Trang chính » Bàn Tròn: Chiến Tranh Việt nam, Biên Khảo, Nghiên Cứu, Nhận Định, Tư Liệu, Văn Học Miền Nam Việt Nam 1954-1975 Email bài này

từ một góc california – gìn giữ tấm dư đồ như nâng niu áo trận (kỳ 6–phần B)

clip_image002_thumb.jpg

 

5.1.7 Ngành xuất bản, độc giả tiêu thụ và Đêm nghe tiếng đại bác

Tôi rất chú ý đến ngành xuất bản Miền Nam vì, theo tôi, Văn Học Miền Nam tiến bộ vượt bực trong chỉ 20 năm cũng phần nào nhờ kỹ thuật in ấn thời đó với những nhà in hùng hậu. Quan trọng không kém, sự nghiệp của họa sĩ Miền Nam như Thái Tuấn, Duy Thanh, Ngọc Dũng rồi Nghiêu Đề, Phan Ngọc Diên, Nguyễn Trung vv. đã hiển hiện trên bìa các tác phẩm. Đó là chưa nói tới một tập thể họa sĩ đông đảo đã vẽ bìa cho tạp chí và ấn phẩm từ tiểu thuyết tới lịch sách hoặc bìa bản nhạc (họa sĩ Duy Liêm) vv. Không những thế, họ còn vẽ logo cho nhà xuất bản. Phan Ngọc Diên vẽ logo cho nhà xuất bản Kim Anh của Nguyễn Thị Nhiên, Nguyễn Thị Thụy Vũ rồi nhà xuất bản Đại Ngã của Nguyên Vũ. Thế nên, tôi ngờ ngợ khi đọc đoạn này:

 [.…] Vào năm 1966, cuốn tiểu thuyết ngắn đầu tiên của bà có tên Đêm nghe tiếng đại bác xuất hiện và trở thành cuốn bán chạy. Tái bản 6 lần và bán hơn 100.000 cuốn…”/In 1966 her first novella, Đêm nghe tiếng đại bác (At Night I Hear Cannons), appeared and became a bestseller. Reprinted six times and selling over 100, 000 copies.…”[Olga Dror, sđd, trang xvii-Nguyễn Tà Cúc dịch sang Việt ngữ)

Thoạt đầu, tôi có cảm tưởng loại tin tức này có vẻ thất thiệt hay nặng phần trình diễn nhẹ phần nội dung vì khó có chuyện cuốn sách nào của Miền Nam in tổng cộng tới 100,000 bản nếu không được dẫn chứng cụ thể. Khi yêu cầu, tôi đã được anh Nguyễn Trường Trung Huy, Sài gòn, gửi cho trang căn cước của cuốn Đêm nghe tiếng đại bác do Tủ Sách Trăng Mười Sáu (do Nhã Ca làm chủ) tái bản vào cuối năm 1974. Cuốn này, được in 2000 bản, có lẽ là lần tái bản cuối cùng.

clip_image002

Nhã Ca, Đêm nghe tiếng đại bác, Tủ Sách Trăng Mười Sáu xuất bản, 1974
Tài liệu của Nguyễn Trường Trung Huy

Nhà văn Nhật Tiến đã có ý kiến về con số 100,000 bản cũng trong cuộc phỏng vấn thượng dẫn. Xin đăng phát biểu của ông để tồn nghi:

Năm 1966 quả là có sự biến chuyển ở giới đọc sách. Nghĩa là số người mua sách Tiểu Thuyết để đọc bỗng tăng vọt hẳn lên (sau khi thiên hạ đổ xô đi mua đọc sách Kiếm hiệp của Kim Dung hay sách Gián Điệp như Z28, N24, Z33, FA 007, U 42 v.v [.…] Những tác phẩm của Nhã Ca, của Duyên Anh của Phan Tùng Mai… v.v… cũng được gọi là sách bán chạy. Nhưng cho rằng cuốn Đêm nghe Tiếng Đại Bác của Nhã Ca được tái bản tới 6 lần và đã bán tới trên 100,000 bản thì có lẽ hơi quá. Trong đời viết văn của tôi, tôi chưa được nghe một tác phẩm văn chương nào của miền Nam mà lại bán chạy đến như thế. Riêng cuốn Chim Hót Trong Lồng của tôi cũng kể là sách bán chạy, nhất là tại rất nhiều trường Trung học ở các nơi trong miền Nam, các Thầy Cô giáo thường cho học sinh của mình thuyết trình cuốn này trong các giờ dạy Văn, nên nó được tái bản trên 10 lần trong vài năm sau ấn bản đầu, mà tổng cộng sách in ra cũng chỉ tới trên 30,000 cuốn là nhiều. Tôi chỉ nêu nhận xét chung là như thế. Còn riêng tác phẩm nói trên của Nhã Ca tình trạng phát hành đích thực ra sao, tôi không dám cả quyết. [Nguyễn Tà Cúc, Nhật Tiến trả lời phỏng vấn, sđd]

Muốn biết thực hư, số bản in (nếu có) trên trang căn cước qua các lần xuất bản và tái bản sẽ cung cấp được một cách tương đối chính xác. Nếu không tìm đủ 6 lần, hoặc không có số in trên các trang căn cước, tôi nghĩ chúng ta cũng có thể phỏng đoán qua số bản in của các tác phẩm khác và hoàn cảnh xuất bản cùng thời. Theo tin tức tổng hợp trên Bách Khoa–bằng loạt bài phỏng vấn của Ngê Bá Lí với các nhà xuất bản trước & sau Tết Mậu Thân–Văn, Nghệ Thuật và các cuốn sách mà tôi có, số in thường từ 1000 tới 3000 bản hay 4000 bản. Những tác giả có sách bán chạy như Phạm Công Thiện (trong khoảng 5 tháng, Hố thẳm tư tưởng bán được 9000 bản, tuyệt bản), Duyên Anh và Nguyên Vũ đều giữ được đều đặn 5000 bản, nhưng sách của Duyên Anh và Nguyên Vũ tái bản nhanh hơn lại nhiều hơn, có khi tới 7000 hoặc 8000 bản. Nguyễn Thị Hoàng có sách bán chạy nhất trong các nhà văn nữ với khoảng trên dưới 5000 bản, có cuốn được tái bản nhiều lần.

Nhà xuất bản Lá Bối lập nghiệp rất khiêm nhượng, nhưng lập kỷ lục với Bông hồng cài áo được in tới 70,000 bản trong vòng gần 7 năm (1962-1969) mà vẫn phải tái bản. Có lẽ đó là tác phẩm đạt được 100,000 bản hay hơn nữa nếu cộng thêm số bản in từ 1969 tới 1975. Nhất Hạnh không chỉ có Bông hồng cài áo. Ông là tác giả chủ lực của Lá Bối vì mọi tác phẩm của ông đều bán rất chạy và tái bản rất nhanh. Cuốn Nói với tuổi hai mươi in 21,000 bản chỉ trong vòng dưới 1 năm. Khác với một tác giả chỉ chuyên khảo cứu về Phật pháp, như Tuệ Sỹ và Thạch Trung Giả, Nhất Hạnh (hay Thích Nhất Hạnh) thuyết phục độc giả trẻ với những vấn đề của họ đặt trong khung tôn giáo và văn hóa. Ông và Linh mục Thanh Lãng là hai người nổi tiếng trong giới tôn giáo trí thức dấn thân Miền Nam. Trần Phong Giao, điều hành Nhà xuất bản Giao Điểm rồi Văn cùng Nguyễn Đình Vượng, cho biết thông thường chỉ in cỡ 2000 tới 3000 bản, nhưng cũng có những cuốn in theo kiểu phổ thông–một sáng kiến của tạp chí Văn— như Tuổi nước độc (1966) của Dương Nghiễm Mậu, in lần đầu 6000 bản rồi tái bản 4000 cuốn nữa. Sở dĩ Trần Phong Giáo dám in tới 6000 bản vì Dương Nghiễm Mậu được độc giả yêu thích. Về thơ, Vũ Hoàng Chương với Ngồi Quán đạt được tới mức 3000 bản.

