị trực tiếp từ Thủ Tướng Võ Văn Kiệt nhưng vẫn từ sự gợi ý-một chữ rất lịch sự– của một thứ đòn tâm lý chiến từ một nhà cầm quyền muốn cứu vãn tình cảnh ê chề của một “nhan sắc” xuống dốc của Cộng Sản lúc đó.

Đằng khác, hầu hết đều công nhận ông là sản phẩm của Việt Nam Cộng Hòa, trước và sau 1975. Đoạn viết sau đây của Tuấn Huy rất tiêu biểu cho cảm tưởng ấy:

-“[…] Như vậy, TCS là một trong những tài năng hàng đầu của chúng ta. Nhất định tài năng đó không phải – và không bao giờ phải, của phe cộng sản. Nhất định, chế độ cộng sản không thể – và không bao giờ có thể – đào tạo nên được một tài năng đầy lòng từ ái rất nhân bản như TCS. Mà chính là thể chế của người Quốc Gia, Tổ Quốc của người Quốc Gia, đất nước của người Quốc Gia mới là những môi trường thuận lợi cho một tài năng cỡ tài năng của TCS nẩy mầm và xanh tươi phát triển…” [Tuấn Huy, sđd, trang 34]

Phần tôi, một người ít nghe nhạc ông (chỉ vì thích loại nhạc khác, không vì lý do chính trị), tôi nghĩ còn thêm một điều hiển nhiên nữa: Lời nhạc Trịnh Công Sơn luôn thơ, luôn đẹp. Không chỉ trong lãnh vực âm nhạc, tôi không muốn đọc hay nghe những lời không thơ, không đẹp vì, nếu muốn, tôi có thể nghe bất cứ ở đâu. Có lần làm thợ sơn trong hai tuần, tôi đã nghe vài lời không thơ này bằng bốn thứ tiếng (Việt, Anh, Pháp và Spanish) nên không cần tới Tục Ca của Phạm Duy. Không phải tôi úy kị gì những chữ này. Có một lần tôi suýt bật ra một tiếng …Đan Mạch khi anh chàng cùng làm với tôi cứ di chuyển chiếc thang nặng nề nhiều lần trong khi tôi vẫn còn phải dùng. Chính chiếc thang này –chứ không phải những lời không đẹp–dẫn đến sự xin nghỉ việc dù anh bạn hết sức giúp đỡ vì, sau mươi ngày, tôi nhận ra không công bằng cho các đồng nghiệp khi cứ phải nhờ họ làm những việc nặng mà tôi không kham nổi. Khi nghe nhạc Trịnh Công Sơn, tôi luôn liên tưởng đến một nỗi buồn u uẩn nhưng nhẹ nhàng. Một người bạn gái Huế còn gọi đó là một nỗi buồn thầm lặng để xoa dịu nỗi buồn ngùn ngụt như hỏa diệm sơn của tôi.

Hãy xem video dưới đây, đánh dấu một thời kỳ tạm lùi ngay lúc nước thái bình không còn ba trăm năm cũ với Sài Gòn đổi tên thành Thành phố Hồ Chí Minh. Khoảng năm 1994 (?), vẻ nhí nhảnh, luôn tươi cười bằng mắt và cả bằng miệng của ca sĩ Hồng Nhung –người được xem thân cận với nhạc sĩ–khi hát Mưa Hồng đã không phản ảnh được lời nhạc, vắng bóng luôn cả một chiếc áo dài rất Huế:

https://www.youtube.com/watch?v=j3kpHVMEpv0

Để công bằng, tôi đã tìm nghe ca sĩ Thanh Lam hát nhạc Hạ Trắng và càng kinh hồn táng đởm:

https://www.youtube.com/watch?v=N6oF8Tgqis8

Để…tự vệ (vì biết hai ca sĩ này có rất nhiều fan), tôi sẽ dẫn chứng– không bằng một nữ ca sĩ trẻ hay không còn trẻ nữa– mà bằng nam ca sĩ Tuấn Ngọc. Ông xuất thân hát nhạc ngoại quốc trước khi hát nhạc Việt. Cách đây chỉ 11 tháng, ông hát Hạ Trắng trên sân khấu Mây Saigon:

https://www.youtube.com/watch?v=N0t5iH0z0Y0

Thứ nhất, ông mang lại một trời phòng trà Sài gòn. Thứ hai, ông gợi lại nỗi buồn rất Trịnh Công Sơn. Thứ ba, ông có cách hát rất mới, khác hẳn với Khánh Ly, Lệ Thu… nên các fan của Hồng Nhung và Thanh Lam không thể kết án tôi là dị ứng với lối hát phá cách, làm mới. Ông cũng là một trong những người di tản vào 1975.

