Trang chính » Bàn Tròn: Chiến Tranh Việt nam, Biên Khảo, Nghiên Cứu, Nhận Định, Tư Liệu, Văn Học Miền Nam Việt Nam 1954-1975 Email bài này

từ một góc california – gìn giữ tấm dư đồ như nâng niu áo trận (kỳ 7)

clip_image004_thumb.jpg

Vào Tết Mậu Thân 1968, không chỉ người dân Huế, nhiều người ngoại quốc trong đó có 3 bác sĩ/giáo sư người Đức giảng dậy tại Đại Học Huế cũng bị hạ sát cùng với thân nhân: giáo sư và bà Horst Günther Krainick, giáo sư Raimund Discher và giáo sư Alois Alterkoster. Các cựu Sinh viên Y Khoa Huế đã tri ân bằng cách sưu tập một số hình ảnh và tin tức liên quan đến giây phút cuối của họ. Những hình ảnh này được đăng lại trên Trang Mạng “Nam Ròm”, [https://namrom64.blogspot.com/2018/02/hue-1968-sinh-vien-ai-hoc-hue-tien-ua.html]

clip_image002

“Sinh viên ĐẠI -HỌC HUẾ vô cùng thương tiếc các cố giáo sư”

Xương cốt người chết đã cát bụi trở về với cát bụi, nhưng bằng chứng, nhân chứng và hồi ký vẫn còn, càng lúc càng nhiều, chữa lành một vết thương không chỉ cho người dân Huế. Quá khứ với nỗ lực chống Cộng Sản của nhà văn và người dân Miền Nam bằng sức chiến đấu, tác phẩm và phát biểu cũng góp phần vào sự chữa lành ấy. Nỗ lực chung đó sẽ được trình bày bằng trường hợp cụ thể của nhà văn Dương Nghiễm Mậu, tác giả Địa ngục có thật về Tết Mậu Thân tại Huế, cùng lúc với nhận xét của vài bạn văn đồng thời. Nhà văn Dương Nghiễm Mậu (1936, Hà Đông-2016, Sài gòn) cùng “thế hệ” với Nhã Ca (1939, Huế) đã không “đứng giữa”. Thái độ của ông rất minh bạch: Cộng Sản chịu trách nhiệm về việc tàn phá thành phố Huế và tàn sát dân Huế:

[.…] Có điều người ta không thể đứng ở giữa được. Người ta không muốn là nạn nhân của tất cả. Người ta chọn để làm nạn nhân của một bên.…

[.…] Một chiếc quan tài bỏ bên bờ cỏ, một ông lão tóc hoa râm đứng ngơ ngác, hỏi về người chết, ông nói thằng cháu, không biết tên, quen gọi là thằng Tư, người ta mới tìm thấy đang chờ mang xác về .… Ngồi trong quán nước tôi hỏi anh Đ: tại sao vậy. Anh lắc đầu nhìn tôi … Chúng tôi không thể hiểu được và trước đó chúng tôi cũng không tưởng tượng được .… Có phải đó là lễ vật mà những anh em thù nghịch tặng cho dân chúng nhân dịp kéo cao ngọn cờ máu mạ (sic) lên kỳ đài?

5.2 Dương Nghiễm Mậu-… đừng ai quên bài học trước đây của cha chú mình, tôi không bao giờ tin cộng sản có nhân đạo

5.2.1. Tác giả và tác phẩm: Địa ngục có thật

Với thói quen của một ký giả chiến trường, ông đẩy độc giả vào các tầng địa ngục nơi người sống gặp lại thân nhân hay người không quen trong hình hài rữa nát quyện với linh cảm rờn rợn của một cái chết chờ đợi vờn trong tử khí. Tuy thế, ngoài cảm giác bất lực trước một thảm họa vượt quá sức chịu đựng của một tập thể, Địa ngục có thật sẽ có một chỗ đặc biệt trong Văn Học và Chiến Tranh Miền Nam chính vì ông đã đề cập tới những cuộc đối thoại, hoặc cũng có thể gọi là thảo luận, giữa ông và bạn ông, bên này hay bên kia, trước và sau Mậu Thân. Địa ngục có thật cũng là một cuộc tường trình vắn tắt về thái độ và chọn lựa của một thế hệ gồm nhiều văn nghệ sĩ như chính ông, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và những kẻ đã hay sẽ “nhẩy núi” trong cuộc đấu tranh trước hay sau cuộc tấn công của Cộng Sản.

Nhân đây, tôi muốn cảm ơn nhà phê bình Cao Việt Dũng (Hà Nội), người đã scan cho tôi một bản Địa ngục có thật do Văn Xã xuất bản và 2 quyển tạp chí Văn. Bản thảo cuốn bút ký này được sửa soạn trước đó bằng một loạt “tùy bút”, thí dụ như “Trong khói lửa ở Sài-gòn, nghĩ và viết về Huế” trên tạp chí Văn (Thư Ký Tòa Soạn Trần Phong Giao, số 100-101, ngày 1, tháng 3, 1968) trước khi được xuất bản vào năm 1969. Dương Nghiễm Mậu sử dụng 4 chữ “địa ngục có thật” lần đầu khi kết thúc tùy bút “Đi trên những xác chết” (Văn, Số 104, ngày 15.4.1968) bằng câu “Huế, địa ngục có thật”. Tuy chú thích vào cuối bài bằng “Trích Địa ngục quá thật“, nhưng ông sẽ đổi sang Địa ngục có thật khi xuất bản. Dương Nghiễm Mậu cung cấp một bức hình toàn cảnh hơn về Huế, từ cố đô bị tàn phá đến sự hoang mang sợ hãi của dân chúng một cách chi tiết và trung thực, vì ông cố tình trở về sống với Huế nhiều ngày trong 3 lần sau đó. Ông có cơ hội gặp lại một số nhân chứng mà ông nêu tên như nhạc sĩ Trịnh Công Sơn hoặc cho đủ chi tiết để người đọc có thể đoán biết là ai.

Dương Nghiễm Mậu đã chứng kiến nhiều cảnh thương tâm và kinh sợ. Ông cho độc giả biết nguồn tang tóc tàn phá đến từ Cộng sản Việt Nam. Ông nhắc tới phản ứng của người dân Huế khi được đoàn quân VNCH tiến vào giải thoát. Ông không có chút ảo tưởng nào về Cộng Sản như Thành phần Thứ Ba, Đứng Giữa đã có ảo tưởng vào những năm 1970 tiếp đó. Tôi chọn một số đoạn tiêu biểu từ Địa ngục có thật hầu cho thấy, không những về quan điểm chống Cộng cùng nội dung các cuộc đối thoại giữa Dương Nghiễm Mậu với các bạn không phân biệt chính kiến; mà còn cho thấy ông đã đủ lý do để biết tại sao địa ngục lại quá thật với ai là những kẻ có trách nhiệm trong địa ngục ấy:

[.…] Đài phát thanh liên tiếp những nguồn tin không rõ ràng, đêm trôi qua nặng nhọc. Những bản tin trên các đài phát thanh nói về những trận đánh ở Nha-trang, Qui-nhơn, Kon-tum, Đà-nẵng, Huế bị tràn ngập và đang chiến đấu gay go. Tôi nghĩ tới những người bạn mới chia tay nhau hôm ba mươi Tết, người bạn hỏi tôi: chúng ta phải làm gì? Tôi nói không bao giờ chấp nhận cộng sản. Người bạn đưa cho tôi một lời kêu gọi in ronéo với tiếng Việt và tiếng Anh, đó là lời kêu gọi các phe tham chiến kéo dài hưu chiến vô hạn định, tiến tới hòa đàm, dưới đó ký tên những giáo sư khoa bảng, một số có những tiếng tăm nào đó, một số đã từng được ưu đãi và thường tự nhận như những phần tử tiến bộ trong giới giáo sư khoa bảng. Người bạn hỏi: nghĩ sao. Tôi cười nói ai có việc của người đó, tôi lựa chọn sự minh bạch, đừng ai quên bài học trước đây của cha chú mình, tôi không bao giờ tin cộng sản có nhân đạo, họ chỉ có một sự thật, chúng ta có nhiều sự thật, chúng ta yếu trên một phương diện nào đó, yếu vì nắm giữ nhiều sự thật nhưng đó là mối hy vọng để chúng ta thoát ra sống sót và phục hưng .… [Dương Nghiễm Mậu, Địa ngục có thật, trang 16-17]