Khái Hưng, một đối thủ lợi hại tuy bất ngờ của nhiều tác gia Miền Nam, vì ngoài giá trị văn chương, tác phẩm của ông còn có trong danh sách của Bộ Giáo Dục, đúng như một khía cạnh mà Nhật Tiến nhắc tới. Theo ông Đào Mạnh Nghiêm, giám đốc nhà xuất bản Văn Nghệ, Sài gòn, tác phẩm của Khái Hưng “vào các năm 1967, 1968, nên số sách tái bản sau này, mỗi cuốn đều in năm ngàn, Hồn bướm mơ tiên in tới chín ngàn”. Những cuốn thuộc loại gần giống như giáo khoa, như Thần Nhân và Thần Thoại Tây Phương của dịch giả/nhà văn Mặc Đỗ thường được in khoảng 4000 hay 5000 bản vì nhu cầu học hỏi của sinh viên.

clip_image004

Mặc Đỗ, Thần Nhân và Thần Thoại Tây Phương
5000 cuốn, Cơ sở Xuất bản Trương-Vĩnh-Ký,tháng 5.1974

Về sách dịch, thông thường mỗi cuốn được in khoảng 1 ngàn tới 3 ngàn bản nhưng có những cuốn như Câu chuyện dòng sông (Herman Hesse- bản dịch của hai chị em Phùng Khánh, Phùng Thăng) được in tới 6 lần qua 2 nhà xuất bản khác nhau từ 1965 tới 1974 (An Tiêm, 3000 bản, 1974).

clip_image006

Hermann Hesse, Câu chuyện dòng sông, tháng 5.1974
Dịch giả Phùng Thăng và Phùng Khánh, An Tiêm xuất bản

Nhã Ca không thuộc loại tác giả ăn khách nhất tuy tác phẩm bán được đều đặn (26), từ khoảng 2000 đến 4000 bản. Vào ngày 17.7.1974, cuốn Bước khẽ tới người thương phát hành với 2000 cuốn cũng bằng số tái bản của Đêm nghe tiếng đại bác cùng năm. Giải khăn sô cho Huế–do chính Thương Yêu xuất bản lần thứ nhất, ngày 22.9.1969– không biết in bao nhiêu bàn hoặc có được Nhã Ca tái bản hay không, nhưng có lẽ không bán chạy vì gần 2 năm sau, Nhã Ca giao cho nhà xuất bản Đất Lành tái bản ngày 2.6.1971. Tôi rất may mắn được một người bạn cất công cho một bản chụp của Đất Lành, tuy không có số bản in. Một tác giả làm chủ nhà xuất bản thì không dại gì giao tác phẩm bán chạy của chính mình cho người khác hưởng lợi. Nguyễn Thị Hoàng lập nhà xuất bản Hoàng Đông Phương cũng vì lẽ đó. Tới đây, như thế, tôi đã có thể ước lượng một cách không sai lệch lắm về số bản xuất bản của Đêm nghe tiếng đại bác, tác phẩm văn được coi như đầu tay của Nhã Ca.

Đêm nghe tiếng đại bác, xuất bản lần đầu vào năm 1966, có lẽ được in khoảng 2000-3000 bản vì lúc ấy Nhã Ca chưa tạo được tên tuổi. Lần tái bản thứ 3 (“lần in thứ tư”) được xác định vào năm 1969 theo trang căn cước của Giải khăn sô cho Huế (do Thương Yêu xuất bản lần thứ nhất, tháng 9.1969). Tôi không tìm thấy chứng tích lần in thứ 5 ở đâu. Lần in cuối có lẽ do Thương Yêu xuất bản với 2000 bản vào năm 1974 vì Miền Nam mất vào tháng 4.1975. Sau nữa, từ 1969 tới 1974 (5 năm) mà chỉ in 2 lần nữa thì tác phẩm này chắc chắn không bán chạy. Như vậy, giữa lần xuất bản vào năm 1966 và lần tái bản cuối vào năm 1974, Đêm nghe tiếng đại bác được tái bản 4 lần nữa. Mỗi lần tái bản này cứ xem như được 5000 bản, một con số ước lượng rất hào phóng nếu so với số in lần cuối cùng mà chúng ta đã biết chắc chắn là 2000 bản. Như vậy, tổng cộng số bản in có thể là khoảng 25,000 bản, tròm trèm 1/4 con số 100,000 do Olga Dror cho chúng ta biết. Nếu phóng đại đến 50,000, 60,000 bản cũng không cách nào đạt nổi được tới con số 100,000 đó. Một lần nữa, kinh nghiệm của một tác giả và giám đốc một nhà xuất bản đã giúp nhà văn Nhật Tiến nhận xét khá chính xác.

5.1.8 Việt Cộng và Giải khăn sô cho Huế

Theo Nhã Ca nhớ lại, Việt Cộng đã gửi thư hăm dọa và đòi bà ngưng viết Giải khăn sô cho Huế trên nhật báo Hòa Bình (27). Trong khi chờ đợi được nhìn thấy tờ Hòa Bình, nhân chứng xác nhận hay phủ nhận, tôi sẽ trích dẫn phần nhà văn Nhật Tiến phát biểu cho rộng đường dư luận:

Tôi không tin chuyện này. Lý do: Tờ Hòa Bình không phải là tờ báo duy nhất gây tai hại cho CS, có khi còn thua những tờ khác như Sống, Sóng Thần, Chính Luận …. vậy mà tôi đâu có nghe thấy có tờ báo nào bị VC gửi thư đe đọa, bắt đóng cửa đâu! Mặt khác, đối với Việt Cộng thì không bao giờ có chuyện “viết thư hăm dọa” theo kiểu đó. Nếu cần thì họ tung lựu đạn, gài mìn, ám sát theo chủ trương sắt máu. Như họ đã ném lựu đạn M-26 vào xe của BS Lê Minh Trí, Tổng trưởng Gíao Dục &Thanh Niên ngày 6-1-1969. Hai tháng sau, họ bắn chết BS Trần Anh, Tân Viện Trưởng Viện Đại Học Sài Gòn, trước cổng trường Chu Văn An, bên cạnh Đại học xá Minh Mạng, Chợ Lớn. Hay họ đã dùng chất nổ hạ sát GS Nguyễn văn Bông năm 1971 rồi bắn chết sinh viên Lê Khắc Sinh Nhật cũng trong năm 1971 ở ngay trong khuôn viên trường Luật. Như thế, theo tôi, kiểu “Gửi thư hăm dọa nhưng đương sự “continued regardless” thì mọi chuyện đâu vẫn hoàn đấy!!” đối với VC thì là trò giễu dở, bởi nếu đương sự cứ tiếp tục phớt lờ đi thì còn gì là uy tín của “cách mạngnữa !!!”[Nguyễn Tà Cúc, “Nhật Tiến trả lời phỏng vấn về Giải khăn sô cho Huế và Mourning Headband for Hue”, Email, ngày 15. 4. 2015]

Tôi có phần đồng ý với Nhật Tiến vì theo dõi sinh hoạt văn nghệ và chính trị Miền Nam, Nhã Ca không có ảnh hưởng nhiều với độc giả như đã chứng minh qua số sách bán được. Riêng Giải khăn sô cho Huế, Nhã Ca chia trách nhiệm cho cả người Cộng Sản Miền Bắc lẫn VNCH qua “Tựa Nhỏ: Viết để chịu tội” đến nỗi, sau này, nhà văn Võ Phiến phải có lời mỉa mai mà tôi đã trích dẫn trong một bài viết trước đây:

[.…] Sau khi biến cố Mậu Thân ở Huế xẩy ra được hai năm, sau khi nghiền ngẫm chán chê, Nhã Ca phát biểu: ‘Công trình ấy không biết từ đâu, nhưng dù do đâu đi nữa, thì cái tội ác tàn phá một thành phố lịch sử là Huế, chính thế hệ chúng ta, thời đại chúng ta, phải chịu trách nhiệm….” (sđd, trang 9). Vụ Mậu Thân là một “công trình”! Công trình lớn lao ấy không biết do đâu. Đã không biết do đâu thì lỗi phải bất phân: Chia đôi trách nhiệm? Thành quả công trình nọ, mỗi bên một nửa? Huề?!” [Võ Phiến, sđd, trang 2053, Nhả xuất bản Văn Nghệ, 1999, Hoa Kỳ]

Thế nên, dựa trên số sách bán được rồi cảm tưởng của cả Nhật Tiến lẫn Võ Phiến–hai nhà văn kỳ cựu Miền Nam–xác xuất bị hăm dọa của Nhã Ca có vẻ không lớn lắm, nếu không nói là khó thể xẩy ra.

