Trang chính » Bàn Tròn: Chiến Tranh Việt nam, Biên Khảo, Nghiên Cứu, Nhận Định, Tư Liệu, Văn Học Miền Nam Việt Nam 1954-1975 Email bài này

từ một góc california – gìn giữ tấm dư đồ như nâng niu áo trận (kỳ 4)

Nguyen-Ngoc-Lan-Thanh-Van-LM-Chan-Tin_thumb.jpg

 

Nguyễn Ngọc Lan, Thanh Vân, LM Chân Tín
từ trái: Bà Thanh Vân (vợ cựu Linh mục Nguyễn Ngọc Lan), ông Nguyễn Ngọc Lan, và Linh mục Chân Tín

  • Cựu Linh mục Nguyễn Ngọc Lan:

Khi một số người hồi đó cổ võ cho việc “hòa giải dân tộc”, tôi không hiểu họ có biết đã giao duyên nhầm tướng cướp nằm vùng hay thân Cộng hay không. Thí dụ điển hình là (cựu) linh mục Nguyễn Ngọc Lan. Ông không quan trọng bằng linh mục Trần Hữu Thanh, linh mục Chân Tín, nhưng tôi kèm các trích dẫn sau đây để xác nhận một điều mà có nhiều người đã nghi ngờ trước 1975:

Thứ năm, 19.7.1988 […] 20g; Nói chuyện với anh em Kỳ Đồng về việc mình vào bưng đầu tháng Năm 1968 và những lần gặp từ đó cho tới tháng Tư 1975: gặp Hai Ngọ (Dương Quang Trung, giám đốc Sở Y tế hiện giờ) năm 1972 tại Đan viện Biển Đức, gặp Tám Cần (Tạ Bá Tòng) cuối năm 1973 (hay đầu năm 74?) tại Long-Hải, rồi một lần nữa ngay tại Thư viện của Học viện Dòng Chúa Cứu Thế Thủ Đức …. [Nguyễn Ngọc Lan, Nhật ký 1988: Xung quanh vụ Phong Thánh tử đạo, trang 124, Nhà Xuất bản Tin, 1993, Paris]

Nguyễn Ngọc Lan nói rõ ông suýt chết khi “vào chiến khu” dịp Xuân Mậu Thân [sđd, trang 85]. Một trong những tin tức khác cho thấy Nguyễn Ngọc Lan đã liên quan với Mặt Trận Giải Phóng đủ để biết một số văn nghệ sĩ nào đã nằm trong hàng ngũ của họ như ông:

Chúa Nhựt, 3.9.1989-Tuần báo Thanh Niên số 37 (138, đề từ 3.9 đến 10.9. 89) đăng bài ‘Nhớ Thế Nguyên’ của Tần Hoài Dạ Vũ trong đó có đoạn nhắc đến một kỷ niệm liên quan đến … ba người: ‘Nhớ anh Thế Nguyên’: (.…) Mùa Xuân năm 1970, khi tạp chí Đất Nước của anh đăng bài thơ “Buổi sáng mùa đông” của tôi.  Sau đó khi có dịp gặp nhau ở Sài gòn, trong tòa soạn Đối Diện, khi anh hỏi tôi, sao độ này ít làm thơ, anh Nguyễn Ngọc Lan vừa cười vừa trả lời hộ tôi, đã “làm’ rồi thì làm thơ làm gì! Anh Thế Nguyên đã im lặng nhìn tôi. Sau đó, khi chia tay bên ngoài một quán phở, anh siết chặt tay tôi thông cảm. Anh Nguyễn-Ngọc Lan đã tin ở anh mà báo về những hoạt động nội thành của tôi một cách gián tiếp .…”[Nguyễn Ngọc Lan, Nhật Ký 1989-1990: Sống thẳng Nói thật, trang 115-116, Nhà Xuất Bản Tin, 1991, Paris]

Ông và Linh mục Chân Tín làm các báo Đối Diện, số 1-số 54 (khổ 14cm x 21 cm, 128 trang, bắt đầu năm 1969-tới khoảng 1974)-Đồng Dao, Số 55-60 (khoảng 1974-cho tới 1975) và Đứng Dậy, số 61–114 (1975-1978). Một số Đồng Dao đính kèm (quay roneo, rất sơ sài) đại diện cho quãng thời gian Đồng Dao thành báo in “lậu” trước 1975. Đối Diện, nếu so với các tạp chí Miền Nam, thì chỉ là một loại báo đêm buồn tỉnh lẻ.

clip_image002

Đồng Dao số 58, tháng 6.1974
Tài liệu của Đại học Cornell, Hoa Kỳ

Nguyễn Ngọc Lan viết nhiều cho nhật báo như Tin Sáng. Ông không đủ khả năng làm báo văn học như Thanh Lãng hay Nguyễn Văn Trung. Lối viết mà ông tự hào là dí dỏm, khôi hài, theo tôi chỉ cần đọc một bài là có quyền đánh giá được ngay sự ngụy biện.