[.…] Chiều xuống những con đường đã vắng ngắt, người ta rút vào trong nhà đóng kín cửa. Tôi ngồi im nghe hết đài phát thanh này tới đài phát thanh khác. Trận chiến vẫn tiếp diễn nặng tại nhiều nơi như Huế, Đà-lạt, Bến-tre … Bây giờ Huế ra sao trong cơn lửa đạn này. Tôi nghĩ tới những người bạn, đêm nào Sơn hát một bài còn dở dang, Nhân danh ai anh bắn vào người đồng loại … bài hát viết cho một người đã bị bắn vào bụng, người đó là Ngô Vương Toại, trong buổi Sơn hát cho các sinh viên nghe tại Đại- học Văn- khoa Sài- Gòn. Bây giờ Sơn ra sao?.… [Dương Nghiễm Mậu, sđd, trang 19- 20]

[.…] Không còn muốn cho Huế sống với lịch sử của nó sao? Hãy để cho những thị trấn, những làng mạc giữ lại lịch sử của mình, chính lịch sử nó làm nên tinh thần yêu nước. Những danh nhân chẳng bao giờ muốn mình xóa đi những gì mà người dân sống đã quen thuộc với nó… Tôi nghĩ thế. Bây giờ Huế ra sao?.… [Dương Nghiễm Mậu, sđd, trang 22]

[.…] Người ta sẽ không sống được như gỗ đá. Chắc Sơn hiểu điều tôi đã nói : vì sao mình lại viết? Không bao giờ tôi chấp nhận một thái độ hư vô, tôi cố gắng trong phạm vi nào mà tôi có thể cố gắng được, cố gắng từ cái nhỏ nhất, trong công việc, trong đời sống, bởi tôi nghĩ những cái không đáng gì (hay rất thiết thân) đó đang là những mầm mống chính nếu như chúng ta còn muốn thoát ra, gây dựng lại một cái gì, tôi nói với các anh về một phục hưng phẩm cách, một làm lại, mà đầu tiên khởi từ trong mỗi chúng ta. Chỉ có thể bắt đầu từ đó .… [Dương Nghiễm Mậu, sđd, trang 27]

[.…] Nước Việt Nam ta rồi đây phải xây dựng như thế nào? Sơn nhắc tôi ở Huế khi về hãy viết về quê hương ngày mai đó: nhà ở, vườn cây, lối đi, y phục trong một nước Việt tương lai phải như thế nào? một đền thờ Việt-Nam phải ra sao? Có phải chúng ta muốn mang đến một hy vọng trong tình cảnh đen tối hiện tại? có phải chúng ta tự tìm cách an ủi chúng ta? Còn thực tại này thì sao? Đó là điều tôi muốn được hỏi những người anh em. Cho tới khi tôi viết những dòng này vẫn còn những người đang chết, súng vẫn nổ … ” [Dương Nghiễm Mậu, sđd, trang 31]

[.…] K. thân mến, khi tôi viết cho anh những dòng này thì trên tờ lịch ghi ngày mồng mười Tết, chúng ta chia tay vừa đúng 11 ngày, sáng sớm tinh mơ, sương muối lạnh buốt, trời chạng vạng ở Huế chúng ta đã uống những cà phê sữa trong sân ga chia tay nhau, mới đây mà tưởng như đã xa lắm, có lẽ vì chúng ta cũng như mọi người đã phải sống những giờ phút dài nhất trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, bao nhiêu biến cố đã xảy ra, bao nhiêu người đã chết, bao gia đình đã tan nát, bao nhiêu viên đạn đã nổ thay cho những tiếng pháo đầu xuân, và tôi đang cố hình dung, tự hỏi : Huế bây giờ ra sao, các bạn hữu mình ra sao? Những trận chiến đã diễn ra trên đường Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, cầu Trường-tiền, cửa Thượng-tứ, Đông-ba…những nơi mà mấy ngày trước chúng ta đã từng đi dạo, từng ngồi uống cà -phê nói những chuyện nghiêm trọng và nhiều chuyện tầm phào khác?(…) Những gói thuốc nổ đã làm sập cầu Trường-Tiền những nhịp cong trắng soi mình xuống dòng Hương-Giang, làm gục cầu Bạch-hổ trên đó có con đường sắt xuyên Việt? Tôi cố nhớ, cố hình dung xem với trận chiến đang diễn ra đó đã làm khuôn mặt Huế hôm nay như thế nào nhưng quả thật tôi không thể hình dung ra được. Có điều chắc chắn trong vòng mười ngày qua lửa đạn đã trở lại Huế .…

K. còn nhớ không, trong những ngày cuối năm ngắn ngủi, ngồi giữa những bạn bè tôi đã nói với anh tất cả những gì tôi nghĩ một cách thiết tha. Tôi cũng xác nhận với K. rằng: tôi không chấp nhận cộng sản, tôi cũng không có một ảo tưởng gì về nó. Tôi đã phải nói trước như vậy với K. để sau đó chúng ta có thể nói với nhau một cách rõ ràng. Điều này K. cũng xác nhận với tôi. Con người cộng sản cho đến nay đã trở thành một con người lạc hậu, nó không còn là giai đoạn của những Gorki, Lỗ Tấn… của những ngày khởi đầu cách mạng, chúng ta cũng xác nhận kinh nghiệm mà cuộc cách mạng vô sản đã mang đến cho chúng ta. Chúng ta–bằng năng lực và sáng suốt của tuổi trẻ–đã nhìn thấy những khuyết điểm, những tệ trạng ở phần đất và xã hội chúng ta đang sống, chính trong môi trường đó chúng ta tin rằng chúng ta có thể làm được một cái gì. Có thể tôi là một người lạc quan, như K. đã thấy, nhất là khi tôi nói với K.: những người quốc gia ở miền Nam, chúng ta là hy vọng của thế giới này, chúng ta đang phải chịu những thử thách, hy sinh lớn lao nhất, chúng ta có kinh nghiệm của cả hai con đường hư hỏng, chúng ta, mỗi người đều cầm nắm nhiều sự thật trong tay, chính điều đó khiến chúng ta yếu, nhưng cũng chính điều đó khiến chúng ta giữ được chúng ta không lao xuống vực thẳm … những anh em miền Bắc của chúng ta cùng những người cộng sản khác tại miền Nam chỉ có trong tay một sự thật, chỉ nhìn thấy một con đường, bởi vậy lúc này họ khỏe hơn chúng ta, nhưng chính con đường độc nhất đó, sự thật độc nhất đó đang đưa họ tới vực thẳm vì đó là sức khỏe của cuồng tín …Tôi thành thật tin như vậy. Anh đã đọc cho tôi nghe những bài thơ phản chiến, tôi và K. đã cùng đọc những lời kêu gọi của những giáo sư khoa bảng về việc kéo dài hưu chiến vô hạn định … Chúng ta đã nói về cảnh huống dân tộc ta trong cuộc chiến tàn khốc này. Tôi cũng đã nói với K. hãy giữ những ý kiến riêng của mình nếu tin đó là đúng, nhưng không được ngụy biện, không bao giờ đòi người khác phải chấp nhận ý kiến của mình … Những điều đó liên hệ với nhau nói lên một sự thật : chấp nhận cuộc chiến, chiến đấu và phấn đấu trong bao dung, với con tim và khối óc của một người .… [Dương Nghiễm Mậu, sđd, trang 31-35]

[.…] Tan hoang hết, phân tán hết, những người đi, những người ở lại, những lựa chọn. Có điều người ta không thể đứng ở giữa được. Người ta không muốn là nạn nhân của tất cả. Người ta chọn để làm nạn nhân của một bên .…[Dương Nghiễm Mậu, sđd, trang 53-54]