5.1.9 Phim Đất Khổ, truyện Đất Khổ/Hà Thúc Như Hỷ và Giải khăn sô cho Huế/Mourning Headband for Hue

Đoạn dưới đây xuất hiện trong Mourning Headband for Hue:

Vào năm 1971, đạo diễn Hà Thúc Cần bắt đầu quay một cuốn phim có tên Đất Khổ, dựa một phần trên cuốn Giải khăn sô cho HuếĐêm nghe tiếng đại bác. Nhã Ca viết truyện phim/script và tham gia vào đoàn sản xuất phim .… [Olga Dror, trang xx-xxi- Nguyễn Tà Cúc dịch sang Việt ngữ] (28)

Ít nhất là từ bảy năm trước đó, Nhã Ca đã tự nhận”Từ cảnh Huế Mậu Thân trong sách được viết lại thành chuyện phim Đất Khổ, phim quay xong năm 1972 bị cấm chiếu ở Saigon vì tội phản chiến.…” [Mặc Lâm phỏng vấn Nhã Ca, “ ‘Giải Khăn Sô Cho Huế’, RFA phỏng vấn Nhã Ca”- ngày3.2.2008, hoặc trên Việt Báo Kinh Tế.

Cũng vào năm 2008, bà xác nhận:

[.…] phim Đất Khổ (…) với kịch bản dựa trên tác phẩm Đêm nghe tiếng đại bác Giải khăn sô cho Huế của nhà văn Nhã Ca.… (Nhã Ca, Bìa sau Giải khăn sô cho Huế, tái bản, California, 2008)

Không những thế, bà còn khẳng định đã “viết toàn bộ đối thoại” (sđd). Thật vậy, xem lại video phỏng vấn Nhã Ca do Ban Tổ Chức Viet Film Fest (VFF) 2015 thực hiện vào tháng 4. 2015, bà đã lại tự giới thiệu như sau:

Tôi là Nhã Ca. Hôm nay tôi đến đây với Viet Film Fest với phim Đất Khổ của đạo diễn Hà Thúc Cần mà do tôi là người viết kịch bản.… [Dannie phỏng vấn Nhã Ca, Viet Film Fest 2015 April 16-19, 2015 Ultraluxe Cinemas at Anaheim Gardenwalk, Viet Film Fest 2015, Launch Interview 11, https://www.youtube.com/watch?v=md58uouHyBA#]

Do đó, tôi không ngạc nhiên khi cuộc nói chuyện tại Đại học Cornell về Mourning Headband for Hue vào ngày 27.10.2015 có kèm theo buổi chiếu phim Đất Khổ. Trước đó, cuộc ra mắt sách Mourning Headband for Hue cũng được tổ chức sau buổi chiếu phim tại đại hội Viet Film Fest 2015 tại thành phố Anaheim, California vào ngày 18 tháng 4. 2015. Những tin tức thượng dẫn chỉ nhắc tới Nhã Ca –từ chính bà hay người khác–nhưng không bao giờ nhắc tới nhà thơ Hà Thúc Như Hỷ.

Bởi vậy, không ai có thể ngờ được một biến cố đã xẩy ra khiến thay đổi mọi sự. Ngày 18. 4. 2015, bác sĩ quân y (VNCH)/nhà thơ kiêm Ca Trưởng Ca đoàn Áo trắng (California) Hà Thúc Như Hỷ xuất hiện trên sân khấu rạp hát ngay buổi chiếu phim, tay cầm bản thảo truyện phim Đất Khổ mang từ Miền Nam khi di tản sang Hoa Kỳ. Lời phát biểu của ông chấm dứt nguồn tin của Nhã Ca trong bao lâu nay về kịch bản, xuất xứ cũng như cốt truyện và bối cảnh của phim Đất Khổ. Tôi đã phỏng vấn và tường thuật về những uẩn khúc cùng bằng cớ giải thích sự bất ngờ ấy trong bài “Bạch Hóa về phim Đất Khổ và Hà Thúc Như Hỷ” [Khởi Hành, số 219-220, trang 86-103, tháng 4 & 5. 2015].

Khởi Hành cho đăng lại bài phát biểu của Hà Thúc Như Hỷ mà ông đã phát cho khán giả trong cùng ngày chiếu phim Đất Khổ và cuộc ra mắt Mourning Headband for Hue:

clip_image008

“Về chuyện Phim ĐẤT KHỐ:

“Có rất nhiều điều muốn nói, cũng có rất nhiều điều cần làm sáng tỏ những mập mờ trong những tài liệu nói về Phim Đất khổ. Không cần phải tranh biện dài giòng, tôi chỉ khẳng định rằng:

-Phim Đất khổ đã được dựng trên cốt truyện dài mang tên Đất khổ của Hà Thúc Như Hỷ.

-Những chi tiết ngắn trong phim như người mẹ điên do Kim Cương thủ diễn hay một câu đối thoại của hai chị em nằm trong giường được trích từ Giải khăn sô cho Huế Đêm nghe tiếng Đại Bác của Nhã ca.

-Chuyển thành chuyện phim (screen play) và phân cảnh do Hà thúc như Hỷ, Hà thúc Cần. Riêng phần phim quay ở Saigon về một người Mỹ trong xóm lao động hoàn toàn do sáng tạo của Hà Thúc Cần với cộng tác của Trần Lê Nguyễn, Sơn Nam, Lê Trọng Nguyễn v.v…

-Phim Đất khổ đã bị cắt xén rất nhiều.

-Phim Đất khổ chỉ trình bày những “nỗi khổ”,”cái khổ” của dân tộc trong chiển tranh.

Những điều khẳng định này được minh xác bởi những được bởi những dữ kiện sau đây:

-Hiên có trong tay bản chuyện phim Đất khổ -tác giả Hà Thúc Như Hỷ “viết xong giữa mùa Giáng sinh 1970” tại DAKTO Tân cảnh.

Ở trang đầu có ghi:

ĐẤT KHỔ

Tổ hợp nghệ sĩ điện ảnh “Viêt Phim”

Đạo diễn: HÀ THÚC CẦN Chuyện phim: HÀ THÚC NHƯ HỶ

“Cốt chuyện, nhân vật, đối thoại,trong phim ĐẤT KHỔ chỉ có thể tìm thấy trong chuyên dài Đất khổ của Hà Thúc Như Hỷ mà thôi chứ không tìm thấy trong bất cứ tác phẩm nào khác. [Cô Y Sa đã khảo sát và chụp ảnh bản chuyện phim này]

-Tựa đề Đất khổ là hoá thân của địa danh Dakto và Nhân vật Bác sĩ Hà, tên thu gọn của Hà Thúc Như Hỷ, Y sĩ trưởng Đại đội 721 Quân Y tại Tiền đồn Tân cảnh.