Sau 1975, Nguyễn Ngọc Lan hoàn tục, gửi bài cho báo Tin Nhà, Paris. Sau này, họ xuất bản ba cuốn của ông viết theo kiểu nhật ký. Tôi có đủ 3 cuốn để chứng thực cảm tưởng tẽn tò, cay cú sau khi bị biến thành tiền vệ sáng thứ hai:

[.…] Anh không nói gì thêm nhưng ai ai cũng hiểu: Lương thiện theo kiểu tiều tư sản thì bằng những nghề tay trái. Không lương thiện theo kiểu tiều tư sản thì tham nhũng, buôn lậu, biến của riêng thành của chung, trở thành tỷ phú còn nhanh, còn mạnh, còn vững chắc hơn bên Tây bên Mỹ nữa.… [Nguyễn Ngọc Lan, Hẹn thắp lên (Lời chứng hai mươi lăm năm 1975-2000), trang 205, Nhà xuất bản Trình Bầy, Strasbourg, Salt Lake City, Hoa kỳ, 2000]

Chưa hết, sáng sớm, 6 giờ sáng ngày 4. 5.1998, Nguyễn Ngọc Lan đưa Chân Tín dự lễ động quan của (đồng chí) Bẩy Trấn Nguyễn Văn Trấn, tác giả cuốn Viết cho Mẹ và Quốc hội. Trên đường đi, nghe đâu có hai người chở nhau trên xe Honda theo sau, đạp ngã xe Nguyễn Ngọc Lan. Chân Tín bị xây xát. Nguyễn Ngọc Lan bị thương khá khá [Nguyễn Ngọc Lan, Hẹn thắp lên: Lời chứng hai mươi lăm năm 1975-2000, trang 305-310]. Chân Tín cố gọi xe đưa Nguyễn Ngọc Lan vào nhà thương. Không ai giúp. Không ai xúm lại chụp hình và không ai viết kháng cáo gửi ra thế giới. Nguyễn Ngọc Lan trúng lô an ủi với thư từ bạn hữu thăm viếng, nhưng hào quang năm cũ ám ảnh khiến phải hạ một câu ai oán: “Tất cả sự liên đới giúp đỡ này còn quý hơn mọi thứ ‘giải thưởng’ quốc tế nào khác…” [Nguyễn Ngọc Lan, Hẹn thắp lên, trang 311].

Cuối cùng, cả Cộng Sản lẫn quốc tế và quốc gia đều không tặng ông cái giải gì. Dù vậy, tôi phải cảm ơn Nguyễn Ngọc Lan vì ông buộc phải viết một câu rất đúng về Thanh Lãng, người bị các ông đố kỵ ra mặt:

[….]Thứ ba, 20.12.1998 Lễ an táng Linh mục Thanh Lãng tại nhà thờ Chí Hòa (….) Thanh Lãng trước 75 thường bị tiếng là ít hòa đồng với các linh mục khác hơn. Nhưng lúc sau này, người ta thương ông hơn vì thái độ người thất thế và già yếu đã đổi khác…. [Nhật ký 1988, trang 225]

Một con công/học giả/được giới đại học, chính trị và báo chí Sài gòn trọng vọng như Thanh Lãng thì không thể múa chung với loại Nguyễn Ngọc Lan nên không cần “người ta thương hơn”. Dù “thất thế”, Thanh Lãng không đầu quân như các ông linh mục …thức thời và, vì thế, trở nên đắc thế nhất thời để rồi phải viết nhật ký gửi ra ngoại quốc.

Khi Đứng Dậy (do cặp đào kép Linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan coi sóc) bị nhà nước Cộng Sản ra lệnh đình bản vào tháng chạp, 1978 vào số 114, Nguyễn Ngọc Lan muốn vận động cho Đứng Dậy bò dậy, nhưng số phận quả chanh bị vắt kiệt, làm sao lăn được nữa. Xin phúng điếu bằng cách bắt chước mấy câu thơ của Nguyễn Xuân Sanh về tiền vệ Cũng người đồng hội đồng thuyền đâu xa nhà văn tập kết/đại tá Nguyên Ngọc, tác giả cuốn Đất nước đứng lên:

Mấy lần Đứng Dậy … nhổm lên
Đối Diện không nổi cho nên phải nằm
Đồng Dao thua cuộc, lặng câm
Ngàn thu vĩnh biệt vì lầm anh em

  • Nhóm Trình Bầy

Thế Nguyên, kiêm Phó Tổng Thư Ký của Trung Tâm VBVN, không được trọng dụng sau 1975. Diễm Châu và Hoàng Ngọc Biên …vượt biên sang ngoại quốc. Tựu chung, những loại báo chí như Đất Nước, Đối Diện, Đứng DậyTrình Bầy đã chấm dứt một thời lý tưởng được bơm đầy bằng ảo tưởng để rồi kết thúc trong sự vỡ mộng.

  • Dân biểu Lý Quí Chung

Cái kết của dân biểu Lý Quí Chung cũng thê thảm không kém ai. Gia đình ông lãnh hậu quả như mọi gia đình khác. Thân phụ đột quỵ, khi nói lại được không nhận ông là con, thân mẫu quá hoảng hốt trong cảnh tủ chứa đồ quý của gia đình bị niêm phong, 7 anh chị em vượt biên may mà sống sót. Người vợ ông phải gỡ cửa sổ bán kính lấy tiền độ nhật sau khi không còn gì để bán. Cuối cùng vẫn phải bán nhà, bán hết:

-[.…] Những sự kiện căng thẳng dồn dập xảy đến khiến cha tôi bị lên huyết áp và đột quị tưởng đâu không qua khỏi. Ông bị liệt nửa thân mình, méo miệng, không nói được(…) Một trong những câu nói đầu tiên sau thời gian ông bị bặt tiếng nói là nói với tôi – khi tôi đứng bên giường chăm sóc ông. Giọng ông giận dữ: “Tao không muốn gặp mày nữa. Gia đình mày đã ra thế này, cha mày đã ra thế này, mà mày còn viết báo cho cộng sản. Cha mày từ mày”.… [Lý Quí Chung, Hồi Ký Không Tên, Nhà xuất bản Trẻ, 2004; https://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5375&rb=08,Chương “Sau ngày 30.4.1975”]

Hành nghề phóng viên thể thao bằng bút danh Chánh Trinh, nghe đâu ông vẫn đi đánh tennis và khiêu vũ, nhưng tự biết đã nhẩy sai nhịp nên có Hồi ký không tên kể lể sự tình trăm nỗi.