Khánh Ly đương nhiên bắt đầu và trở lại với Mưa Hồng, 1966:

https://www.youtube.com/watch?v=__xfie98gug

[phút 16:38]

Việt Nam Cộng Hòa là môi trường đã nuôi dưỡng và giúp phát triển tài năng của Trịnh Công Sơn, Thời “sống còn” đã qua và nhiều thế hệ ca sĩ sẽ tiếp tục hát những bài tình ca hay “nhân sinh ca” (mượn lời Trần Hữu Thục) mà không hát những bài dính dáng đến loại nhạc màu đỏ hay nông trường và biên giới của ông.

7.5 Chúng ta đi mang theo Âm nhạc và Hội họa

Trở lại Cộng đồng người Việt tỵ nạn Chống Cộng, không chỉ tại Canada hay Hoa Kỳ, mà trên toàn thế giới, điều chính ở đây mà tôi cũng muốn quan sát, là có phải “những kẻ chống Cộng…” hay cả không chống Cộng khi rời Việt Nam và được tự do có tiếp tục sáng tác được nữa hay không như Trịnh Công Sơn từng đặt vấn đề. Vì ông cũng là họa sĩ, tôi kèm hình ảnh của một số tác phẩm hay tin tức liên quan đến cuộc triển lãm của một số họa sĩ (từ Miền Nam) đã tiếp tục hoạt động sau 1975 mà tôi hân hạnh có dịp quen biết:

clip_image027

Từ trái sang phải và từ trên xuống dưới theo chiều kim đồng hồ:
Lê Tài Điển (Pháp), Thái Tuấn (Pháp), Mai Chửng (Hoa Kỳ), Bé Ký (Hoa Kỳ), Đinh Cường (Hoa Kỳ), Hồ Thành Đức (Hoa Kỳ)

Ngoài họa sĩ, tôi sẽ đưa thí dụ về nhà văn kiêm dịch giả Mặc Đỗ. Ông thuộc vào hàng văn nghệ tiên phong của Miền Nam. Ông sang Hoa Kỳ năm 1975. Dù đã có sáng tác xuất hiện trên vài tạp chí văn học tại Hoa Kỳ và xuất bản 3 tác phẩm tại hải ngoại, Mặc Đỗ vẫn được (hay bị) nhà văn (Miền Nam) Ngô Thế Vinh nhận xét là “quy ẩn”:

-“Mặc Đỗ nhà văn, nhà báo, dịch giả là một trong những tên tuổi của văn học Miền Nam trước 1975. Sau 1975, sang Mỹ tỵ nạn ở cái tuổi 58 còn tràn đầy sức sáng tạo nhưng anh đã chọn một cuộc sống quy ẩn, chữ của Mai Thảo. Mặc Đỗ gần như dứt khoát không xuất hiện hay có tham dự nào trong sinh hoạt cộng đồng văn chương ở hải ngoại — [biển ngoài, chữ của Mặc Đỗ], thái độ chọn lựa đó khiến tên tuổi anh hầu như rơi vào quên lãng (…) Do gần nửa phần đời sau ở hải ngoại, từ 1975 cuộc sống nhà văn Mặc Đỗ gần như khép kín, thật khó để để vẽ một chân dung toàn diện về anh. Chọn lựa và trích dẫn từ những bức thư anh gửi cho tôi, bớt đi những phần quá riêng tư có lẽ giúp bạn đọc biết được nhiều hơn về một nhà văn Mặc Đỗ quy ẩn (…) Tìm chữ An trong Đạo Phật: Ba nhà văn chủ lực trong nhóm Quan Điểm mà tôi được biết, phần cuối cuộc đời đều có khuynh hướng tìm về đạo Phật. Tuyết ngưu Vũ Khắc Khoan của Thành Cát Tư Hãn nơi xứ vạn hồ miệt mài với Đọc Kinh và nghe Kinh, để rồi “lâng lâng trong mù sương nơi ngưỡng cửa pháp hội, một mình.” [1917-1986], Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng của Cách Mạng và Hành Động [1920-2000] sau 1975 tịnh tu, mang nặng suy tư từ những trang Kinh Lăng Nghiêm, viết sách Phật và giảng dạy Phật Pháp. Vũ Khắc Khoan và Nghiêm Xuân Hồng thì đã lần lượt ra đi trong sự thanh thoát và cả lặng lẽ tiếng kinh kệ. Mặc Đỗ thì sống quy ẩn từ bao năm như một hành giả không ngừng đi tìm một chữ AN trong đạo Phật (…) Một ngày nào đó mong còn xa, sự ra đi của anh theo quan điểm y khoa sẽ được coi như một cái chết tự nhiên/ natural death, như một cây cổ thụ khô và tự héo dần – vẫn chữ của nhà văn Mặc Đỗ. [Ngô Thế Vinh, “Con đường Mặc Đỗ từ Hà Nội Sài Gòn tới Trưa trên đảo san hô”, Ngày 20.6. 2015 https://www.rfa.org/vietnamese/news/programs/LiteratureAndArts/vhnt062015-06202015114633.html]