-Bác sĩ Hà là nhân vật chính của chuyện phim trong vai trò nhân chứng những khổ đau của dân tộc cũng như những nét hào hùng của cuộc chiến bảo vệ tự do.Thái độ lăn xả vào cuộc chiến “tình nguyện đi Dakto” là câu trả lời cho người em có khuynh hướng phản chiến. Toàn bộ chuyện phim Đất khổ, trong phần tư tưởng, là muốn trình bày trung thực những cái nhìn khác nhau về cuộc chiến,những xung đột, đối kháng trong tâm tư của những khối người Việt trong chiến tranh và dùng những nhân vật trong một gia đình với một bà mẹ Việt nam làm biểu tượng.

Vì những khó khăn không vượt qua được, vì những thực tế không lường trước được Phim Đất Khổ đã không thực hiện trọn vẹn hoài bão và ước mơ. Riêng tôi, tôi không mong tìm một hào quang nào từ phim Đât Khổ, và từ lâu tôi đã giữ gìn như một kỷ niệm đẹp dễ thương.

HÀ THÚC NHƯ HỶ, M.D. Ngày 18.4.1975″ [Khởi Hành, sđd, trang 90-92]

Cô Y Sa, Giám đốc VFF đã quyết định cũng trao tặng bản lưu niệm cho Hà Thúc Như Hỷ “nhân vật chính của chuyện phim”:

clip_image010

Từ trái sang phải: Cô Lê Đình Y Sa, nhà văn Hà Thúc Như Hỷ, họa sĩ Ann Phong
“Viet Film Fest đánh dấu 40 năm Sài gòn thất thủ”
Việt Báo Kinh Tế,  Ngày 1.5.2015

Kịch bản/truyện phim/đối thoại/bối cảnh Dakto của Đất Khổ, bởi thế, đã có tên tác giả/nhân vật chính bác sỹ Hà Thúc Như Hỷ, một sự kiện mà trước đây không hề có. Từ đây, Đất Khổ đã và sẽ được xét lại cho công bằng cho ông.

5.1.10 Nhà thơ Nguyên Sa và tạp chí Nhà Văn

Một chi tiết nữa, cần được bổ sung vì liên quan tới nhà thơ Nguyên Sa và nhà văn Nguyễn Mai:

 [.…] Họ (Nhã Ca và Trần Dạ Từ-chú thích của Nguyễn Tà Cúc) cũng đã tổ chức môt tạp chí có tên Nhà Văn, nhưng chỉ xuất bản được vài số trước khi Miền Nam sụp đổ vào tháng 4. 1975 …./They also organized a magazine with the title Nhà Văn (Writer), but only several issues were published before the fall of South Vietnam in April 1975…. [Olga Dror, sđd, trang xxi-Nguyễn Tà Cúc dịch sang Việt ngữ]

Tôi biết về tạp chí Nhà Văn nhờ may mắn được nhà sưu tập sách Vũ Hà Tuệ, Sài gòn–qua sự giới thiệu của nhà phê bình Cao Việt Dũng, Hà Nội–gửi cho bản sao 3 số đã phát hành. Trước đó rất nhiều năm, khi có dịp bàn chuyện Văn Bút, Nguyên Sa có nhắc tới tờ tạp chí này và số phận ngắn ngủi của nó cùng viễn kiến của những người như Linh mục Thanh Lãng cùng chính ông nữa về một đất nước hòa bình đã không bao giờ hiện thực. Không lần nào gặp mà ông không nhắc lại cuộc phỏng vấn linh mục Thanh Lãng trên Nhà Văn. Ông nói với tôi giấc mơ làm báo văn học từ Hiện Đại đến Nhà Văn, như giấc mơ hòa bình, đều không được may mắn. Danh tính và phận sự của ban chủ trương và biên tập được đăng ngay trên Nhà Văn:

Chủ trương: Nguyên Sa, Trần Dạ Từ–Bài vở: Nguyễn Mai–Trị Sự: Phan Bội Hằng

Nếu nói tới “tổ chức, xếp đặt/organize” thì Nguyễn Mai–người đủ uy tín nên có danh tính phụ trách phần bài vở–cần được nhắc tới. Theo tôi, chính Nguyễn Mai gần như là Thư Ký Tòa Soạn của Nhà Văn. Ngoài ra, gặp Nguyên Sa vì việc Văn Bút Lưu Vong rồi qua những hoài niệm chung về Linh mục Thanh Lãng, tôi được ông cho biết nhiều về tình hình văn nghệ Miền Nam ngay trước khi VNCH thất thủ. Tôi bổ túc thêm để tồn nghi dù khẩu chứng vô bằng: ngoài phần cung ứng tài chính 100 % cho Nhà Văn, ông được Trần Dạ Từ giúp 50 % trong việc điều hành in ấn phân phối bên cạnh việc quyết định chủ đề. Nguyễn Mai giúp ông liên lạc với giới cầm bút và quyết định những tác giả phụ trách bài của chủ đề đó. Quyết định tối hậu (đăng bài nào, của ai vv.) nếu có vấn đề cần xét đến như kiểm duyệt, có thể đụng chạm người khác vv. thuộc phần ông 100%. Nhà Văn phát hành tổng cộng được 3 số từ tháng 1 đến tháng 3, năm 1975. Nhà thơ Nguyễn Quốc Thái, có bài thơ dài “Nơi hy vọng hẹn đến” (trang 52-55, số 1), cho tôi biết Nhà Văn đã in xong số thứ 4, nhưng tháng Tư, 1975 đã đẩy số cuối vào ngọn lửa phần thư. Điều đáng chú ý ở đây là, một lần nữa, tên Nguyên Sa lại vắng ở một nơi không thể vắng được.

5.1.11 Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Lưu vong (Hải ngoại), Trung Tâm Văn Bút Quốc Tế/PEN International và những ngày vắng Mai Thảo

Một trong những chi tiết của tiểu sử Nhã Ca liên quan đến nhà văn Mai Thảo và Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Lưu vong (Hải ngoại). Bởi thế, vì vấn đề này đã vượt ra khỏi cá nhân Nhã Ca, tôi sẽ bổ túc bằng tin tức về chuyến đi vượt biển tìm tự do của nhà văn Mai Thảo do chính ông thuật lại cùng vài đoạn trong lá thư ngỏ của Trưởng Ủy Ban-Nhà văn bị cầm tù Trần Tam Tiệp (TT VBVN Hải ngoại) gửi Trung Tâm Văn Bút (TTVB) Thụy Điển, quốc gia mà gia đình Nhã Ca tới tỵ nạn sau năm 1988. Tôi muốn làm sáng tỏ vấn đề này vì bức thư thượng dẫn của Trần Tam Tiệp không chỉ nói tới việc giúp đỡ nhà văn Miền Nam bị cầm tù mà còn cho chúng ta thấy–và TTVB Thụy Điển thấy–sự ủng hộ của “nhân dân Thụy Điển” đã góp phần một cách vô tình vào tình trạng khốn cùng cùa dân Miền Nam:

[.…]Tôi không dám cao-vọng viển-vông là yêu-cầu các bạn xét-xử lại ý-kiến của các bạn về Việt-Nam hay bắt các bạn gánh chút trách-nhiệm nào đó về những gì đang xảy ra ở quê-hương chúng tôi…” [Trần Tam Tiệp, sđd]

Đó mới chính là điều quan trọng hơn hết thảy khiến tôi cần góp ý: thứ nhất, chính sách tuyên truyền như mạng nhện của con nhện độc Cộng Sản đã thành công như thế nào. Thứ hai, hoạt động của một hội lập ra bằng nỗ lực của cộng đồng tỵ nạn Cộng Sản, nhất là của Trưởng Ủy Ban Nhà văn-Bị Cầm tù Trần Tam Tiệp, không thể bị phủ nhận bằng loại tin tức thượng dẫn dù vô tình chăng nữa.