  • Luật sư Ngô Bá Thành

Tuy không thê thảm bằng nhiều người khác, luật sư Ngô Bá Thành (nhũ danh Phạm Thị Thanh Vân) được trọng dụng, nhưng phong trào của bà trở thành một tấm giấy lộn khi phụ nữ Miền Nam vượt biển đòi quyền sống sau 1975. Chắc chắn bà phải biết số lượng khổng lồ người Việt vượt biển và vượt biên…trái phép trong khoảng 1978-1981 vì bà giữ chức Phó Chủ tịch Hội Luật gia Việt Nam, Uỷ viên Đoàn chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; Uỷ viên Đoàn chủ tịch Liên hiệp Hội KHKT Việt Nam; nguyên Chủ nhiệm Uỷ ban pháp luật của Quốc hội, đại biểu Quốc hội các khoá VI, VII, VIII, X(https://baotangphunu.com/ngo-ba-thanh-nguoi-phu-nu-cua-thien-nien-ky/. Éo le thay, tuy mang những trọng trách của một chính phủ từng giam cầm bắt bớ hàng trăm ngàn dân Miền Nam, bà phải chứng kiến việc Hoa Kỳ thành công trong việc đưa cựu tù nhân chính trị, đa số là cựu quân nhân VNCH rời Miền Nam sang nhập cư một cách hoàn toàn hợp pháp.

  • Linh mục Trần Hữu Thanh, Phong trào Nhân dân chống Tham nhũng

Linh mục Trần Hữu Thanh bị điều ra Bắc phục vụ sau khi bị giam vài năm rồi bị quản thúc suốt đời nơi ông nhiệt tâm góp công xây dựng cho các giáo phận được chỉ định vì không thể làm gì khác hơn như trước 1975. Ông về lại Miền Nam lần đầu vào tháng 6. 1989 để được giải phẫu. Ông qua đời, cũng tại Miền Bắc, vào năm 2007.

  • Linh mục/học giả Thanh Lãng

Sau 1975, Linh mục Thanh Lãng không được xuất bản hay giảng dậy. Các giáo sư do chính phủ Cộng sản chỉ định hay tập kết sẽ thay thế ông, đánh dấu văn sử tại ngôi trường Đại học Văn Khoa đã sang chương mới. Tuy được biết đến rất nhiều trước 1975 vì tham dự nhiệt tình và chân tình vào các sinh hoạt văn hóa và xã hội cộng thêm sự nghiệp trước tác và giáo dục, ông bị hất ra khỏi môi trường sinh hoạt đại diện cho nguồn sống tinh thần bấy lâu. Trưởng Ủy Ban Nhà văn-Bị Cầm tù Trần Tam Tiệp đã cố gắng gửi thuốc men tặng ông. Ông qua đời bất ngờ tại tư gia. Tôi vẫn nghĩ tới ông, tới một học giả và một người thầy tận tụy. Tôi hơi ngạc nhiên khi không thấy ai, xuất thân từ Đại Học Văn Khoa và nay hoạt động trong môi trường đại học, nhắc đến ông nữa. Hay là tôi lầm? Nhưng tôi vẫn tin một ngày nào đó, các tác phẩm của ông–một trí thức dấn thân cả đời nghiên cứu và trước tác, góp phần đào tạo nhiều thế hệ sinh viên Văn Khoa–sẽ tái hiện đầy đủ tại Việt Nam trong khi đã được lưu truyền hạn chế trên nhiều trang mạng miễn phí tại Hoa Kỳ.

  • Trịnh Công Sơn (và Bửu Chỉ)

Tôi không thể không nhắc đến nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và họa sĩ Bửu Chỉ dù bài này không đề cập đến hoạt động “phản chiến”, chữ của chính các ông. Ngày nay, quá khứ của những ngày nguy khốn của Trịnh Công Sơn như bao nhiêu nạn nhân cộng sản khác tại Huế hình như đã lui vào quá vãng, chỉ còn lại chân dung bồi đắp bằng một thứ vàng son hàng mã, mở đầu bằng lời kêu gọi dân chúng Miền Nam trên Đài Phát Thanh Sài gòn vào ngày 30 tháng 4. 1975.

Năm 1969, sau Tết Mậu Thân, Thư Ký Tòa soạn Tuần báo Khởi Hành/nhà thơ Viên Linh mời Trịnh Công Sơn phát biểu về Huế. Bài của Trịnh Công Sơn có thể đoán trước được với những lời ca than cố hữu. Tuy vậy, ông bật ra một câu gần cuối bài làm tôi chú ý:

[.…] Có đôi lúc mgốn(sic) chọn nhà tù làm nơi ẩn thân cho dời mình, nhưng như thế chỉ làm thêm một điều bội bạc. Bội phản bạn bè chung quanh. Cho nên vẫn còn ngồi đâu lưng với bạn bè trong nỗi bất lực. Bất lực mà biết được mình bất lực. Như thế đã có hành trình. Một thứ hành trình không lớn lao những cũng không hèn mọn. Một sự kiện hiển nhiên mà thôi. Cứ dửng dưng. Như đã từng dửng dưng với người tình phụ. Xin cúi đầu trước hạnh phúc của những kẻ u mê. [Trịnh Công Sơn, “Nghiêng tai nghe lại cuộc đời”, tuần báo Khởi Hành ra ngày thứ năm, số 4, trang 12, tháng 8. 1969-Chủ nhiệm Trần Văn Trọng & Thư ký Tòa soạn Viên Linh, Sài gòn]