[.…]17B Đại úy V. nói tới cuộc hành quân từ Đà nẵng ra. Biệt động được đưa từ trong ra thẳng Phú bài với một mệnh lệnh, bằng bất cứ giá nào phải vào Gia hội. Không có phương tiện chúng tôi chạy bộ xuống, lúc đó mình đã giữ được bên này, nhưng qua sông đâu phải dễ, khi qua bằng thuyền máy chúng tôi bị đẩy ra, không được, chúng tôi tiến quân xuống Vĩ-dạ, theo đường sông đổ quân xuống Bao-vinh, rồi từ đó mới tiến lên Bãi-dâu .… Anh hiểu, cả một sự khó khăn để có lương thực và đạn, bọn chúng cố thủ mà … kinh nhất là khi chúng tôi tấn công vào bộ chỉ huy của chúng ở chùa Áo Vàng, anh hiểu. Trung úy Đ. anh ta đã lăn mình vào với những lựu đạn trong khi chúng tôi gần như không thể tiến được một bước … Trời ơi, anh không thể tưởng tượng được chúng tôi đã phấn khởi như thế nào khi gặp lại dân chúng. Họ nói sao chúng tôi tới quá muộn, họ còn gì là dành cho chúng tôi. Phải, chính chúng tôi đã tới nơi họ chôn người tập thể đó, rồi nhờ người ta chỉ chúng tôi khui ra những hầm vũ khí, có một người đã giúp chúng tôi thật nhiều, chính anh ta bị bắt, bị mang ra xử tử nhưng trong khi đào hố thì anh ta cùng một người khác liều tháo chạy, bị bắn nhưng anh ta thoát, khi xong rồi chúng tôi muốn thưởng công cho anh nhưng anh không chịu, những người như vậy không phải là ít … Khi chúng tôi tiến được vào thì đêm bọn nó tìm cách qua sông … Một anh lính nói khi tiến vào đường phố, mọi người chợt nhận thấy một người đàn ông khoảng bốn mươi, mặc chiếc áo vét cũ, anh ta giơ hai tay, nhảy lên kêu: hớ, hớ như một thằng điên, chúng tôi không hiểu sao, anh ta cứ chạy theo chúng tôi mà kêu như thế, mới đầu chúng tôi sợ đó là kẻ báo hiệu cho bọn nó chạy, tôi tức quá la lên: hớ gì, bắn chết cha bây giờ … mỗi lần nghe thì người kia lại lẩn đi, nhưng rồi anh ta lại tiếp tục làm vậy, sau mới biết anh ta sướng quá, anh ta trốn trên trần nhà suốt trong thời gian, đến nỗi nói không được, khi anh thấy bọn tôi đến thì mừng vậy thôi .… [Dương Nghiễm Mậu, sđd, trang 62-64]

[.…]18 Quán nước nơi đầu cầu. Hôm nào tôi đứng trên cầu nhìn xuống chờ đợi bánh pháo dài sắp đốt. Những chai la-de. Những câu chuyện ngắt quãng. Chúng tôi ngồi đó nhìn xuống dòng sông. Những chiếc thuyền máy từ ngoài chạy vào, tiếng máy khô khan, những chiếc thuyền vào mang theo những chiếc quan tài sơn màu tro buồn bã. Bây giờ chết có hòm … Hôm nào những xác người được lấp vội xuống. Những xác người nào được vứt xuống dòng nước kia? những xác nào còn lập lờ dưới đó. Rượu chưa đủ. Tôi nhớ lại câu chuyện năm nào. Rượu chẳng bao giờ đủ, vâng, chẳng bao giờ …Và tin chiến thắng trên trang đầu những tờ báo ngoài Hà-nội … Chua chát biết bao nhiêu … Bây giờ chúng tôi chỉ có một cổng thành để ra vào. Chúng tôi chỉ có những con đường mù bụi đỏ để ngang qua. Và đó, cái chết đồng đều cho anh lính C.S và anh lính quốc gia cùng người dân vô tội … Bác Hồ, Bác còn lời chúc Tết nào hay hơn không?.… [Dương Nghiễm Mậu, sđd, trang 65-66]

[.…] Con đường trở về, những ý nghĩ quay cuồng trong óc, nỗi ngao ngán khiến chúng tôi thấy có gì để nói với nhau. Tiếng la khóc bên dọc đường, người đàn bà quần trắng áo ngắn đen lăn lộn trong căn nhà sụp đổ, bên chiếc áo quan đang được chét mạch, giữa sáu đứa con nhỏ : ới anh ơi là anh ơi, mà anh đi học tập 15 ngày , tôi là lớn cho đi học tập, tôi đã lăn khóc, kêu xin mà tôi quên lạy, cho đi học tập 15 ngày rồi về mà nuôi con … ới anh ơi là anh ơi … Chiếc xe phóng nhanh trên con đường vắng đầy đe dọa, những căn nhà: một xác chết, hai xác, ba xác chết, nào cha con, cháu ..Mùi khói hương và tử khí … Một chiếc quan tài bỏ bên bờ cỏ, một ông lão tóc hoa râm đứng ngơ ngác, hỏi về người chết, ông nói thằng cháu, không biết tên, quen gọi là thằng Tư, người ta mới tìm thấy đang chờ mang xác về … Ngồi trong quán nước tôi hỏi anh Đ: tại sao vậy. Anh lắc đầu nhìn tôi … Chúng tôi không thể hiểu được và trước đó chúng tôi cũng không tưởng tượng được … Có phải đó là lễ vật mà những anh em thù nghịch tặng cho dân chúng nhân dịp kéo cao ngọn cờ máu mạ (sic) lên kỳ đài? Có phải đó là chiến thắng .… Nếu cụ Hồ Chí Minh có mặt ở đây, nếu những người khác có mặt ở đây …. [Dương Nghiễm Mậu, sđd, trang 83-84]

Lời lừa dối “cho đi học tập 15 ngày rồi về“, 1968, cũng áp dụng cho quân, cán, chính Miền Nam sau tháng 4. 1975. Dương Nghiễm Mậu còn tiếp tục viết quá thật nữa. Nửa năm sau Tết Mậu Thân, bài “Sự thật, cuộc chiến, ngày mai và nhà văn” của ông xuất hiện trên Khởi Hành số 4, tháng 10, 1968. Lần này ông đối thoại với độc giả và thân hữu về một cuộc chiến có thật sau khi đã chứng kiến một địa ngục quá thật.

5.2.2 Sự thật, cuộc chiến, ngày mai và nhà văn — “… bằng xương máu và đau khổ, nhân dân miền Nam đã sáng suốt trong lựa chọn. Họ không bao giờ chấp nhận Cộng sản…”- Dương Nghiễm Mậu, tháng 9.1968

Ngoài bút ký Địa ngục có thực, Dương Nghiễm Mậu trực tiếp tham dự vào xã hội bằng những bài xã thuyết có thể xếp vào loại tranh luận, bầy tỏ một tinh thần lạc quan tuy có kèm chút do dự. Theo ông, nhà văn cần tham dự; hơn thế nữa, hợp tác hầu cùng nhau xây dựng và chiến đấu vì đã có cơ hội hiểu rõ địch thủ, một địch thủ dám tàn sát như tại Huế, Mậu Thân. Nghĩa là đừng giao hết trách nhiệm vào tay chính phủ, vào nhà nước. Cuộc đảo chính Tổng Thống Ngô Đình Diệm ném Miền Nam vào tương lai chông chênh rồi bị đe dọa thêm với cuộc tấn công Tết Mậu Thân sau đó. Nhưng, công nhận rồi vượt qua được sự chông chênh ấy cũng đồng thời bầy tỏ niềm hy vọng cho một tương lai vững vàng hơn. Bảy tháng sau những lần nôn nóng kiếm cách trở lại Huế đoạn chứng kiến cầu Trường Tiền bị gẫy nhịp, đã ngồi trên “chiếc xe phóng nhanh trên con đường vắng đầy đe dọa”, ông tha thiết xác định trách nhiệm của một tập thể “bị đẩy xuống thuyền” trong đó có cả nhà văn, nhất là trong thời chiến. Bài này đăng trên Khởi Hành số 4, thời đầu tiên, thời Tô Kiều Ngân làm công việc của một Thư Ký Tòa Soạn.

clip_image004

Khởi Hành – Nguyệt san của Hội Văn Nghệ Sĩ Quân Đội, số 4, tháng 10.1968 (22cmx28cm), 88 trang
Chủ nhiệm: Đại tá Anh Việt Trần Văn Trọng-KBC 4736
Bài vở: Đại úy Tô Kiều Ngân- KBC 3168
Tài liệu của Lưu Đức, Viên Linh và Nguyễn Tà Cúc