§ Nhà văn Mai Thảo và những ngày đầu vượt biển tới Hoa Kỳ

Theo Olga Dror:

[.…]Vào năm 1977, Mai Thảo, một nhân vật văn chương nổi tiếng–một người khác nữa từ Miền Bắc đã di cư vào Nam năm 1954 và là người sáng lập kiêm chủ bút các tạp chí và tạp chí văn học như Sáng Tạo, Văn, và Nghệ Thuật tìm được cách vượt biển bằng thuyền từ Việt Nam. Ông thoát đi được với sự giúp đỡ của Nhã Ca. Khi được yên ổn tại Hoa Kỳ, ông đã tiết lộ về tình cảnh khốn cùng của giới nhà văn và trí thức Miền Nam với Văn Bút Quốc Tế (PEN-Thi sĩ, Tiểu luận gia, Văn sĩ), một hội gồm các nhà cầm bút trên toàn thế giới. Vị phó chủ tịch của Văn Bút Quốc Tế lúc bấy giờ là Thomas von Vegesack kiêm Chủ tịch Trung Tâm Văn Bút Thụy Điển.… [Olga Dror, sđd, trang xxii-Nguyễn Tà Cúc dịch sang Việt ngữ] (29)

Nguyên Sa (lúc đó còn cư ngụ tại Pháp) và Trần Tam Tiệp–2 trong số 3 hội viên sáng lập Trung Tâm Văn Bút Việt Nam Lưu Vong–đã liên lạc với Văn Bút Quốc tế hầu tái lập Trung Tâm này từ 1979. Riêng Trần Tam Tiệp, người duy nhất giữ Ủy Ban Nhà Văn-Bị cầm tù, đảm nhận trách nhiệm này từ 1979 tới 1995. Những tin tức sau đây sẽ nhiều phần chứng minh ngược lại nguồn tin có Mai Thảo can dự vào việc thông báo với VBQT.

Nhà văn Mai Thảo trả lời phỏng vấn của Jane Katz:

[.…]Cộng sản thông báo sẽ bắt giữ bất cứ ai giúp đỡ những nhà văn có tên trong sổ đen (…) Nhưng nhiều, nhiều người lắm liều mạng giúp tôi. Trong vòng hai năm trời, họ giấu tôi qua 8 căn nhà khác nhau.… [Jane Katz, “Phỏng vấn nhà văn Mai Thảo, ngày 10.7, 1980”, Artists in Exile- American Odyssey, trang 78, Nhà xuất bản Stein và Day Publishers, New York, 1983] (30)

Mai Thảo tới trại tỵ nạn Pulau Besar vào ngày 13 tháng Chạp (tháng 12) năm 1977 trên con tàu có 57 người nữa. Lúc này, theo ông, Pulau Besar có khoảng trên 1500 người tỵ nạn. Ông được “tuyên thệ” vào đầu tháng 3. 1978. Mai Thảo sang Hoa Kỳ vào khoảng giữa năm 1978 nhờ được “nhiều, nhiều người lắm liều mạng giúp tôi. Trong vòng hai năm trời, họ giấu tôi qua 8 căn nhà khác nhau.…” Như vậy, chúng ta có thể xác định căn nhà của Nhã Ca là nơi trú ẩn thứ 8 và cuối cùng trước khi ông thoát được đến bến bờ tự do. Sau đó, ông làm Đất Mới với Thanh Nam rồi về California lập tờ Văn. Tôi không có bất cứ chứng tích nào, từ các hồ sơ thuộc TTVBVN Hải ngoại và nhân chứng, cho thấy ông đã liên lạc với VBQT vào thời gian này. Trong mấy cuộc nói chuyện với tôi về Văn Học Miền Nam và Nhóm Sáng Tạo, ông không hề nhắc tới đã liên lạc với VBQT suốt thời gian từ 1978 tới 1995 ngoài những cuộc họp mặt được nghe nói hoạt động của anh em như Nguyên Sa, như Du Tử Lê, như Đỗ Ngọc Yến. Dù không có bằng chứng, rất khó tưởng tượng một người như Mai Thảo vừa vượt biển sang Hoa Kỳ, một thế giới lạ nước lạ cái với một ngôn ngữ xa lạ, lập lại cuộc đời vào lúc một cộng đồng tỵ nạn còn phân tán vì tính cách địa lý lại có thể liên lạc được với một tổ chức quốc tế. Liên lạc bằng cách nào? Với ai trong VBQT?

Ngược lại, Trần Tam Tiệp, qua bức thư ngỏ vào năm 1983 gửi Phái đoàn Văn Bút Thụy Điển, vô hình trung xác nhận chính ông, mà không phải Mai Thảo hay ai khác, đã dàn xếp với TT Văn Bút Thụy Điển “về một nhà văn Việt-Nam hiện còn đang bị giam-cầm”. Đúng thế, với chính TT Văn Bút Thụy Điển.

§ Chủ bút báo Lý Tưởng/Không quân Trung tá Trần Tam Tiệp-Trưởng Ủy Ban Nhà Văn-Bị Cầm tù, TT VBVN Lưu Vong và TT Văn Bút Thụy Điển

Không những Trần Tam Tiệp đề nghị họ giúp đỡ cụ thể bằng cách mời nhà văn đang bị cầm tù đó làm hội viên danh-dự của Văn-bút Thụy-Điển mà, quan trọng hơn, còn nhắc cho họ nhớ họ cần giúp đỡ một cách cụ thể hầu tranh đấu cho tất cả văn nghệ sĩ Miền Nam đang bị cầm tù sau khi Thụy Điển đã góp phần giúp Đảng Cộng Sản thắng trận:

[.…] Trong khung-viên đầy nắng của thánh-đường San Giorgio ở Venice, tôi được hân-hạnh tiếp chuyện với Marianne Eyre. và Inger A. trong phái đoàn Văn-bút Thụy-Điển đi dự Đại-hội Văn-bút Quốc-tế do Văn-bút Ý tổ-chức, và trong câu chuyện trao đổi về việc Văn-bút Thụy-điển chấp-thuận mời một nhà văn Việt-Nam hiện còn đang bị giam-cầm làm hội viên danh-dự của Văn-bút Thụy-Điển, chúng tôi có thảo-luận qua về tình-hình hiện tại ở Việt-Nam. Và từ câu chuyện trao đổi này, tôi có ý-định viết bức thư này gửi đến cho bạn, một người bạn Thụy-Điển tôi chưa từng được quen biết, nhưng từ năm 1970 hồi còn ở Việt-Nam và đến nay 1983, người Việt-Nam chúng tôi vẫn nói nhiều về Thụy-Điển (.…) Thưa các anh chị, trong những năm xảy ra cuộc chiến giữa hai khối Tư-bản và Cộng-sản (…) thì hầu hết nhân-dân Thụy-Điển đã ngả về khối Cộng-sản vì các anh chị đều nghĩ và tin là người Cộng-sản Việt-Nam đang dẫn-đạo một cuộc “thánh-chiến”, một cuộc chiến-đấu để giải-thoát dân-tộc ra khỏi tay Hoa-Kỳ, một thứ thực-dân mới. Không riêng gì dư-luận Thụy-Điển, mà hầu hết dư-luận thế-giới đều nghĩ theo lập-luận trên. Báo-chí, truyền-hình, tuyền-thanh đã bị mua chuộc, đầu-độc để viết những bài, những phóng-sự có lợi cho Cộng-sản; (…) vì thế việc gì bắt buộc xảy ra, đã xảy ra, đó là ngày 30-04-1975, ngày miền Nam Việt-Nam rơi vào tay Cộng-sản (…) Nhưng từ sau 30-04-1975, các bạn đã thấy những gì xảy ra tại Việt-Nam? Hòa-bình đã thật sự trở lại Việt-Nam chưa (…) Thậm chí các nhà trí-thức, văn-nghệ-sĩ dù ở chế-độ trước không làm gì cũng bị bắt giam từ ngày đầu 30-04-1975 cho đến bây giờ vẫn chưa được xét-xử.(…) Sau tám năm thống-nhất, hòa-bình, số người trong quân-đội cũng như hành-chánh, văn-nghệ-sĩ còn bị giam giữ trên 200 ngàn người, như thế ta còn có thể tin vào chính-sách hòa-hợp của nhà cầm quyền CSVN được không? (…) Nhưng bên cạnh đó, có một cuộc trả thù thâm-độc hơn nhiều, không có máu đổ, không có nước mắt rơi, không có bụng đói, cật rét nhưng tàn-khốc vô cùng, đó là cuộc triệt-hạ, tiêu-hủy hết tất cả công-trình văn-hóa từ khi lập quốc đến nay ở các thư-viện, nhà bảo-tàng ở miền Nam (.…) Tôi không dám cao-vọng viển-vông là yêu-cầu các bạn xét-xử lại ý-kiến của các bạn về Việt-Nam hay bắt các bạn gánh chút trách-nhiệm nào đó về những gì đang xảy ra ở quê-hương chúng tôi, nhưng xin được viết lại nơi đây lời của một nữ-văn-sĩ đã viết cho Văn-bút Thụy-Điển như sau: ‘Thụy-Điển từ trước đến nay vẫn được chúng tôi coi như Quê-hương của Hòa-bình Nhân-loại, ngọn đuốc Tự-do cho Thế-giới, xin hãy giúp dân-tộc chúng tôi nhìn lại được ánh sáng của Tự-do.’ Riêng tôi, tôi chỉ xin được làm quen cùng các bạn và xin được cùng các bạn tiếp-tục chiến-đấu cho một lý-tưởng chung: Tự-do và Hòa-bình cho tất cả mọi người- Kính chào các bạn.” [Trần Tam Tiệp, Thư Gửi Người Bạn Thụy-điển, Đã dịch ra Anh Ngữ, 1983, Venice, Italie ]