Tại sao Trịnh Công Sơn lại nhắc tới nhà tù? Lúc đó, theo tôi, Trịnh Công Sơn, bên âm nhạc và Bửu Chỉ, bên hội họa được coi như hai nghệ sĩ xuất thân từ Huế danh tiếng thuộc “Phong trào đấu tranh hòa bình” hay rõ hơn “lập trường đã kiên định: Mỹ cút, ngụy nhào, hòa bình đến” (cũng chính chữ của các ông). Bửu Chỉ bị nhà cầm quyền VNCH bắt, nhưng đủ tự do vẽ tranh (!!!) miêu tả cảnh nhà tù và tình trạng một Miền Nam băng hoại vì độc tài và chiến tranh với trẻ con bị tàn tật cùng phụ nữ bị bắt vào tù cùng con trẻ của họ. Bửu Chỉ đã tự giới thiệu khi tưởng niệm Trịnh Công Sơn:

[.…] Và sau đó nhiều năm, người dân ở trong các thành phố miền Nam vẫn tiếp tục chịu đựng những cuộc nổ mìn, những trận pháo kích gây thương vong không ít cho đám dân lành vô tội. Ngày ngày không dứt tiếng súng tiếng bom. Và hằng đêm trong ánh hỏa châu vàng vọt ghê rợn, người dân thành phố nín thở, nơm nớp đợi chờ những điều không may có thể xảy đến cho mình. Mỗi ngày, từ chiến tuyến những chiếc quan tài phủ cờ được đưa về thành phố, trên đầu những trẻ mồ côi, những góa phụ, khăn tang cứ bay như phướng (sic) […]Cuộc chiến khốc liệt cứ tiếp diễn. Phong trào đấu tranh hòa bình Việt Nam ở các đô thị lại bùng lên mãnh liệt. Đặc biệt là phong trào thanh niên sinh viên học sinh, bây giờ lập trường đã kiên định: Mỹ cút, ngụy nhào, hòa bình đến. Tôi, kẻ viết bài này, đã quyết định, đã chọn lựa đứng vào phong trào đó.… [Bửu Chỉ, “Tôi phát biểu về Trịnh Công Sơn và những ca khúc phản chiến của anh”, ngày 25.4.2001, https://www.tcs-home.org/ban-be/articles/ToiPhatBieuTCS

Trịnh Công Sơn tái xác định vị trí của cả hai trong bài giới thiệu sách của Bửu Chỉ:

[…]Trong những năm chiến tranh ác liệt nhất ở miền Nam, nếu ở địa hạt âm nhạc tôi viết những ca khúc phản chiến và khát vọng hoà bình thì ở phía hội hoạ, hoạ sĩ Bửu Chỉ gần như là người duy nhất vẽ rất nhiều về đề tài chiến tranh và hoà bình. Anh nổi tiếng vào thời ấy với những tranh nhỏ trên giấy vẽ bằng bút sắt mực đen. Tranh anh được in trên các tạp chí nước ngoài và gây được một dư luận rộng rãi. Trong phong trào sinh viên học sinh ở Huế gần như Bửu Chỉ và tôi luôn luôn có mặt bên nhau. Chúng tôi cùng hát với nhau trong những đêm không ngủ, những ngày xuống đường và nhiều nhất là những buổi hát nuôi dưỡng hào khí ở quán cà phê Tổng Hội.… [Trịnh Công Sơn, “Bửu Chỉ, tự bản chất là một con người phản kháng”, Nguồn Sách “Tranh Bửu Chỉ”, nxb Trẻ, 2003. https://www.tcs-home.org/ban-be/articles/BuuChiTuBanChat ]

Một phần thế giới phản chiến của Trịnh Công Sơn (do chính ông công nhận) ở lại với Bửu Chỉ, nửa kia với Trung Tá Lưu Kim Cương, người hoặc che chở hoặc giúp Trịnh Công Sơn dầy thêm vỏ nhân danh nghệ thuật hầu phản chiến một cách an toàn trên xa lộ thanh lịch trong thành phố tiện lợi khi vào ngõ hẹp (câu này là quảng cáo của hãng xe Suzuki tại Miền Nam hồi xưa). Đằng khác, Dương Nghiễm Mậu, qua Địa ngục có thật, sống và viết một thân một mình từ khi di cư vào Nam, bao giờ cũng khép rất kín tại Sài Gòn, nơi ông để lại những giòng này, cùng trên một số báo Khởi Hành với Trịnh Công Sơn:

[.…] Vượt lên khỏi tiếng reo hò và tiếng hát ma quỷ, những ma quỷ rống lên những khẩu hiệu: hòa bình, giải phóng, thống nhất, độc lập, hạnh phúc .… Đó là tiếng hát của cuộc chiến này. Còn người dân Việt chúng ta, còn chúng ta không còn nước mắt để khóc, như vậy còn nói chi tới .… Huế 5-5-69″ [Dương Nghiễm Mậu, “Tiếng hát trong cuộc chiến này”, Khởi Hành, số 4, trang 4, tuần lễ từ ngày 21.8. 1969]

Tôi không thấy cả Trịnh Công Sơn lẫn Bửu Chỉ “phản kháng” sau 1975. Ngược lại, họ còn được hưởng ân huệ triều đình. Dương Nghiễm Mậu ám chỉ ai khi viết “ma quỷ rống lên những khẩu hiệu: hòa bình, giải phóng, thống nhất, độc lập, hạnh phúc…Đó là tiếng hát của cuộc chiến này”? Hay ông ám chỉ tiếng hát Trịnh Công Sơn?