[.…] Bằng một cách nói khác, nhà văn Camus thì cho rằng nhà văn cũng như những người khác, mọi người đã “bị đẩy xuống thuyền”. Nhà văn có những bổn phận của hắn trong xã hội. Hắn cùng mọi người chia xẻ, gánh chịu những bất công uất ức, hận thù, đau khổ, ước mơ và tin tưởng. Bây giờ nhà văn không ở đâu khác, không ở trong căn phòng hay ngôi nhà của riêng hắn, hắn càng không bao giờ ở trong một tháp ngà nào, nhà văn, như mọi người, hắn ở trong, ở giữa đời sống. Đời sống nhà văn gắn liền với đời sống mọi người. Tình trạng xã hội, sự nghèo đói, bất công, chém giết, đau khổ hay hạnh phúc, thái bình tươi đẹp, nhà văn cùng những người khác phải gánh vác lấy, và ở giữa mọi người ấy nhà văn có trách nhiệm lớn hơn, trách nhiệm lớn hơn vì nhà văn là những người ý thức hơn, nhận biết hơn. Trong tình cảnh đó của xã hội, của nhà văn: văn chương trở thành hành động. Không còn văn chương của tu sỹ tham thiền nhập định trong những tháp ngà kín đáo, trong hoàn cảnh hiện nay, thái độ đó, thái độ quên mình, từ chối đời sống, coi đời sống là bỏ đi, là vô vọng không thể làm khác, là một thái độ không thể chấp nhận được nếu không muốn nói đó là một thái độ hèn nhát, vô tránh nhiệm với người khác và tự sát đối với mình. Không còn văn chương thỏa hiệp, ngồi trong phòng với cánh cửa hé mở, che dấu bớt những xấu xa, giữ chặt lấy hai bàn tay sạch sẽ, bởi vì đó chỉ là một hành động nửa vời, một toa rập, một khôn ngoan … văn chương trong tình cảnh này phải là văn chương hành động, văn chương chiến sỹ. Nhà văn là tu sỹ chiến sỹ trong đời sống: bằng đời sống và tác phẩm.

(.…) Vậy thì phép lạ nào đã khiến cho miền Nam này không mất vào tay những người Cộng sản hay những thế lực khác? Nhìn lại, nghĩ lại, tôi thấy rõ rằng mình đã có những ý nghĩ bi quan, những lúc nản lòng mất tin tưởng là bởi mình đã thất vọng vào những người lãnh đạo. Nhưng sự còn mất của miền Nam không hề lệ thuộc, không do nơi những người lãnh đạo, sự mất đi, sự sụp đổ của những nhà lãnh đạo trước đây không mảy may liên hệ gì tới sự mất còn của miền Nam. Sự tồn tại, sự sống còn của miền Nam tùy thuộc nơi những cố gắng cá nhân trong mọi lãnh vực, sức mạnh chống giữ và bảo vệ miền Nam ở nơi những cán bộ hạ tầng, những người tự mình chịu trách nhiệm với mình. Sức mạnh đó bàng bạc tưởng như không có nhưng thực sự đã vô hình liên hợp với nhau tạo thành một sức mạnh nền tảng, không nói ra nhưng những cá nhân trong hàng ngủ (sic) chiến đấu đã cùng ý thức tới. Tôi nghĩ, một trách nhiệm, cùng chia xẻ một hy vọng, một ước mơ về ngày mai. Nghĩ như thế mà không nói tới ý thức tiến bộ của nhân dân miền Nam thì quả là một thiếu sót: bằng xương máu và đau khổ, nhân dân miền Nam đã sáng suốt trong lựa chọn. Họ không bao giờ chấp nhận Cộng sản cho dù họ không hài lòng với chế độ miền Nam. Bởi vì trong chế độ họ đang sống họ còn hy vọng rằng họ có thể làm khác, họ còn có thể đóng góp thúc đẩy cho tiến bộ, họ tin rằng từ trong thực trạng miền Nam đó, họ có thể tiến tới một đời sống tốt đẹp hơn, một đời sống mà họ hằng mơ tưởng. Nhân dân miền Nam nắm giữ nhiều sự thật hơn trong đời sống của họ. Điều ấy ngược lại với những người Cộng sản. Những anh em cộng sản chỉ có trong tay một sự thật. Chỉ có trong tay một sự thật, Cộng sản đẩy con người vào hành động mù quáng, cuồng nhiệt, tạo thành một sức mạnh vũ bão tức thời. Nhưng cũng chính vì một sự thật cầm nắm đó khi đã vỡ tan, khi đã nghi ngờ thì nó không còn gì ngoài sự sụp đổ toàn thể. Sự yếu kém của miền Nam do nhiều sự thật tạo thành nhưng cũng chính nhờ đó đã không có những hành động điên cuồng, không có một sức mạnh cuồng nhiệt nhất thời, như thế nó sẽ thoát vượt được tình trạng hiện thời, bảo toàn được sức mạnh để vươn lên, lướt tới. Tôi nghĩ: những người viết văn ở miền Nam đều chia xẻ thực trạng này cùng nhân dân trong thực tế phân hóa, đau khổ, chiến tranh, những người cầm bút chẳng bao giờ quên phấn đấu như những cố gắng cá nhân khiêm tốn nhất và cùng mọi người hướng về một ngày mai. Nhà văn, hắn đã không ở trong tháp ngà, đã không giam mình trong một gian phòng với cửa sổ hé mở, những nhà văn yêu nước, tiến bộ, trách nhiệm, trung thực, tin tưởng … họ ở trong, ở giữa cuộc chiến đấu. Họ thấy rõ hơn bao giờ hết sự cần thiết của họ. Trách nhiệm của họ nặng nề khó khăn, nhưng đó là một trách nhiệm vinh dự. Họ có trách nhiệm lớn lao hơn những người khác trên con đường khôi phục lại con người : bằng đời sống và bằng tác phẩm. Nhưng như thế chưa đủ, đó chỉ mới là sự cần thiết, thực trạng Việt Nam ngày nay đòi hỏi những người làm văn hóa, văn nghệ phải liên hợp lại những sức mạnh cá nhân, làm sáng danh cuộc chiến đấu mới mà nền tảng là khôi phục lại con người, khôi phục lại đức tin. Bằng ý thức sáng tạo trong thực tế máu xương đau khổ quằn quại, chúng ta phải mở ra một ngày mai đổi đời. Tôi nghĩ không có con đường nào khác cho chúng ta lựa chọn. Làm sao thực hiện được con đường đó. Xã hội của ngày mai phải như thế nào. Đó là một vấn đề khác. Chúng ta sẽ cùng nhau chia xẻ những suy nghĩ này.-DƯƠNG NGHIỄM MẬU 9/1968 [Dương Nghiễm Mậu, sđd, trang 76-77]

Dương Nghiễm Mậu đã hỏi “Vậy thì phép lạ nào đã khiến cho miền Nam này không mất vào tay những người Cộng sản hay những thế lực khác?” Theo tôi, “phép lạ” xẩy ra vì quân lính VNCH giữ được tinh thần chống trả, tình báo Hoa Kỳ có biết trước tuy không rõ chi tiết, dân chúng bỏ chạy, không hợp tác với quân lính Cộng sản và, sau hết, hỏa lực của quân đội VNCH và Hoa Kỳ đã đẩy quân lính Bắc Việt vào chỗ hy sinh hàng loạt. Hà Nội đã sai một nước cờ sinh tử khi tự biến cuộc chiến thành một cuộc chiến trong thành phố nhưng không còn dân chúng để làm khiên đỡ đạn. Một điều nữa không phải là “phép lạ”: Dương Nghiễm Mậu cung cấp một chân dung rất đậm nét, không chỉ của ông mà còn phần nào của Văn Học và người dân Miền Nam. Nghĩa là chân dung của cuộc chiến đấu tiếp tục sau Tết Mậu Thân 1968.

5.2.3 Nhà văn, xã hội và “cuộc chiến đấu mới mà nền tảng là khôi phục lại con người, khôi phục lại đức tin…

Nhà thơ Viên Linh và nhà thơ Tô Thùy Yên giúp giải nghĩa một phần “phép lạ” ấy qua chân dung nhà văn kiêm công dân Dương Nghiễm Mậu, người đã được độc giả chọn là nhà văn đứng đầu vào năm 1966 qua cuộc phỏng vấn của tạp chí Nghệ Thuật. Danh sách năm nhà văn được chọn theo thứ tự như sau: Dương Nghiễm Mậu, Nguyễn Đình Toàn, Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền và Võ Phiến [Viên Linh, “Ghi nhận chót về cuộc phỏng vấn bạn đọc về Nhà văn và Tiểu thuyết Hiện đại”, Nghệ Thuật, Số 45, trang 31-Tuần lễ từ 20 tới 26 tháng 8. 1966]. Viên Linh và Tô Thùy Yên cũng góp mặt trong “phép lạ” đó qua những sinh hoạt văn học của chính họ. Cả hai đều là quân nhân như Dương Nghiễm Mậu và cả hai đều phải đối phó với con quái vật chiến tranh thở những làn hơn lửa vào đời sáng tác dù họ sống tại hậu phương nhiều hơn tiền tuyến. Tại hậu phương này, một trận chiến khác xẩy ra không kém gay go với những cán bộ văn hóa nằm vùng, những chính khách tài tử có tham vọng chính trị đã sử dụng báo chí hòng che dấu tham vọng đó hay, giản dị hơn, chỉ đơn thuần là những người vừa quá ngây thơ lại vừa quá tự tin vào khả năng văn chương của họ. Chính những người này mới càng nguy hại hơn vì Cộng Sản đã khoác nhiều vòng hoa ngụy trang lên cổ họ, không ngờ đó chỉ là những vòng hoa ăn thịt người. Tôi không bao giờ tin cuộc chiến tranh này chỉ gồm những cuộc giao đấu bằng súng đạn xa các thành phố, nhất là thủ đô-thành phố Sài Gòn.