Olga Dror và độc giả có thể đọc nguyên bản lá Thư Gửi Người Bạn Thụy-điển ngay trên Việt Báo Kinh Tế với lời giới thiệu thân thế của Trần Tam Tiệp, bút hiệu Đạo Cù, từ trần tại Paris ngày 23, tháng Chạp, 2009:

Trần Tam Tiệp, Cựu Không Quân VNCH, nhà văn, nguyên đồng sáng lập Văn Bút Việt Nam Hải Ngoại thuộc Văn Bút Quốc Tế; Thành viên The International PEN Writer in Prison (Uỷ Ban Bảo Vệ Nhà Văn Bị Cầm Tù thuộc Văn Bút Quốc Tế. Để tưởng niệm nhà văn vừa từ trần tại Paris, trân trọng mời đọc lại một bài viết của ông. Bản anh (sic) ngữ của bài này đã được phổ biến ở Thụy Điển.…” [Trần Tam Tiệp, “Thư Gửi Người Bạn Thụy-điển”. Đăng ngày 9.1. 2010- http://vietbao.com/a115529/thu-gui-nguoi-ban-thuy-dien ]

Cũng theo Olga Dror, nhà thơ Trần Dạ Từ được thả vào năm 1988 và gia đình Trần Dạ Từ-Nhã Ca được nhập cư vào Thụy Điển sau đó (sđd, trang xxiii). Trước đó, Trần Tam Tiệp gặp phái đoàn TT VB Thụy Điển và viết lá thư ngỏ thượng dẫn vào năm 1983. Như thế, có sự tình cờ nào giữa lá thư ngỏ của Trần Tam Tiệp (1983), thời gian Trần Dạ Từ được thả (1988) và Thụy Điển, một nơi mà Nhã Ca-Trần Dạ Từ sẽ định cư sau năm 1988 hay không? Nhất là khi có lẽ Trần Dạ Từ và Nhã Ca là 2 nhà văn Miền Nam hiếm hoi định cư tại Thụy Điển sau 1975? Danh tính “nhà văn Việt Nam” đó là ai?

Chúng ta sẽ không bao giờ biết được, nhưng qua những nghi vấn nêu trên, sẽ rất khó cho bất cứ ai muốn nối kết Mai Thảo, một người mới định cư tại Hoa Kỳ trong thời gian đó, mà không phải Trưởng Ủy Ban Trần Tam Tiệp, vào việc Văn Bút và TT Văn Bút Thụy Điển, trừ phi có văn bản xác nhận.

5.1.12 Nhà văn Dương Nghiễm Mậu không có mặt vào Tết Mậu Thân tại Huế

Theo Olga Dror, nhà văn Dương Nghiễm Mậu không những có mặt vào đêm 30 Tết mà còn có mặt vài ngày tại Huế trong Tết Mậu Thân. Tôi đính kèm luôn phần nguyên văn Anh ngữ để bạn đọc tiện theo dõi:

[.…] Dương Nghiễm Mậu, một nhà văn Việt Nam nổi tiếng, di cư vào Nam năm 1954 như nhiều nhà văn Miền Bắc khác, đã sống buổi đầu tại Huế. Năm 1967, ông tòng quân vào Quân Lực VNCH và trở thành phóng viên chiến trường. Ông đã có mặt tại Huế vào đêm trước cuộc tấn công Tết Mậu Thân cùng nhiều ngày đầu trong giai đoạn bị tấn công; đoạn ông đã thăm thành phố này hai lần trong thời hậu-tấn công của năm 1968/ Dương Nghiễm Mậu, a famous Vietnamese writer, like many other writers a northerner who moved in 1954 to South Vietnam, lived in Hue initially. In 1967 he joined the ARVN and became a war correspondent. He was in Hue on the eve of the Tết Offensive and during its first several days, and then twice he visited the city in the post-offensive period in 1968.… [Olga Dror, sđd, trang xxix-Nguyễn Tà Cúc dịch sang Việt ngữ]

Bản Việt ngữ của Huỳnh Kim Quang cũng xác định Olga Dror cho rằng Dương Nghiễm Mậu có mặt tại Huế trong Tết Mậu Thân:

[.…] Dương Nghiễm Mậu, nhà văn Việt Nam nổi tiếng, như nhiều nhà văn khác từ Bắc di cư vào Nam năm 1954, ban đầu sống ở Huế. Năm 1967 ông ấy gia nhập Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và trở thành phóng viên chiến trường. Ông có mặt tại Huế vào đêm trước Trận Tấn Công Tết và trong thời gian nhiều ngày đầu, và hai lần ông viếng thăm thành phố thời gian sau trận tấn công năm 1968…” [Huỳnh Kim Quang, 7/2/2015 https://vietbao.com/a233380/hoc-gia-dich-gia-olgar-dror-viet-ve-nha-ca-giai-khan-so-cho-hue-ky-4 ]

Theo những đoạn trích dẫn sau đây, Dương Nghiễm Mậu không hề có mặt tại Huế vì đã rời đi ngày 30 Tết (tức là ngày 29. tháng 1. 1968). Ông giải thích lý do phải trở về Sài Gòn vào ngày 30 tết:

NGHĨ VỀ HUẾ

NĂM GIỜ SÁNG NGÀY BA MƯƠI TẾT tôi thức dậy trong thành phố Huế, trời lạnh buốt, sương muối đọng trên những lá cây rơi xuống mặt, xuống cổ buốt như những mũi kim nhọn chích vào da thịt. Những người bạn mới thân và những người bạn cũ đã đến, chúng tôi hẹn nhau đi ăn sáng trước khi tôi trở về Sài Gòn sau một tuần lễ ở lại cố đô, người bạn hơn tôi hai tuổi vừa ở trong quân ngũ bốn năm ra nói với tôi: đã thay đổi ý kiến chưa. Tôi cười nói chưa, tôi đã nói tôi cũng muốn ở lại, câu chuyện còn dài lắm, nhưng tôi nghĩ có những điều mình không phải nói với nhau mà đã hiểu rồi, tôi trở về vì ở trong đó còn cha già và những người thân yêu, tôi vẫn không ngừng cố gắng để làm những gì tôi có thể làm được dù, đó là một việc nhỏ nhưng tôi không nghĩ việc có mặt của người con cả trong một gia đình trong đêm giao thừa là một việc nhỏ [.…] Khi tôi viết những dòng này là ngày mồng bốn Tết, buổi tối trong căn nhà im lặng của những con đường, khu phố chung quanh. Cơn choáng váng của biến cố còn làm tôi vật vờ. Những lo âu, uất ức như còn ứ nghẹn trong lồng ngực. Đêm giao thừa cùng với tiếng pháo nổ thì cũng là tiếng súng của những người cộng sản nổ vào bảy thị trấn miền Trung, trong đó có Huế, chưa trọn một ngày tôi dời khỏi, lo âu về những người thân ở lại đó còn thắc thỏm trong lòng, khuya đêm mồng một tết, những tiếng nổ từ xa.… [Dương Nghiễm Mậu, Địa ngục có thật-Bút ký, trang 7-8, 11. Văn Xã xuất bản, 1969 *Những chữ viết hoa trong sách là của tác giả]

Ông trở lại Huế lần thứ nhất vào ngày 13, tháng 3 và tái xác định đã rời Huế trước đó vào ngày 29 tháng 1:

[.…] Huế 13-3. Rời Huế ngày 29-1. Hơn một tháng sau gặp lại. Chiếc C-130 bỏ tôi xuống phi trường. Những người lạ. Không còn những người ngồi bên quầy hàng. Không còn có những chiếc nem xanh, những chiếc tré treo trên kệ, không còn những chai la-de. Chỉ còn những người lạ.… [Dương Nghiễm Mậu, sđd, trang 41]

Dương Nghiễm Mậu xác nhận với tôi bằng email qua 1 nhà thơ ở Sài gòn, rằng ông không hề có mặt tại Huế vào những ngày Tết Mậu Thân. Ông cũng tái xác nhận đã diễn đạt y như vậy trong Địa ngục có thật.

5.1.13 Tổng kết về Olga Dror và Mourning Headband for Hue

§ Về Nhã Ca và Văn Học Miền Nam

Như vậy, trái với tin tức và nhận xét được cung cấp trong Mourning Headband for Hue,

Thứ nhất, Nhã Ca:

-Không hề thành lập hoặc can dự tới việc chủ trương điều hành của bất cứ tờ báo nào dù Nhà Văn hay Ngàn Khơi.

-Nhã Ca chỉ góp bài cho Hiện Đại, Văn và các nhật báo tại Sài gòn,

-Bút hiệu “Nhã Ca” không phải là bút hiệu đầu tiên hay duy nhất,

Nhã Ca Mới đoạt giải Thơ đồng hạng với bút hiệu Trần Thy Nhã Ca in ngay trong tác phẩm,

-Không hề dính líu tới Nhóm Sáng Tạo,

-Không hề dính líu tới Mai Thảo-nhà văn; nhưng trái lại, có mối liên lạc thân hữu và nghề nghiệp từ khi khởi đầu vào Văn Học Miền Nam với nhà thơ Nguyên Sa.

-Không hề là người viết (hoàn toàn) kịch bản hay đối thoại cho phim Đất Khổ và không phải là người viết truyện phim Đất Khổ.

Thứ hai, nhà văn Dương Nghiễm Mậu không hề có mặt tại Huế trong cuộc tấn công Tết Mậu Thân của Cộng Sản.

Thứ ba, còn thêm mấy điều cần kiểm chứng:

-Nhã Ca có thật bị Việt Cộng hăm dọa hay không,

-Tác phẩm nào của Nhã Ca được in tới 100.000 bản,

-Mối liên lạc giữa Trung Tâm VBQT và Mai Thảo.

Nếu căn cứ trên hơn mươi vấn đề thượng dẫn cùng nhận xét, phát biểu hay phản bác của nhà văn Mai Thảo, nhà văn Nhật Tiến, nhà văn Võ Phiến, kịch tác gia Hà Thúc Như Hỷ và tài liệu dẫn chứng, vị trí và ảnh hưởng của Nhã Ca tại Văn Học Miền Nam 1959-1975 chắc chắn sẽ không giống như chân dung mà Olga Dror đã vẽ ra.

Thứ tư, Olga Dror mâu thuẫn khi quả quyết tới hai lần, rằng Nhã Ca không hề viết Nguyễn Đắc Xuân đã giết Trần Mậu Tý (trong GKSCH), nhưng bản “Tựa nhỏ: Viết để chịu tội” của Nhã Ca và bản dịch của Olga Dror chứng tỏ hoàn toàn ngược lại. Để cho rõ ràng, tôi trích dẫn trước phần Olga Dror nằng nặc cho rằng Nhã Ca không hề nói Nguyễn Đắc Xuân đã giết Trần Mậu Tý:

[.…] In fact, Nhã Ca does not say in Mourning Headband for Hue that Nguyễn Đắc Xuân actually killed Trần Mậu Tý. When she refers to him in her “Small Preface” and later in chapter 7, she describes a scene where Nguyễn Đắc Xuân cruelly tortured Trần Mậu Tý by holding him on the verge of death. She does not say that he killed Trần Mậu Tý.… (Olga Dror, sđd, trang li)/ Sự thật, Nhã Ca không nói trong Giải Khăn Sô Cho Huế rằng Nguyễn Đắc Xuân đã giết Trần Mậu Tý. Khi bà đề cập tới ông trong “Lời Tựa Nhỏ” của bà và sau đó trong chương 7, bà mô tả cảnh tượng nơi mà Nguyễn Đắc Xuân tra tấn tàn bạo Trần Mậu Tý bằng việc giam giữ ông ấy bên bờ vực cái chết. Bà không hề viết rằng Đắc giết Trần Mậu Tý.…” (Huỳnh Kim Quang, bản dịch Việt ngữ –  https://vietbao.com/a233731/hoc-gia-dich-gia-olgar-dror-viet-ve-nha-ca-giai-khan-so-cho-hue-ky-10)

clip_image002[18]

Đúng thế, nhưng chỉ đúng một nửa. Nhã Ca không viết Nguyễn Đắc Xuân đã giết Trần Mậu Tý trong Chương 7- “Chuyện từ Thành Nội” (trang 364-368), nhưng quả Nhã Ca có kết tội Nguyễn Đắc Xuân đã giết Trần Mậu Tý trong “Tựa nhỏ: viết để chịu tội”:

[.…] Chính trong thế hệ chúng ta đây, đã có Đắc, một sinh viên trẻ trung, hăng hái. Thời trước Đắc làm thơ, Đắc tranh đấu, rồi bỏ ra khu. Để rồi trở lại Huế lập những phiên tòa nhân dân, kêu án tử hình hàng loạt người, rồi đích tay đào một cái hố, bắt một bạn học cũ có xích mích từ trước ra đứng bên hố, để xử tử. Cậu bạn của Đắc, tên Mậu Tý, dơ cái băng đỏ dấu hiệu giải phóng quân lên cao, lạy van Đắc: – Em lạy anh. Bây giờ em theo các anh rồi mà. Em có mang băng đỏ rồi mà. Cách mạng muôn năm .…Hồ chủ tịch muôn năm. Nhưng mặc Mậu Tý năn nỉ, hoan hô, Đắc vẫn nhất định nổ súng vào người bạn nhỏ .…” [Nhã Ca, “Tựa nhỏ: viết để chịu tội”, Giải khăn sô cho Huế, Bản Thương Yêu 1969, Sài gòn, trang 10-11]

“Nổ súng vào người bạn nhỏ”? Nghĩa là giết Trần Mậu Tý? Đúng thế vì chính Olga Dror đã dịch mấy câu sát nhân trong Tựa nhỏ như sau:

-[.…] But despite Mậu Tý’s pleas and “long live” cheers, Đắc still decided to pull the trigger on his friend/Nhưng mặc cho Mậu Tý van nài và “hoan hô”, Đắc vẫn quyết định bóp cò/nổ súng vào bạn hắn
.…[Olga Dror, “Small Preface: Writing to Take Responsibility”, trang 9-Nhã Ca, “Tựa nhỏ: Viết để chịu tội”, sđd, trang 10-11 -Nguyễn Tà Cúc dịch sang Việt ngữ]

Tới đây, tôi đã có thể kết luận Olga Dror quả có nhiều sai lầm khiến sai lệch tiểu sử văn học không riêng của Nhã Ca. Tuy vậy, tôi tin rằng, trong tương lai, khi càng nhiều người nghiên cứu và/hay giữ được khoảng cách cần thiết giữa chính họ và chủ đề nghiên cứu, chân dung Văn Học Miền Nam sẽ càng lúc càng tỏ rạng hơn.