  • Uyên Thao, Tổng Thư ký nhật báo Sóng Thần

Uyên Thao bị bắt vào tháng 8.1975 rồi bị giam 10 năm. Sau khi sang Hoa Kỳ, ông tiếp tục hoạt động bằng cách cùng các bạn lập nhà xuất bản Tiếng Quê Hương và viết một số bài liên quan đến thời gian sinh hoạt tại Miền Nam. Nhà xuất bản này đáng được chú ý về những tác phẩm phơi bầy mặt thật của Đảng Cộng Sản và nhất là, tinh thần đoàn kết, tin cậy của những người trong nhóm hầu góp tay thực hiện. Trong số này có nhà báo Trần Phong Vũ và nhà phê bình kiêm xã luận gia Trịnh Bình An nỗ lực tham gia. Tiếc thay, phần phát biểu mới đây của Uyên Thao liên quan đến Mặt trận truyền thông chống Cộng Sản thời Việt Nam Cộng Hòa và về Văn học Miền Nam cần được xét lại để rộng đường dư luận. Về vấn đề thứ nhất, ông cho biết khi trả lời ký giả Kalynh Ngô trên nhật báo Người Việt:

[…] Trong những tháng năm trải qua hai chế độ nhà tù và kiếp sống “không phải con người” ấy, ông đã nhìn thấy một mặt trận bị bỏ trống, bị quên lãng từ thưở xa xôi ở miền Nam, nhìn thấy “chúng ta” đã bỏ rơi không nuối tiếc một mặt trận có tầm quan trọng tối thượng trong cuộc chiến trường kỳ (…) “Chúng ta có thể sẵn sàng chiến đấu chống cộng sản bằng súng đạn hay những thủ đoạn chính trị, nhưng về mặt trận văn hoá hay mặt trận tuyên truyền thu phục tâm lý quần chúng thì mình chẳng bao giờ làm. Chỉ có phía cộng sản làm chuyện đó. Họ dồn nhiều phương tiện, nhiều khả năng của mọi người vào lãnh vực đó. Họ viết lách, sáng tác, làm đủ mọi thứ nhằm phục vụ một mục đích, đó là ca ngợi. Còn mình thì ai muốn làm gì thì làm.… [Kalynh Ngô, “Sục sôi chữ nghĩa”, Saigon Nhỏ, 6 tháng 2, 2023 https://saigonnhonews.com/van-hoa-van-nghe/uyen-thao-suc-soi-chu-nghia/

Lời than phiền “một mặt trận bị bỏ trống, bị quên lãng từ thưở xa xôi ở miền Nam … và mặt trận văn hoá hay mặt trận tuyên truyền thu phục tâm lý quần chúng thì mình chẳng bao giờ làm…” cũng không mới lạ. Tuy nhiên, phủ nhận hoàn toàn nỗ lực của chính phủ VNCH thì không chính xác. Chính phủ VNCH đã bảo trợ cho các hoạt động văn hóa với Quốc Vụ Khanh (Quốc Vụ Khanh Mai Thế Truyền), tạp chí văn hóa, Hội Bút Việt (sau này đổi tên thành Trung Tâm VBVN, nơi đã trình diễn cuộc “từ tạ” của Nhóm Sóng Thần) với các cuộc diễn thuyết hàng tháng, nhiều cuộc triển lãm và phát giải văn chương hay hội họa. Quân lực VNCH còn có Khối Tâm Lý Chiến. Những cuốn phim như Người tình không chân dung có cả quân lính tham dự do Quân đội cung cấp cho phép và cung cấp thêm phương tiện quân sự. Thiếu tá Hà Huyền Chi, trung tá Văn Quang và đại tá Cao Tiêu đến dự buổi Đại hội Nhạc Trẻ Cây Mùa Xuân Chiến sĩ năm 1970 do quân đội dựng sân khấu. Trung Tá TLC Văn Quang đảm nhận báo lính. Báo lính nhưng được trình bày bìa bằng tranh của họa sĩ như Hiếu Đệ. Nếu nhắc tới Chiến Sĩ Cộng Hòa, không thể không nhắc tới nhật báo Tiền Tuyến. Nhật báo này tuy của quân đội nhưng cạnh tranh được với báo tư nhân nhờ tính cách chuyên nghiệp. Trung tá Lô-Răng Phan Lạc Phúc nổi tiếng qua mục “Tạp Ghi”, nhật báo Tiền Tuyến, luận về thời sự và chính sự.

Còn như Uyên Thao nhận xét: “[…] có phía cộng sản làm chuyện đó. Họ dồn nhiều phương tiện, nhiều khả năng của mọi người vào lãnh vực đó. Họ viết lách, sáng tác, làm đủ mọi thứ nhằm phục vụ một mục đích, đó là ca ngợi.…” thì, theo tôi, chỉ khiến văn nghệ xuống dốc không phanh, phí phạm tài năng của văn nghệ sĩ Miền Bắc như chính họ than vãn “bị trói” chứ quý báu gì.