  •  Viên Linh: Dương Nghiễm Mậu là một nhà văn xã hội, cực Hữu

Một trong vài người hiểu Dương Nghiễm Mậu nhiều, ít nhất trong giai đoạn 1959-1975 là Viên Linh. Hai người đã cùng làm báo học sinh ở Hà Nội. Viên Linh kém Dương Nghiễm Mậu 2 tuổi. Viên Linh làm báo nào (Nghệ Thuật, Khởi Hành, Thời Tập…) cũng đều kéo Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo, Dương Nghiễm Mậu … vào, ngoài những tác giả kỳ cựu như Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến vv.

clip_image006

“Viên Linh viết về Dương Nghiễm Mậu”- Nguyễn Hải Chí (CHÓE) vẽ
Khởi Hành, Ra ngày thứ năm (30cmx44cm), 16 trang
Chủ nhiệm: Đại tá Anh Việt Trần Văn Trọng & Thư Ký Tòa soạn: Viên Linh
Tài liệu của Lưu Đức, Viên Linh và Nguyễn Tà Cúc

Bắt đầu Khởi Hành số 74, Thư Ký Tòa Soạn Viên Linh mở mục mới “Mỗi Tuần Một Khuôn Mặt Văn Chương”:

[.…] Tuần này Viên Linh Viết Về Dương Nghiễm Mậu. Cùng với bài viết, mỗi tuần họa sĩ Nguyễn Hải Chí sẽ vẽ chân dung người viết và người được viết…” [Khởi Hành số 74]

Đây là một phần ghi nhận của Viên Linh:

1. Mười bốn tác phẩm trong tám năm, phần lớn là truyện ngắn, Dương Nghiễm Mậu là một tác giả bị ám ảnh bởi những biến động xã hội có tầm vóc Lịch Sử; người viết về những tan nát của va chạm mâu thuẫn, những xô đẩy của động lực; đối nghịch, kẻ bạo động thất bại trao gửi hoài bão nơi bút mực nhưng là kẻ bạo động cô đơn giữa đêm tối, nhìn thấy trước máu sẽ đổ vô ích. Nhưng nhất định đó là kẻ bạo động, khăng khăng tin tưởng ở sức mạnh, thèm khát tàn phà và đổ vỡ. Biến động, ở đó phải có Dương Nghiễm Mậu, hiện diện bằng cách này hay cách khác. Anh không mô tả đến tận cùng cái xao xuyến trí thức. Trẻ tuổi, trước những biến động đó anh vùng vẫy, gào thét, thúc đẩy, nguyền rủa hay kết tội. Trên bề mặt của các biến động đang đẩy đưa đang tiến tới; có Dương Nghiễm Mậu. Ở hàng đầu Lịch Sử, Xã Hội, với những vận mạng bất trắc, những cơ cấu tan rã, những chuyển động buông rời của khoảng trống hay ở đáy tầng bí ẩn nhức nhối, chính những nơi đó là bối cảnh cho nhà văn trẻ tuổi này. Hường ơi! Người ta đã đếm hết những sợi tóc trên đầu chúng ta chưa? Mắt em còn mở lớn cho em soi thấy khuôn mặt anh và khuôn mặt ấy vừa gẫy vụn. Đấy là những giòng cuối cùng của truyện ngắn Tiếng Động Trên Da Thú (Cũng Đành). Vỡ vụn, đó là nhan sắc của Mậu. Vỡ vụn như những mảnh gương, bộ mặt sau chiếc kính gọng đồi mồi tự tin nhưng lại lẩn tránh đám đông. Mái tóc anh cắt ngắn, hầu như không bao giờ chải bóng, nước da xám, cái cười nghe như là đồng lõa, như là chế nhạo khiến Dương Nghiễm Mậu lúc đó ở thật gần người đối diện– nhưng sau đó là khuất mặt là xa lạ và mất hút. Mười bốn tác phẩm đã được in, nhiều cuốn đã bán hết kể từ Cũng Đành (Văn Nghệ, 1963); Quê Người (Văn Xã, 70); vẫn tiếng nói liên miên, vẫn lời kể bất tận, nhưng trầm lặng hơn theo với thời gian, Dương Nghiễm Mậu từng là nhà văn số 1 của tuổi trẻ (1). Gào thét, phấn đấu, DNM hiện diện tràn đầy trong sinh hoạt của một người không ngừng thao thức hy vọng, những hy vọng hủy hoại và cải tạo… Cái chán chường của tác giả Cũng Đành là cái chán chường chấp nhận “địa ngục có thật,” cái xấu đầy rẫy, nhưng đã lên tiếng về cái chán chường ấy không phải ôm lấy nó và rút vào một góc kín của kẻ chịu trận, khuất phục và đào thoát. Tra xét nội dung những tác phẩm của anh, đó là một hồ sơ Việt Nam—(.…) (1) Theo kết quả cuộc phỏng vấn của tuần báo Nghệ Thuật, 1966.

2. Liên kết những tác phẩm lớn nhỏ của Dương Nghiễm Mậu, đó là một tuyên ngôn thời đại đầy đủ, được viết vừa bởi một nhà văn, vừa bởi một người trẻ tuổi muốn làm việc tốt đẹp, vừa bởi một nhà luân lý, vừa bởi một công dân của một xứ sở biến loạn. Văn chương đối với anh không hoàn toàn là văn chương, không chỉ có ám ảnh chữ nghĩa, ngôn từ. Viết là viết về một cái gì, cái đó, đối tượng của DNM, không hoàn toàn là đối tượng của một nhà văn, mà của một con người với những toan tính hay ràng buộc nóng bỏng. Con người đó sống giữa những toan tính và ràng buộc khác nữa của người bên cạnh. Trong khía cạnh này, DNM là một nhà luân lý, có thể còn là một nhà luân lý tích cực nữa.

3. (.…) Nhưng lần thứ hai chúng tôi gặp nhau, là ngót mười năm sau lần thứ nhất. Lúc đó, khoảng 1960, 61, Đàm Trường Viễn kiến của nhà văn Nguyễn Đức Quỳnh đang hồi cực thịnh, chúng tôi qui tụ trên tờ Văn Nghệ, tờ tạp chí hàng tháng do anh Lý Hoàng Phong làm chủ nhiệm, Mậu trông coi thực hiện, phần bài vở cũng như phần trị sự, in và phát hành. Tờ báo, cho tới nay, được coi là một thành công, nhưng lúc sinh thời không được sôi nổi lắm. Lúc ấy cái bóng của Sáng tạo quá lớn, quá ồn ào, chúng tôi chỉ hiện diện lặng lẽ, nhưng nhẫn nại. Cho tới nay, điểm nổi bật nhất của Văn Nghệ là cái sinh khí thanh niên của nhóm. Chúng tôi, trừ chủ nhiệm, chưa ai tới 25 tuổi. Mười năm đã qua, Văn Nghệ, mỗi khi nhìn lại, còn rực rỡ sinh khí, rực rỡ đời sống. Đời sống rất thô, rất hoạt, đời sống nồng nàn, khỏe mạnh. Và đó là công trình của DNM, trong tập thể,