Mặc Đỗ qua đời ngày 20 tháng 9. 2015, gần trăm tuổi. Tôi đã viết một bài dài (đầy chi tiết và tài liệu, kể cả thư riêng khi cần thiết) phản bác Ngô Thế Vinh nên đây cũng không phải lúc bàn đến nữa. Điều tôi muốn làm trong loạt bài này là cung hiến những thí dụ tiêu biểu về hoạt động của người Việt tỵ nạn. Trong lãnh vực văn học, hoạt động văn nghệ của Mặc Đỗ– một tác giả Miền Nam đã lánh nạn Cộng Sản lần thứ hai– sẽ cho thấy cái cây Việt Nam ra đi đã đóng góp vào cánh rừng văn chương Việt như thế nào. Tại Hoa Kỳ, Mặc Đỗ tiếp tục sáng tác, dịch thuật, như đã sáng tác dịch thuật tại Miền Nam, cho đến trước khi qua đời.

Mặc Đỗ sẽ là chủ đề của phần sắp tới.

(Còn tiếp)

_________________________

Chú thích

Một số tin tức về nhạc sĩ Trịnh Công Sơn trong bài này đã được trích dẫn từ website https://www.tcs-home.org/

Đây là một website do “Hội có tên Association Culturelle pour l’Oeuvre de Trinh Công Son (TCS-Association Culturelle), tên Việt là Hội văn hoá Trịnh Công Sơn” thành lập và tiếp tục duy trì rất công phu. Trong tình trạng thất thoát tài liệu theo năm tháng cộng thêm sự xa cách về địa lý, đây là một việc làm vô giá. Ông Phạm Văn Đỉnh (1937 – Ngày 24.5. 2023) là Cựu Chủ tịch và riêng ông đã nỗ lực góp phần vào việc tìm kiếm cũng như kiểm chứng các tài liệu được đăng lên. Tôi xin chân thành cảm ơn Hội.

bài đã đăng của Nguyễn Tà Cúc

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

3 Bình luận

  • Long Nguyen says:

    TCS, và 2 tập nhạc giải phóng

    Tôi gọi thẳng là nhạc giải phóng chứ không phải là phản chiến. Giải phóng là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ở Mỹ có phong trào The US Anti-Vietnam War Movement (1964-1973). Nó khác hoàn toàn với “phản chiến” ở VN. Cái khác nhau căn bản nhất là dân Mỹ đòi đem lính Mỹ trở về nước. Còn ở miền Nam VN người lính VNCH đang chiến đấu bảo vệ chính đất nước và dân chúng của họ thì “phản chiến” để mang họ đi về đâu.

    Lời ca, lyrics, nói lên tất cả. Dùng từ ngữ toàn của MTGPMNVN thì chẳng giải phóng thì là gì. Vùng lên, cờ thiêng, tự hào, công trường, hòa bình, đứng lên, vinh quang, cách mạng, tiến lên. Có người nói, ủa nó cũng là tiếng Việt chứ giải phóng cái gì. Đúng như vậy. Trước 75 chẳng ai để ý và thắc mắc loại từ ngữ như thế. Phải sống những ngày sau 30/4/75 thì sẽ rõ hơn. Lúc đấy thì công khai và hiên ngang lan tràn loại ngôn ngữ này trên đài phát thanh và truyền hình suốt ngày. Cũng có người cho rằng 2 tập nhạc giải phóng Kinh Việt Nam và Ta Phải Thấy Mặt Trời do người khác làm chứ không phải TCS viết. Có thể đúng. Nhưng điều này chỉ xác nhận một sự thật: TCS làm việc theo tập thể tổ công tác chi bộ VC nằm vùng chỉ đạo. Ít lắm là tính theo thời điểm Tết Mậu Thân 1968.