Còn “mình thì ai muốn làm gì thì làm…” [Uyên Thao, sđd] ? Không, You can not have the cake and eat it too/ Anh chị không thể vừa giữ được cái bánh vừa ăn trọn được. Ông đã “muốn làm gì làm thì làm”, kể cả làm… loạn ngay giữa Thủ đô Sài gòn mà chính phủ VNCH vẫn dung thứ! Và cái kiểu “tuyên truyền thu phục tâm lý quần chúng” cũng hơi kẹt cho VNCH khi cuộc chiến này còn bị ảnh hưởng bởi…tâm lý quần chúng mãi tận Hoa Kỳ.

Tiếp đó, ông nhận xét về Văn Học Miền Nam:

– […] Tôi hỏi ông về vai trò của “Hai mươi năm văn học miền Nam” nằm ở đâu trong mặt trận đó?” Ông trả lời: “Văn nghệ, văn học ở miền Nam đã tạo được một vị trí nhất định của nó, được rất nhiều người làm, rất nhiều sáng tác bay bổng lãng mạn, thơ mộng, nhưng hoàn toàn không liên hệ gì với cuộc đấu tranh. Đó là điều rõ ràng, và nhiều khi còn có tác dụng ngược…. [Kalynh Ngô, “Sục sôi chữ nghĩa”, Saigon Nhỏ, 6 tháng 2, 2023- https://saigonnhonews.com/van-hoa-van-nghe/uyen-thao-suc-soi-chu-nghia/

Tôi thú thật không hiểu ông có bị trích dẫn thiếu sót hay không nên sẵn sàng mời ông lên tiếng, nhưng phát biểu đó rõ ràng sai hoàn toàn. Thứ nhất, theo tiểu sử, có lần ông giữ nhiệm vụ Tổng Thư ký cho tờ Diễn Đàn do Liên minh Thế giới Chống Cộng tài trợ. Nhà văn Mặc Đỗ mới đầu được mời làm chủ bút, họa sĩ Ngọc Dũng (Tuýt) vẽ biếm họa. Sau khi báo lỗ, họ mời Viên Linh thay thế và ông đặt họa danh CHÓE cho Nguyễn Hải Chí, người thay thế Ngọc Dũng. Vậy Uyên Thao không “tranh đấu” dù làm báo cho Liên minh Chống Cộng trong khoảng 1969? Chưa hết, bắt đầu từ tháng 9.1971, một truyện dài gồm 3 tập của Mặc Đỗ, khởi đi bằng Quang Minh Hội, đã xuất hiện ngay trên Sóng Thần, 1971:

clip_image004

“Bối cảnh trong truyện này dựa trên sự thật nhưng mọi chi tiết về nhân vật và sự việc hoàn toàn do tưởng tượng và không liên quan tới bất kỳ cá nhân hoặc sự việc có thật nào hết.”
Tài liệu của Đại Học Cornell, Võ Phi Hùng và Huỳnh Chiếu Đẳng-
Quán Ven Đường

Uyên Thao không thể không biết đến hoạt động của ít nhất một người trong Văn Học Miền Nam, là Mặc Đỗ. Tôi sẽ không đi sâu vào nội dung, nhưng như lời giới thiệu của tác giả, “Bối cảnh trong truyện này dựa trên sự thật” [Mặc Đỗ, Quang Minh Hội, Kỳ 8, Sóng Thần, ngày 3.10.1971], nghĩa là dựa trên sự tham dự của Hoa Kỳ, các đảng phái chính trị và hoạt động của báo chí, ký giả chống Cộng Sản vào chiến tranh lúc ấy. Mặc Đỗ biểu tỏ phản ứng và mối quan hoài trước trận chiến với người Cộng Sản qua truyện dài Siu cô nương rồi Bốn Mươi (Quan Điểm xuất bản). Nhật báo Tự Do do ông và các bạn thành lập thời mới di cư vào Nam– qua sự tài trợ của tổ chức quốc tế I(nternational) R(escue) C(ommittee) do Joseph Buttinger đại diện tới Sài Gòn– cũng không ngoài mục đích chống Cộng cùng tạo chỗ làm cho ký giả di cư lúc họ mới bơ vơ từ Miền Bắc vào. Ngoài 2 truyện dài cộng thêm 2 tuyển tập truyện ngắn (Tân Truyện do Quan Điểm xuất bản và Tân Truyện II do tạp chí Văn xuất bản), chúng ta còn thấy những bài xã luận hay điểm sách liên quan đến chế độ Cộng sản trên Văn, Vấn Đề vv.

Ngay từ năm 1968, ông đã nói rất rõ về giới “văn nghệ dấn thân không Cộng sản” khi trả lời tạp chí Vấn Đề:

-Điểm tách biệt nhất giữa con người tôi hôm nay và con người tôi thời viết Động Phù Vân là thời đó tôi nghĩ rằng sáng tác là một công việc ở ngoài mọi hoạt động khác (…) tôi đã từ bỏ quan niệm này rất mau (…) Nhìn nhận có sự tách biệt rõ rệt như vậy không có nghĩa là tôi đã chối bỏ tác phẩm đầu tay. Đối với mỗi người chúng ta sự lựa chọn bao giờ cũng là một cố gắng, tuy cố gắng đó đáp ứng rất nhiều những đòi hỏi trong tâm tư và những nhu cầu nhận thấy ở chung quanh. Làm sao ta phủ nhận được là vẫn tiềm tàng ở trong ta phần nhỏ những gì dù sao cũng vẫn dự phần chung góp tạo thành con người của ta. Tôi nghĩ rằng người văn nghệ dấn thân không cộng sản khác với người văn nghệ cộng sản ở điểm đó. [Mặc Đỗ, Trả lời “Bẩy nhà văn nhận định về Tác phẩm Đầu tay”, Vấn Đề Số 13, 8.1968, trang 5-6, Sài Gòn]