4. Nhân vật DNM cục cằn, ưa thuyết lý, lên tiếng một mình trong đêm tối hay trong một hoạt cảnh xã hội bi hài (…) DNM là một trong những nhà văn luôn luôn bày tỏ một thái độ chính trị rõ ràng, mà không đứng trong nhóm này hay đoàn thể khác. Nhân vật của Mậu cũng hằng phát biểu những thái độ chính trị như tác giả. Trực tiếp hay gián tiếp anh không ngừng lên tiếng về xã hội, qua những chất liệu và cái nhìn hiện thực. (Những ngày đầu ở Hanoi và ở Saigon, Mậu làm thơ, song đó không phải là một tâm hồn lãng mạn.) DNM là một nhà văn xã hội, cực Hữu.” [Khởi Hành số 74, Viên Linh, “Mỗi Tuần Một Khuôn Mặt Văn Chương-Viên Linh viết về Dương Nghiễm Mậu”, Khởi Hành số 74, ngày 8.10.1970, trang 4]

Ngày nay, dở lại những trang giấy mỏng đã úa vàng của Khởi Hành, được một gia đình sinh sống tại Miền Nam bảo toàn suốt những năm ngặt nghèo rồi vượt đại dương tới tay Viên Linh (và tôi), tôi không thể nào quên đó cũng là một thứ phép lạ hết sức thê thiết. Những trang giấy chan chứa cảm xúc và quyết tâm của tác giả và độc giả, có khi tay súng tay bút, vẫn nghĩ tới một ngày dựng lại quốc gia, nối giòng văn chương. Khởi Hành tự nó cũng là một phép lạ: một ông Đại Tá Quân Cụ bỏ tiền túi làm một tuần báo tuyền văn nghệ chỉ mong được huề vốn để tiếp tục và giao hoàn toàn quyền điều hành nội dung cho Viên Linh, một nhà thơ kiêm nhà văn. Viên Linh và Tô Thùy Yên nhìn Dương Nghiễm Mậu qua 2 khung hình khác nhau. Trong khi Viên Linh ghi nhận thái độ tích cực của một công dân kiêm nhà văn, không cần biết tính chất nào chiếm phần thượng phong thì Tô Thùy Yên thắc mắc về mức độ văn chương bị sử dụng vào chủ đích luân lý khiến tác phẩm có thể gánh thất bại.

  •  Tô Thùy Yên: Vì muốn xử dụng văn chương ngoài mục đích văn chương, Mậu thường khi bị chặn lại vì vô số những điều kiện khách quan hay chủ quan ….

Tô Thùy Yên viết về Dương Nghiễm Mậu với mục đích “Văn và Người” nên vô tình, chân dung Dương Nghiễm Mậu có một đoạn đầu rất dài, xác nhận phần nào quan sát của Viên Linh:

clip_image008

“Dương Nghiễm Mậu (trái) và Tô Thùy Yên (giữa) tại Bãi đáp trực thăng, U Minh”
Nghệ Thuật số 45, Tháng 8, 1966
Tài liệu của (Thư Ký Tòa Soạn) Viên Linh và Nguyễn Tà Cúc

[.…] Thoạt trông, Mậu không trình diễn cái bề ngoài của một nhà văn, nói cho dễ thông cảm hơn, của một nhà văn nghệ theo phác họa sẵn có trong trí óc phần lớn người đọc. Từ dáng dấp, cử chỉ, tính tình đến phục sức. Ở Mậu, tất cả đều không vượt quá tầm mức bình thường. Kể luôn đời sống của Mậu. Người Mậu gầy mỏng, khuôn mặt tóp nhỏ, xương xẩu với đôi mà hóp sâu, cặp mắt chất chứa tinh nghịch, nụ cười bùi ngùi, đại lượng và đặc biệt, tiếng cười ha hả, hào sảng nghe thật sướng tai (…) Vậy cái cười của Mậu cũng là một ý muốn quên đi. Cuộc đời này với vô vàn phiền bực đau thương cũng phải quên đi. Nên cuộc đời hiện ra với tiếng cười ha hả của Mậu ở bên trên. Chẳng hạn, sau khi kể lại những chuyện tình khốn khổ của mình, Mậu kết luận: “Những cô gái bỏ đi lấy chồng, ông có biết vì sao không? Chỉ vì tôi đã lỡ quên hỏi họ làm vợ.” Chưa hiểu rõ Mậu, người ta dễ nghĩ Mậu là một gã khinh người ngạo đời, một gã đi giữa trần gian với nửa con ngươi. Nhưng nếu gần Mậu, khó phủ nhận được lòng chí tình của Mậu đối với bạn. Chơi thân với Mậu rồi người ta có thể yên tâm, hà tất phải giữ kẽ. Mậu sẵn sàng bênh vực chống chế cho bạn. Mậu quen làm cho bạn, từ những việc nhỏ nhất. Tốt hơn nữa, Mậu lại không khi nào đòi hỏi sự trả lại tương xứng về phía bạn. Mậu cho và cho luôn.

Mậu còn sở hữu cái đức tính nhẫn nại cần cù, ham thích những công việc lớn lao, cái đức tính của người nông dân từ những vùng thiên nhiên khắc nghiệt, việc khổ đến mấy Mậu cũng rán làm xong đúng ngày đã ấn định, ấn định với chính mình thôi, cái mới khó hơn. Trễ nãi đồng nghĩa lỗi lầm lớn lao, đối với Mậu. Và như một nông dân phải phòng xa những cơn phản trắc của đất trời, Mậu chi li trong vấn đề tiền bạc. Mậu không dư tiền, nhưng không bao giờ thiếu tiền. Khác với phần đông những văn nhân nghệ sĩ, Mậu từ chối lề thói ăn tiêu vung tay quá trán nên lúc nào Mậu cũng sẵn tiền, dù Mậu làm nghề gì việc gì hay Mậu thất nghiệp. Do đó, Mậu không cảm thấy bị lệ thuộc vào người nào vào thứ gì. Mậu tự do thung dung. Nhưng chẳng phải vì vậy mà Mậu không phát hiện nổi một cốt cách hào hoa và một tấm lòng cưu mang. Trái lại. Có lẽ chưa người bạn nào của Mậu mượn tiền Mậu, phải hỏi đến hai tiếng Có khi khỏi cần phải hỏi nữa. Mậu biết là đưa ngay. Ham thích những công việc lớn lao nhưng Mậu không hề ngần ngại trước những công việc nhỏ nhặt phải có của những công việc lớn lao. Thí dụ Mậu từng đóng vai tùy phái chở giao nhà phát hành tờ báo mà chính Mậu làm quản lý. Không một chút mặc cảm. Chỉ vì tùy phái cũng cần thiết như quản lý. Có thể nói Mậu hội đủ những điều kiện cần yếu của một cán bộ trung kiên. Dường như Mậu chẳng từ nan trước bất cứ trở ngại nào, nếu trở ngại đó còn có thể vượt qua hay đi vòng được.… [Tô Thùy Yên, “Văn và Người Dương Nghiễm Mậu”, Nghệ Thuật số 45, Tuần lễ từ 20-26.8.1966, trang 8]

Tính chất “cán bộ trung kiên” này, theo Tô Thùy Yên, có một bất lợi rất lớn. Nhà văn không thể cũng là một “cán bộ” sử dụng văn chương nhằm thuyết khách:

[.…]Tuy muốn xử dụng văn chương ngoài mục đích thuần túy văn chương, Dương nghiễm (sic) Mậu vẫn là nhà văn, theo ý nghĩa tinh khiết của danh từ. Nhà văn với tiếng nói của mình thế giới của mình. Thế giới đó của Mậu trưng bày những bi đát gớm ghiếc, những tối tăm rờn rợn, những bải hoải rã rời, những thét gào tắc nghẹn, những uất ức mất lời, trong đó sinh sôi những chuột rệp, bệnh tật đói nghèo, vô học và tính xấu, với đôi khi, không thể thiếu, một vài cái cười hỗn xược, hay tang thương. Đó cũng là thế giới của những chuyển động tâm lý chằng chịt, những độc thoại dồn dập hỗn độn, những làm lại không gian thời gian, những tìm kiếm gia tài không có, nhan sắc chưa thành, thế giới của cái vẻ suy tư. Rồi thôi, Mậu dừng lại ở danh hiệu nhà văn, chưa bước sang danh hiệu nhà tư tưởng, dù còn một bước ngắn thôi. Nếu văn chương của Mậu treo lên những trình bày ngoạn mục, những diễn tả lôi cuốn, dưới một ánh sáng kỳ quặc, với những góc cạnh ác hiểm về những con người biết mặt, những sự việc nhan nhản của một thế giới dường như quen thuộc lắm. Vì muốn xử dụng văn chương ngoài mục đích văn chương, Mậu thường khi bị chặn lại vì vô số những điều kiện khách quan hay chủ quan. Hoặc vì khuôn khổ chật hẹp được ấn định cho kẻ dùng văn. Hoặc vì tình trạng bất lực cố hữu của văn chương. Nên Mậu thường khi đã phải đi vòng. Tôi muốn đề cập đến tính chất ngụ ngôn trong văn chương Dương Nghiễm Mậu, mượn cái này đề chỉ cái kia. Chẳng hạn Gia Tài Người Mẹ là gì, nếu chẳng là câu chuyện ngụ ngôn? Còn những truyện trong Nhan sắc chẳng lẽ lại là những truyện dã sử hay sao? Và tính chất mơ hồ, điều kiện của ngụ ngôn, không chỉ là một mơ hồ về diễn đạt, mà còn là một mơ hồ về tư tưởng của chính tác giả. Nên tuy những nhân vật của Mậu muốn bỏ dứt thế giới của Mậu để ra đi nhưng chỉ đi quẩn quanh trong những miền chập choạng. Nhưng cũng chính nhờ những bước quanh quẩn ấy mà Mậu còn là nhà văn, theo ý nghĩa tinh khiết của danh từ. Chớ nếu những nhân vật của Mậu đi thẳng rồi, có lẽ Mậu sẽ trở thành một nhà luân lý cổ điển Tây phương và trạm cuối của hành trình (nói bây giờ e sớm quá chăng) sẽ là sự bảo thủ. Ngoại trừ trường hợp Mậu mở rộng thêm ra thế giới của mình bằng những ánh sáng mới, với những góc cạnh mới. [Tô Thùy Yên, sđd, trang 9]

Đọc Tô Thùy Yên, tôi chợt nhớ tới vấn đề hình như muôn thuở của nhà văn và độc giả, nhất là nhà văn trong thời chiến. Vì sao nhiều nhà văn và cả độc giả Miền Nam thời đó rất yêu thích hoặc trích dẫn Albert Camus, kể cả Mặc Đỗ, kể cả Bùi Giáng, kể cả Dương Nghiễm Mậu như đã thấy? Đó là vì Albert Camus đã chiến đấu, chưa bao giờ chịu trèo lên tháp ngà văn nghệ dù đã danh tiếng với tờ Combat. Ông chấp nhận “bị đẩy xuống thuyền” (Albert Camus), chịu đựng nguy hiểm cùng mọi người. Có điều chắc chắn: thế hệ Dương Nghiễm Mậu phải tự tìm đường sống sót và tranh đấu. Thế hệ đàn anh đã không còn là niềm hứng khởi hay nơi nương tựa. Dương Nghiễm Mậu đã viết một bài về Khái Hưng và đề cập đến Băn Khoăn, một tác phẩm báo động về sự sa đọa của một số trí thức thượng lưu Hà Nội lúc đó, chỉ để kết thúc bằng:

[.…] Nhưng tôi vẫn tự hỏi: vì sao giữa lúc bước chân vào cuộc tranh đấu cách mạng mà Khái Hưng lại viết được Băn Khoăn? Không hề có ảnh hưởng giữa đời sống và tư tưởng tác giả với tác phẩm sao?

Băn Khoăn được tái bản vào năm 1954 tại Sài Gòn, nhưng trước đó đã được Ngày Nay xuất bản tại Hà Nội dưới tên Thanh Đức vào năm 1943. Tôi đoán Dương Nghiễm Mậu không hiểu dụng ý của Khái Hưng, nhưng tại đây, điều đáng chú ý là ông–và cũng có thể nói, một số khác lúc đó, như nhà thơ Cung Trầm Tưởng—đã hết tin tưởng vào phương cách tranh đấu của thế hệ trước. Họ cắt lìa với quá khứ, từ chối cả Nhất Linh lẫn Khái Hưng. Họ lên đường chỉ với một niềm tin duy nhất. Vào chính họ. Với họ, Dũng không còn là chàng trai thấp thoáng bên cạnh Loan vẫn còn “lãng mạn”. Thay vì Loan, lần này là Sương (trong Phấn Đấu), chống chính thể Ngô Đình Diệm, bị bắt và hãm hiếp đến có thai. Những nhân vật đàn ông của Dương Nghiễm Mậu thường nếu không an phận, vào tù, đi lính, thì sáng tác bị bế tắc, nhưng luôn luôn day dứt vì không tìm được giải pháp cho một xã hội biến động mà dửng dưng. Viên Linh rất bén nhậy và thân thiết với Dương Nghiễm Mậu đủ để trích ra đoạn này trong Phấn Đấu:

[.…] Từ 1930 đến nay vẫn là cái dòng lãng mạn, dòng tư sản, cái dòng của tinh thần Nguyễn Du thổi trong tâm khảm, dòng máu, mà những Loan, những Dũng … làm cải lương xã hội, tranh đấu cách mạng của Tự lực Văn đoàn vẫn là tinh thần lãng mạn đó: người đi ngoài mưa gió trong đầu những cô gái mới nằm trong nhung lụa, chàng trai lên yên ngựa, đứng trên lưng chừng núi nhớ lại cảnh một khu sân có vườn cây với tà áo lụa phơi trong gió của người yêu. Và cho mãi bây giờ nữa cái dòng lãng mạn ấy vẫn còn, cho đến bao giờ? Tại sao người ta phải đi. Quê hương mình đây, thân thuộc mình đây. Đi rồi đi luôn được ư. Mình không thể nào nghĩ được về điều này, tới một nơi xa, người lạ, đời sống khác hẳn như vậy làm sao chịu được.… [Dương Nghiễm Mậu, Phấn Đấu-Viên Linh trích lại, Khởi Hành, số 74, trang 16]

Số phận của người lính như Dương Nghiễm Mậu và bạn ông có thể kết thúc như nhân vật Trung:

[.…] Nhớ nhà, nhớ bạn… nằm đây tự giết mình dần dần. Cái chết của Trung: đóng trong một đồn biên giới nhận tiếp tế từ máy bay, ba tháng liền không ai rời khỏi tay súng, những lá thư của Trung còn đó, nhưng Trung không còn nữa. Đồn đã bị vây khốn. Trung chết trong đồn, quân tiếp viện lên tới nơi chỉ còn đề đưa Trung về trong quan tài im lặng. Những tiếng khóc. Trung ơi! Mười mấy cái huyệt đào sẵn trong nghĩa trang, mỗi lúc đều có người chết.…[Dương Nghiễm Mậu, Phấn Đấu, trang 51, Tập-san Văn xuất bản, tháng 8.1966 -Tài liệu đăng trên Viet Messenger, https://vietmessenger.com/books/?title=phan%20dau]

Vì thế, không có cách nào hơn là chiến đấu.

Nhưng mọi đối thoại, mọi phấn đấu, mọi toan tính đã dẫn hầu xây dựng từ văn chương đến xã hội chỉ có thể xẩy ra trong một quốc gia có tự do. Mọi sự chấm dứt vào tháng tư, 1975 khi Việt Nam Cộng Hòa thua trận. Như lời tiên đoán vô tình trong Phấn Đấu, Dương Nghiễm Mậu từ chối ra đi.

5.2.4 Hủy diệt và Phục sinh từ ngọn lửa phần thư

  • Xưa một kẻ u cư/ Bốn mươi đầu bạc trắng/ Ta thân xác phần thư/ Đời tro than nguội lạnh… Viên Linh, “Chuyện vãn cùng sách cũ”, Thủy Mộ Quan

Tuy kinh nghiệm có thừa, tuy cố gắng hết mức, Dương Nghiễm Mậu vẫn đánh giá thấp sự cuồng tín của Cộng sản và chính sách tàn bạo chờ sẵn. Vào những ngày tự do cuối tháng 4, ông xác định ý muốn sẽ ở lại, nhưng, tiếc thay, lại đồng hóa rồi thóa mạ những người chạy trốn Cộng sản trong một bài viết trên tạp chí Thời Tập số cuối (tháng 4.1975):

[.…] Chín ngày đi, đáng lẽ là một chuyến đi đáng ghi nhớ, thì cuối cùng với tôi là những ngày buồn. Ngày trở về, tôi không ngồi yên được, chỉ mong sao đặt chân trở lại quê nhà. Lúc phi cơ đáp xuống Tân Sơn Nhất, đặt chân xuống mặt đất tôi chảy nước mắt với bao nôn nao. Ôm lấy con thơ vào lòng, giữ lấy tay vợ, tôi tưởng như mình vừa trải qua một biến động. Tôi thấu hiểu rằng, chẳng bao giờ tôi muốn rời xa quê hương mình, gia đình mình. Nơi đây tôi đã chọn lựa và tôi sẽ chẳng thể đi đâu. Những bản tin, những trang báo mỗi ngày, mỗi giờ cho tôi thấy những bi thảm và những hào hùng. Hàng trăm ngàn người với đôi bàn tay trắng đã lên đường trong một ý thức chọn lựa. Ở đây, dù xấu xa bẩn thỉu, nhưng nó vẫn còn hơn phải sống dưới chế độ Cộng Sản. Những bước chân đi tới phía đông, băng rừng, vượt núi, cái chết khít khao đã nói lên khẳng định đó. Nhưng vì đâu mà phải sống trong cơ sự này? Lỗi vì ai? Ai phải chịu trách nhiệm?