    Việt Nam ơi xin hãy vùng lên
    Ngày mai đây dưới bóng cờ thiêng
    Ta hãy nhìn quanh tuổi trẻ đứng gióng hàng
    Anh bước đi tôi bước đi
    Em với chị bước theo
    Tìm Việt Nam xưa yêu dấu
    Ta đi trong cách mạng tự hào
    Ta sẽ chiếm trăm công trường
    Ta xây nên nghìn phố hòa bình
    Ðã đến ngày dựng núi đứng lên
    Khắp nước nhà nở trái vinh quang
    (trích, Việt Nam ơi xin hãy vùng lên – Ta Phải Thấy Mặt Trời)

    tập nhạc Kinh Việt Nam, Nhân Bản Sài Gòn Xuất bản, 1968)
    https://www.tcs-home.org/songs/albums/T04

    tập nhạc Ta Phải Thấy Mặt Trời, Nhân Bản Sài Gòn Xuất bản, 1969
    https://www.tcs-home.org/songs/albums/T06

    • Nguyễn Tà Cúc says:

      -Tôi đang tìm hiểu thêm về nhóm ký giả đã thành lập và hoạt động thuộc “Dispatch News Service International Inc.”. Trong số cộng tác viên, tôi thấy có tên Steve Erhart và Crystal Erhart. Tôi chưa tìm được bất cứ tin tức nào về Crystal Erhart, người đã viết về Trịnh Công Sơn thời ở Huế sau Tết Mậu Thân. Vì chưa đoan chắc, xin bỏ chữ “ông” và thay bằng tên tác giả để đồng nhất trong đoạn 7.1:
      -“…Crystal Erhart mở đầu chủ đề với “Trinh Cong Son: Portrait of a Vietnamese Poet/Trịnh Công Sơn: Chân dung của một nhà thơ Việt Nam” (sđd, trang 43-46). Crystal Erhart thuật lại cuộc gặp gỡ với Trịnh Công Sơn sau Mậu Thân…”

      -Tên thật của nhà văn Trần Doãn Nho là Trần Hữu Thục. Xin trân trong cáo lỗi cùng Trần Hữu Thục (và Trần Doãn Nho) cùng độc giả.
      Nguyễn Tà Cúc

    • Nguyễn Tà Cúc says:

      Long Nguyen nêu một vấn đề rất lớn trong Chiến Tranh Miền Nam: Khía cạnh Ngôn Ngữ. Ngay từ thời Hoàng Văn Chí và Hà Thượng Nhân (Chủ nhiệm nhật báo Tiền Tuyến), chúng ta đã rõ, tuy sử dụng cùng một chữ (tôi nói thế cho cụ thể), nhưng ý nghĩa của người Quốc Gia hoàn toàn khác với ý nghĩa của người Cộng Sản. Chữ “cuộc chiến” với người Cộng Sản hàm ý “giải phóng” để buộc cả nước theo chế độ Cộng Sản trong khi người Quốc Gia phải “tự vệ” để bảo vệ “tự do”. Bởi thế, tuy người Cộng Sản không có độc quyền ngôn ngữ, chúng ta nên cảnh giác, nhất là khi dùng những chữ có tính cách “tâm lý chiến” của người Cộng Sản. Nếu không, trừ phi là nằm vùng hay đảng viên, chúng ta sẽ rơi ngay vào cái bẫy của người Cộng Sản để quảng cáo không công cho họ.
      Nay nói tới các phong trào chống lại (phản chiến) cuộc chiến Việt Nam tại Hoa Kỳ. Ít nhất có 2 khuynh hướng: khuynh hướng chống lại vì lý do chống bạo động mà không cần biết lý do hay nơi chốn (như lý do tôn giáo). Khuynh hướng khác là chống lại sự tham dự của Hoa Kỳ vào Chiến tranh Việt Nam vì họ bị Cộng Sản tuyên truyền. Những cuộc vận động này, được tường thuật rầm rộ trên truyền thông Hoa Kỳ và Quốc Tế bằng Anh ngữ chỉ có duy nhất một nghĩa là chống lại cuộc chiến do cường quốc Hoa Kỳ muốn dùng sức mạnh bom đạn áp đặt vào một nước Việt Nam nhược tiểu. Điều này càng rõ cho chính tôi khi trở lại học tại Penn State. Tôi đã phải thảo một thứ glossary/ bản chỉ dẫn để dễ bề nói chuyện (chứ chưa nói tới tranh luận) với các bạn đồng môn. Thí dụ: Nếu nói tới Việt Nam/the country là họ có thể không biết đang có 2 quốc gia lập hiến khác nhau: Việt Nam Cộng Hòa (Tự Do-Miền Nam) phải đổ xương máu chống lại Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Cộng Sản- Miền Bắc). Chữ “peace” thì chỉ có nghĩa “hòa bình” nhưng hòa bình nào? Theo tôi, “hòa bình” của chủ nghĩa Cộng sản đồng nghĩa với cuộc tiêu diệt hòabình/Tự Do của dân Miền Nam (và cả Miền Bắc trước đó). Tôi còn rất khó chịu vì chữ nội chiến/civil war. Nếu chỉ là nội chiến, tại sao chính phủ (Cộng sản) Việt Nam tiếp tục đàn áp, trù dập dân Miền Nam sau 1975?! Tôi càng khó chịu hơn với lối lý luận “cuộc chiến tranh ủy nhiệm”. Muốn tự do mà không bỏ xương máu của chính mình ra (như VNCH đã làm) thì làm sao có?! Dĩ nhiên, các thông tin tại Hoa Kỳ lúc đó đa phần đều trình bày về các biến động tại Miền Nam như xuống đường đòi “hòa bình”, “chống chiến tranh”, “chống chính phủ”, “Văn Bút Việt Nam họp báo và gửi kháng thư lên VBQT phản đối chính phủ VNCH”, ký giả “đội nón rách, mang bị gậy đi ăn mày” vv. tại Miền Nam. Dĩ nhiên những trò đi ăn mày hay họp báo “kiên cường” (chữ này tôi mượn của Việt Cộng đấy nhé) nặng phần trình diễn bằng ngôn ngữ nhưng nhẹ phần nội dung vì còn cả một bối cảnh đàng sau chưa xét đến ấy chỉ có thể xẩy ra tại Miền Nam vì làm sao có ở Miền Bắc. Sau 1975, toàn dân và toàn quân đã rõ các chàng tiền vệ này hoặc vào tù hoặc bị hất ra bên lề làm cảnh. Báo chí Miền Nam bị đóng xập, đâu còn giấy để in được nữa mà đốt. Ngược lại, khỏi cần làm nũng làm nư bằng cách tự đốt. Sách báo của phe ta bị họ lôi ra đốt hết đấy. Giấy thì phải để dành in những sách của các Đại tướng Võ Nguyên Giáp hay Văn Tiến Dũng chứ lỵ. Quyển “Đại thắng mùa xuân” của Văn Tiến Dũng tái bản lần thứ nhất (“in lần thứ hai”) tới 130.000 cuốn. Quyển “Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ Ngụy” (Lê Đình Kỵ) in lần thứ nhất với 7.200 cuốn tại Trụ sở báo Sài Gòn Giải phóng. Tôi vẫn còn đợi xem ông đại tá kiêm nhà văn Nguyên Ngọc nói gì về việc các ông kéo quân xuống chiếm Miền Nam, nơi mà không ai cần phải lập văn đoàn…độc lập, để đến nỗi trời xui đất khiến làm sao mà, sau bao nhiêu năm tận tụy “chống Mỹ cứu nước”, ông lại đòi nhà văn được độc lập với nhà nước (thế trước kia ông không hề được độc lập à?!). Dĩ nhiên là nhà nước…sức mấy mà cho ông độc lập được dễ dàng. Thế mới đau. Đấy, chính một chữ “độc lập” thôi mà chưa chắc phe ta và phe nó đã hiểu/sử dụng cùng một nghĩa.
      Riêng Trịnh Công Sơn, loại bài hát này có ngôn ngữ rập khuôn …Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam “công khai và hiên ngang” (mượn lời Long Nguyen) ngay từ hồi đó. Mặt khác, không có tài liệu nên tôi không thể đoan quyết về mức tham dự của Trịnh Công Sơn với Cộng Sản trước 1975, nhưng có điều hầu như chắc chắn: qua nhân chứng và chính Trịnh Công Sơn, ông đã liên lạc mật thiết với người bên kia trong khi vẫn được chính phủ VNCH dung dưỡng. Tuy không đủ tư cách để kết án ai –“Tôi là ai mà …kết án cuộc đời này” (mượn Trịnh Công Sơn), nhưng tôi tin ông tự biết đã có lần là một “Con diều rơi cho vực thẳm buồn theo” (1992). “Con diều” Trịnh Công Sơn đã rơi thê thảm để những người ái mộ ông –bị rơi xuống “vực thẳm” trên biển cả, trong các trại tù cải tạo—”buồn theo” cho một thời tao loạn. Tôi sẽ đề cập đến những khía cạnh thượng dẫn một cách đầy đủ hơn vào bài cuối của loạt “Từ một góc California”, nhưng xin trả lời vắn tắt ngay để chân thành cảm ơn Long Nguyen (và nhiều độc giả khác) đã góp ý qua Diễn đàn Da Màu (cùng tin nhắn hoặc trên các forum riêng).

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)