Tôi có thể kiểm chứng được vụ Quang Minh Hội trên Sóng Thần vì được ông trao cho 3 tập bản thảo:

clip_image006

Mặc Đỗ, Một trang bản thảo trong tiểu thuyết Quang Minh Hội
Tài liệu của Nguyễn Tà Cúc

Lối phát biểu chung chung kiểu Uyên Thao cũng chẳng mới mẻ gì. Việt … Cộng đã đi trước với lời kết tội loại đó, từ thời những năm 1960-1970, với “văn nghệ dấn thân” kiểu Vũ Hạnh, Lữ Phương vv. hoặc Nhóm Trình Bầy hầu đối nghịch với “văn chương viễn mơ” của cả nước còn lại. Nhà thơ Viên Linh, Thư Ký Tòa soạn của nhiều tạp chí văn học Miền Nam, đại diện toàn quân viết bài phản bác loại lý luận …Việt Cộng này. Dĩ nhiên, ngoài tính cách phi văn chương, lối kết tội ấy còn không đúng sự thật. Nhà thơ/Trung Úy Tâm lý chiến Du Tử Lê, nổi tiếng với nhiều bài thơ tình được phổ nhạc mà nếu Uyên Thao không biết chắc cũng đã nghe, là tác giả bài “Về cửa biển Đề-Gi” đăng trên Chiến sĩ Cộng hòa, tháng 6.1967. Ông tặng bài thơ cho “đồng bào ấp An Quang và Li Kim, người đã ra công vun dựng ấp này”:

Về cửa biển Đề-Gi

Từ lâu rồi tôi không còn làm thơ được nữa
vì ngôn ngữ thi ca đã hoàn toàn bất lực
trước trái mìn giặc giật nổ tung tan từng mảnh thịt
trước những trái lựu đạn khi không
tiện ngang từng cuộc đời người dân vô tội
trước những mảnh khăn sô
xé vội
trước những cánh đồng bỏ hoang
giữa những đôi mắt kinh hoàng
bên những bàn chân lận đận
của đồng bào tôi chạy lánh giặc thù

Từ lâu rồi tôi không còn làm thơ được nữa
vì thi ca không làm nên cơm áo (…)
những thiếu phụ tuổi chưa qua hai mươi
đã sớm tắt nụ cười theo linh hồn
người chồng sớm khuất (…)

Từ lâu rồi tôi không còn làm thơ được nữa
nhưng hôm nay lòng tôi dạt dào sóng vỗ (…)
khi đồng bào tôi ngày ngày đủ bữa cơm ăn (…)
tôi không biết nói gì với các anh
vì Cao Ly một chín bốn chín
không thể sánh bằng Việt Nam 15 năm rồi đau khổ
tôi không biết nói gì với các anh
những người bạn đã đem ấm no về
cho một mảnh đất quê tôi…
(Du Tử Lê)

Uyên Thao còn chỉ trích về chuyện độc giả đọc và mua sách:

[…]Một sự thật mà nhà báo Uyên Thao ngậm ngùi chấp nhận: ‘Số người đọc chỉ nằm trong một nhóm rất nhỏ‘. Trả lời cho lý do này, ông nói một phần lớn do ‘tính tìm hiểu không phải đặc trưng của người Việt Nam’. Từ những năm 1945, Uyên Thao đã tự vấn về thói quen giải trí, về mục đích sống, về cách thụ hưởng niềm vui của người Việt (…) ‘Mình chỉ nói những điều theo bản năng của mình, nói những gì mình thích. Nhưng điều mình thích hay ghét đôi khi nó chả là gì cả. Người dân mình vẫn sống theo bản năng chứ không sống theo cái sai và cái đúng. Chúng ta không đặt vấn đề ở việc đi tìm cái đúng và cái sai. Đó là nhược điểm tai hại nhất của chúng ta,’ ông nói. Hai mươi hai năm, ông cần mẫn đọc từng bản thảo. Có những cuốn ông phải đọc trên hai lần, kiểm chứng các chi tiết, biên tập, rồi quyết định in ấn.… [Kalynh Ngô, sđd]

Hơn mười năm trước đó, ngày 3 tháng 5, 2012, Uyên Thao trả lời biên tập viên Mặc Lâm về vài tác phẩm mà ông “đặc biệt chú trọng” khi xuất bản, trong đó có Đi tìm nhân vật của Tạ Duy Anh:

-[…] Nhà báo Uyên Thao: (…) Trong số những tác phẩm mà chúng tôi chọn có lẽ ít nhất có 4 tác phẩm mà tôi đặc biệt chú trọng là một chuyện thực của họa sĩ Chóe, một truyện dài của Tạ Duy Anh, một cuốn hồi ký của Tô Hải, và một cuốn ký sự của một ký giả Pháp là ông Pierre Darcourt. Đó là 4 tác phẩm mà tôi nghĩ, theo quan điểm riêng chủ quan của tôi, đấy là những gắn bó chặt chẽ nhất với cuộc sống ở Việt Nam (.…) Riêng tác phẩm của [Tạ Duy Anh] là tác phẩm “Đi Tìm Nhân Vật” mà Tiếng Quê Hương in  (…) thì tôi thấy Tạ Duy Anh (…) có thể nhìn thấy rõ ràng nguyên do xô đẩy hơn 80 triệu người dân Việt Nam của mình vào cảnh sống mà chính ông ta mô tả là “không còn là cảnh sống của con người nữa!” Và cái nguyên do đó, thông qua ngòi bút của Tạ Duy Anh mà mình có thể hình dung được, đó là sự hiện diện của một tập thể cầm quyền mà Tạ Duy Anh mệnh danh một cách rất rõ ràng đó là “một tập đoàn ma quỷ”, thì đấy chính là điều đã thúc đẩy tôi phải in tác phẩm đó ở bên ngoài này.…