Không phải chỉ có Phước Long, Ban Mê Thuột, Pleiku, Kontum mà bây giờ còn cả Quảng Ngãi, Quảng Tín, Trị Thiên, Bình Long.… Người anh từ Huế vào, người còn ngẩn ngơ. Người chị bàng hoàng nói tới đoạn đường vượt Hải Vân vào Đà Nẵng…Những chiếc xe như súc vật, những xác nguời nằm như lá khô, pháo kích không ngừng, những bà mẹ, đứa bé bò trên mặt đường và chiếc bình sữa.… Trong cồn cào của thời sự, những sự việc làm tôi chóng mặt. Tôi tự hỏi: có phải đã tới lúc mà mình phải cầm lấy mũi nhọn, phải, chỉ có thế trong chọn lựa một khi cơn lốc đến. Tôi không thể có một chọn lựa đầu hàng để sống như trâu chó. Tôi chỉ thương hai tấm con thơ.… Có thể một cơ sự như thế sẽ đến không? (.… ) Có người đến hỏi tôi: có đi ra ngoại quốc không? Tôi đã trả lời dứt khoát: Tôi sống và chết tại nơi này. Người ấy hỏi: anh chấp nhận sống chung với Cộng Sản? Tôi nói: tôi không phải là một con chó để nay sống với chủ này, mai sống với chủ khác chỉ vì miếng xương chúng liệng ra. Tôi tin tưởng con đường tôi đi. Có một nơi là lẽ phải và ánh sáng. Có một nơi là lẽ trái và bóng tối. Có trắng và đen không thể nhập nhằng được. Nếu tôi có chết chăng nữa, điều ấy tôi không ân hận. Lịch sử đã chứng minh rằng: nhiều khi cái chết là một điều tốt hơn là sống. Chết đi cho người khác sống, cho lẽ phải và sự thực sống, chết như thế cần thiết. Tôi bình tĩnh với quyết tâm đó. Này những tên bất lương, hãy vơ vét, hãy chạy đi cho mau tiếp tục sống làm đầy tớ cho những tên chủ, và hãy đừng bao giờ ngửng mặt lên, hãy quên đi, đừng bao giờ nhắc đến hai tiếng Việt Nam (.…) Sống tự do hay là chết. Điều đó được viết bằng xương và máu. Tôi mong ước mọi người cùng tôi góp lời cầu nguyện: cho chúng ta được sống làm người và thoát qua cơn thử thách này. Tương lai tùy nơi chúng ta với niềm tin đã có. [Dương Nghiễm Mậu, “Một lời”, Thời Tập, Số 23, phát hành ngày 23.9.1975, 3.000 số-Tài liệu của Trần H. M.]

Khi Dương Nghiễm Mậu viết “Một lời”, tôi đoán chắc ông không ngờ Cộng sản sẽ chiếm được hoàn toàn Miền Nam và, bởi thế, tưởng lầm Sàigòn vẫn sẽ là chỗ trú ẩn cuối cùng cho người dân vô tội chỉ mong được sống trong Tự Do, như ông. Tôi có cơ hội liên lạc với ông sau này, nhưng đã không bao giờ hỏi: “Có bao giờ ân hận với quyết định ấy?” vì bất cứ quyết định nào trong một phen thay đổi sơn hà (Nguyễn Du) đều đến không dễ dàng. Chắc ông đã ngộ ra, sau khi phải sống với Cộng sản, muốn chết cho người khác sống cũng không dễ dù người khác ấy là con thơ là vợ trẻ là cha mẹ già. Những người bạn hay quen biết ông trong giới văn chương như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thùy Yên vv. đã, sau cùng, lựa chọn Tự Do khi có cơ hội. Cuối cùng, cả “người anh em” lẫn Dương Nghiễm Mậu cũng không bao giờ có thể tưởng tượng được Sài gòn bị đổi tên thành Hồ Chí Minh! Ông càng đã lầm khi nghĩ thành lời: “Những danh nhân chẳng bao giờ muốn mình xóa đi những gì mà người dân sống đã quen thuộc với nó…” Lần này, cuộc thảm sát văn hóa ấy không thành công vì Cộng Sản không lừa dối được nữa và dân Miền Nam không đầu hàng. Ngọn cờ máu đã kéo lên kỳ đài nhưng Cộng Sản không chiến thắng nổi. Người dân sống đã quen thuộc với Sài gòn nên Sài gòn vẫn là Sài gòn. Người ta vẫn hát và vẫn diễn những ca khúc về Lính Sài gòn như ông có lần đã là một người lính Sài gòn. Giọng ca của các cô đào cải lương như Thanh Nga, như Út Bạch Lan (người được ông ái mộ) vẫn được nghe lại.

  • Nhang tàn vẫn còn thắp khuya

Rồi tác phẩm của Dương Nghiễm Mậu lại chính là những tác phẩm thuộc Văn Học Miền Nam được tái bản chính thức có lẽ sớm nhất tại Việt Nam. Nhiều tác phẩm khác theo nhau được tái bản sau đó. Một số tác giả như Nguyễn Thị Thụy Vũ hay Nguyễn Thị Hoàng còn được tổ chức cho ra mắt sách rất huy hoàng. Một lớp độc giả mới đã tìm gặp và yêu mến họ. Tác phẩm tái xuất bản của Nguyễn Thị Thụy Vũ cũng vượt đại dương. Tôi đã có dịp phỏng vấn bà trước đó nên hân hạnh được bà gửi tặng 4 cuốn ngay khi được tái bản vào năm 2016:

clip_image010

Nguyễn Thị Thụy Vũ, 4 tác phẩm, tái bản 2016, Sài gòn

Với lời ký tặng:

clip_image012

Nghĩa là sau bao nhiêu đe dọa, Cộng Sản vẫn không thể tiêu diệt được Văn Học Miền Nam. Tuy vậy, quân đội mà Dương Nghiễm Mậu phục vụ nhiều năm và bị giam hai năm vì quá khứ một phần gắn liền ấy, sẽ không được yên nghỉ như ông và đồng đội. Ngày 23, tháng 2, năm 2018, nhật báo The New York Times cho đăng bài “How South Vietnam Defeated Itself (“Nam Việt Nam đã tự chuốc nỗi thảm bại như thế nào”) của (Giáo sư) Sean Fear, người được giới thiệu ở cuối bài là “a lecturer in international history at the University of Leeds/ Giảng viên môn Sử học Quốc tế tại Đại học Leeds”.

Sau nửa thế kỷ từ ngày Việt Nam Cộng Hòa không còn tồn tại, đã có rất nhiều nghiên cứu về trách nhiệm của cả Việt Nam Cộng Hòa lẫn đồng minh Hoa Kỳ như đã dẫn trong phần trước. Nếu có thêm một nghiên cứu (hay phát biểu) đẹp hoặc không đẹp cho Việt Nam Cộng Hòa nữa cũng không đáng ngạc nhiên. Sau nữa, tôi hoàn toàn tôn trọng giả thuyết của người khác bên cạnh sự tôn trọng quyền tự do phát biểu ấy. Tuy nhiên, vì bài của ông có một đoạn nhắc đến Nhã Ca, Giải khăn sô cho Huế/Olga Dror, Mourning Headband for Hue, Trịnh Công Sơn và quan trọng hơn, tới Quân Lực VNCH, nên tôi muốn cống hiến tài liệu cùng nhân chứng liên quan đến 3 vấn đề trên.

(Còn tiếp)

bài đã đăng của Nguyễn Tà Cúc

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)