§ Bản dịch Mourning Headband for Hue và nguyên tác Giải khăn sô cho Huế

Tôi không thể tránh khỏi có vài lời nhận xét về bản dịch Mourning Headband for Hue dù không hề chú trọng đến phương diện đó trong bài này và vì không đối chiếu hoàn toàn nguyên tác với bản dịch, nhưng theo tôi, nguyên bản có những lỗi hoặc trầm trọng hoặc căn bản như những thí dụ sau đây trong bản dịch 2014:

-Làm răng chạy với nhau được, mạnh ai nấy chạy …. Nhã Ca (NC), trang 27.

-Why would we run together? The one who’s stronger is the one to run .… Olga Dror (OD), trang 18.

* Chữ mạnh ở đây không có nghĩa là “mạnh hơn” mà là mỗi người tự mình kiếm đường thoát thân.

Ông nhà tui đó chị .… NC, trang 62.

– Elder sister, that man is from my family.… OD, trang 38.

*Nhà=vợ hay chồng: Một chữ căn bản nhưng cũng rất khó cho những người tập dịch tiếng Việt.

– “Tụi bây không đi, tao đi một mình. Tao đi đánh lại cái đơn.” NC, trang 221.

– “If you, young brats, are not going, I’m going alone. I go to fight all by myself.” OD, trang 130.

* Ngoài chữ đánh bị sai nghĩa, Olga Dror còn thiếu chữ lại/revised và thừa all by myself

– Vậy là chúng tôi sửa soạn lên An Cựu. Má tôi dặn dò cậu Giáo nếu ở đây đại bác dữ quá thì lên trên đó …. NC, trang 303.

– So, we get ready to go up to An Cựu. My mother admonished us to go up by Giáo Bridge if the artillery here is too fierce …. OD, trang 177.

* Lại một lỗi rất căn bản nữa. Cậu Giáo là “Uncle Giáo” không phải một cái cầu tên Giáo.

– “An Cựu về phía ta rồi, đại bác bắn lên miệt Bến Ngự, Từ Đàm.” NC, trang 304.

– “We are now close to An Cựu; the artillery is firing up into the Bến Ngự and Từ Đàm area.” OD, trang 178.

* Chữ “ta” này cũng tương tự như chữ “nhà”, có nghĩa khác hẳn. Ở đây về phía ta có nghĩa là thuộc về phía VNCH kiểm soát, không có nghĩa về vị trí người chạy loạn.

– Vật đập ngay vào mắt tôi là xác một người đàn ông xình to nằm xấp, máu me đã đặc khô lại. Hai tay hắn dang ra như ôm lấy mặt đất. Chúng tôi không nhìn rõ mặt hắn .… NC, trang 378-379.

– What jumps into my eyes is the dead body of a man, handsome and large, lying in a prone position, blood already dried up. His two arms are stretched as though he embraces the earth. We don’t clearly see his face .… OD, trang 221.

* Xác chết không chôn kịp thường xình to/hugely bloated. Vả lại, xác chết này nằm sấp thì không thể thấy được mặt, nên càng không thể dịch là đẹp trai/handsome được.

Bản Mourning Headband for Hue tái bản vào năm 2016 đã được Olga Dror hoàn chỉnh một số lỗi, nhưng nguyên bản 2014 và tái bản 2016 vẫn còn (ít nhất?) 2 lỗi sau đây:

Đứa em trai tôi trườn theo làn ánh sáng mỏng đó, nó ngồi ập vào má tôi .… NC, trang 11.

My younger cousin Thái crawls toward this wavering light, then sitting up bumps into my cheek.… OD, trang 16.

* Em traiyounger brother, không phải younger cousin.

– Tôi tính căn nhà thờ của chúng tôi nằm đơn lẻ, chịu đựng bốn mặt đang đánh nhau. Quốc-lộ và bờ ruộng ở ngay trước mặt, đường rầy xe lửa ở đằng sau lưng. Hai phía hai bên, một xéo với đồn Trường bia, một xéo với đồn Vận tải An- Cựu .… NC, trang 21.

-I reckon that our house, which is also our ancestor-worshipping house, being located in a secluded spot, will survive the surrounding fighting. The National Highway and the edges of fields are directly in front of us; the railway is behind us. Two directions, two enemy sides. One side tramples on Trường Bia post, the other side tramples on An Cựu Transportation Station…OD, trang 14.

* Chịu đựng/to bear/to endure the suffering càng không có nghĩa ngược lại là sẽ sống sót/ will survive. Ngoài ra, bốn mặt chỉ định một tình trạng bị vây khổn ngặt nghèo mà chữ surrounding không diễn tả được bằng. Xéo (hay chéo) trong trường hợp này được dùng để chỉ phương hướng, không có nghĩa dẫm đạp/xéo lên/tramples on.

Tôi bắt buộc phải nhắc đến những điều không to tát như trên vì dù sao Mourning Headband for Hue cũng là một dịch phẩm. Theo kinh nghiệm của chính tôi, không nhà phê bình nào là không cần sự góp ý từ trong hay ngoài giới. Tôi đã được nhận sự chỉ bảo quý giá từ các bậc thức giả, thân hữu và độc giả–rồi không ít lần, ngay chính từ những người tôi đã phê bình– khiến phải xét lại, thậm chí có khi thay đổi hẳn ý kiến trước đó. Với tôi, khi cho công bố những nghiên cứu của mình, là cũng trên đường tình nguyện hoàn chỉnh và sửa lỗi–nếu có–một cách chân thành. Đôi khi, nhờ chính sự chân thành ấy, vấn đề lại được mở rộng với thêm tài liệu và nhân chứng.

Trong tinh thần ấy, tôi sẽ góp phần vào cuộc nghiên cứu về cuộc thảm sát tại Huế bằng cách trích dẫn Địa ngục có thật của nhà văn Dương Nghiễm Mậu. Khi nhắc tới tác phẩm này, Olga Dror trích các đoạn về phản ứng của người dân Huế trước và sau Tết Mậu Thân. Phần tôi, tôi muốn trích dẫn Địa ngục có thật như một tác phẩm nhằm so sánh với Giải khăn sô cho Huế hầu cung cấp cho độc giả một quan điểm khác cũng từ một nhân chứng. Tuy Dương Nghiễm Mậu không có mặt tại Huế khi xẩy ra cuộc tấn công Tết Mậu Thân, nhưng ông từng sống đủ (ông cư ngụ tại Huế hơn một năm khi di cư từ Miền Bắc vào) và nhiều lần trở lại Huế sau Tết Mậu Thân với dư giả bạn bè thân cận người Huế. Ông không có ảo tưởng gì về trách nhiệm của người Cộng Sản trong cuộc tấn công bất ngờ này trên khắp Miền Nam, như độc giả sẽ thấy qua những đoạn trích dẫn kèm đây.

(Còn tiếp)

bài đã đăng của Nguyễn Tà Cúc

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)