[Mặc Lâm-Biên tập viên RFA, “Tiếng Quê Hương – Cuộc chơi đầy gian nan”-Phỏng vấn nhà báo Uyên Thao, Ngày 3, tháng 5.2012 – https://www.rfa.org/vietnamese/news/programs/LiteratureAndArts/friendly-chat-uyenthao-ml-03052012140614.html

Hỡi ôi, Đi tìm nhân vật, một trong 4 tác phẩm mà Uyên Thao chọn giới thiệu mà Tiếng Quê Hương in vào năm 2003, có một đoạn rùng rợn, dã man, cực tả cảnh người lính Miền Nam ăn thịt bộ đội Miền Bắc. Lần nào phải đọc lại, một người không hề yếu bóng vía như tôi cũng dựng tóc gáy:

clip_image008

Tạ Duy Anh, Đi tìm nhân vật
Tủ sách Tiếng Quê Hương xuất bản, Virginia, 2003

[…]Hai ngày sau bọn địch phản công. Cả trung đội mình bị băm nát. Thằng Thiết bị đạn găm đầy mình, vừa đưa tay ấn ruột vào, vừa bóp cò. Bọn ngụy ào lên như lũ quỷ, quyết bắt sống thằng Thiết. Như sau này anh em trinh sát kể lại, chúng quay thằng Thiết như quay một con lợn rồi róc thịt uống rượu trả thù cho đồng đội. Nó đã hy sinh như một người anh hùng trên chiến trận… [Tạ Duy Anh, Đi tìm nhân vật, trang 136, Nhà Xuất bản Tiếng Quê Hương, 2003, Virginia-Hoa Kỳ]

Tôi chỉ nhận xét mà không suy luận vì hoàn toàn tôn trọng quyền xuất bản của Tủ Sách Tiếng Quê Hương và quyền sáng tác của Tạ Duy Anh, nhưng tôi đưa thí dụ Đi tìm nhân vật hầu cho thấy Uyên Thao cần chấp nhận một thực tế công bằng: được quyền tự do sáng tác, phát biểu, xuất bản thì đương nhiên cũng phải tôn trọng quyền tự do chọn lựa và thậm chí, quyền tẩy chay một sản phẩm, kể cả sản phẩm văn chương, của độc giả. Không ai có quyền nhân danh bất cứ điều gì, dù nhân danh những điều cao đẹp Văn chương Hạnh phúc Cuộc đời vân vân (Viên Linh), buộc họ mua một sản phẩm, kể cả một sản phẩm văn chương.

Còn “văn nghệ”, riêng về Âm nhạc, ngày nay “Nhạc Lính” đã được tái sinh. Còn Điện ảnh nữa. Các lãnh vực này cần nhiều nghiên cứu mới đủ nên tạm ngưng phần này ở đây.

Tổng chi, ngày nay, chúng ta sẽ kiểm chứng được nhiều sự kiện một cách công bằng khi so sánh khối tài liệu không chỉ từ người Cộng Sản mà còn từ nhân sự Miền Nam. Tin tức trên các nhật báo như Tiền Tuyến, Sóng Thần, Chính Luận vv.. liên quan đến Đệ tứ quyền, Hòa bình và Thống nhất cũng sẽ giúp phần đánh giá một chương của lịch sử VNCH khi so sánh sự kiện đã xẩy ra với tin tức trên báo chí Hoa Kỳ.

(Còn tiếp)

bài đã đăng của Nguyễn Tà Cúc

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

2 Bình luận

  • Nguyễn Tà Cúc says:

    Xin đính chính và cáo lỗi cùng độc giả

    Danh tính của vị Quốc Vụ Khanh đặc trách Văn Hóa vào thời này là (Chánh Trí) Mai Thọ Truyền (chứ không phải “Mai Thế Truyền”) như đã viết sai.- Nguyễn Tà Cúc

  • Nguyễn Tà Cúc says:

    Trong bài này, tôi đã viết sai– vì có lúc đã từng có cuốn Chân dung nhà văn của nhà thơ Xuân Sách– về xuất xứ của 4 câu thơ mà tôi mượn:
    Mấy lần Đứng Dậy … nhổm lên
    Đối Diện không nổi cho nên phải nằm
    Đồng Dao thua cuộc, lặng câm
    Ngàn thu vĩnh biệt vì lầm anh em

    Nguyên bản của nhà thơ Xuân Sách (chứ không phải Nguyễn Xuân Sanh) viết về nhà văn Nguyên Ngọc là:

    Mấy lần đất nước đứng lên
    Đứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằm
    Hại thay một mạch nước ngầm
    Cuốn trôi đất Quảng lẫn rừng Xà nu.

    Trong khi chờ đợi tìm được nguồn đầy đủ hơn, tôi xin được đính chính ngay và xin trân trọng cáo lỗi cùng tác giả, gia đình tác giả cùng bạn đọc. Tôi cũng xin cảm ơn một bạn đoc, qua Da Màu, các bạn đọc khác đã lưu ý để bỏ thì giờ quý báu nhắc nhở.-Nguyễn Tà Cúc

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)