Phùng Nguyễn qua nét vẽ của Đinh Trường Chinh
2 – Nhà văn/nhà tiểu luận/ Đồng-Sáng lập Tạp chí Da Màu/Thương phế binh Phùng Nguyễn phân tích huyền thoại “Lính ngụy ăn thịt người”
Nhà văn Phùng Nguyễn, tên thật Nguyễn Đức Phùng, sinh năm 1950, đi lính từ năm 1968. Bị trọng thương, giải ngũ vào năm 1974, sang Hoa Kỳ vào năm 1984. Tôi không dám gọi nhà văn Phùng Nguyễn là bạn, song lại nhớ đến đầu tiên ngoài vòng thân hữu khi sửa soạn đề tài này, chỉ vì ông đã dụng công phân tích những điều cho là bất cập trong tiểu luận “The Long Road Home: Exile, Self-Recognition, and Reconstruction” của dịch giả Nguyễn Bá Chung, xuất hiện trên tạp chí Mānoa, một tạp chí được Đại Học Hawai’i bảo trợ, 2002.[4] Phùng Nguyễn có bài “Catching Clams at Lake Isabella/Bắt hến ở hồ Isabella” cùng được đăng, nên mới biết đặng phản bác. Tôi rất đồng ý với một đoạn quan sát, vượt khỏi bài của Nguyễn Bá Chung, mà tôi tin rằng đã thay cho lý do khiến Phùng Nguyễn viết loạt bài về trách nhiệm nhà văn khi đối đầu với lịch sử tại ngay thời điểm đó:
– … Có một số “kiến thức” rất phổ biến về chiến tranh Việt Nam được chia sẻ trước hết trong giới trí thức cấp tiến Âu Mỹ và giới truyền thông và sau đó, lây lan rất nhanh đến các tầng lớp khác qua ngả học đường, báo chí, và các phương tiện truyền thông khác. Lâu dần, những “kiến thức” này trở thành những “thực tế” được công nhận rộng rãi và được sử dụng thường xuyên để đóng khung cách nhìn của các “tín đồ” về người, việc, và sự kiện liên quan đến chiến tranh Việt Nam. Một số “thực tế” cơ bản và phổ biến nhất:
Tôi gặp Phùng Nguyễn rất bất ngờ. Hôm đó nhà thơ Viên Linh và tôi tìm đến chỗ ra mắt tập thơ của nhà thơ Cung Trầm Tưởng, nhưng cuộc ra mắt đột ngột thay đổi địa chỉ nên nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng vời chúng tôi vào uống cà-phê tại tiệm Gypsy, Westminster, California. Nhà thơ Võ Chân Cửu, từ Việt Nam sang, và Phùng Nguyễn đã ngồi sẵn. Đó là cơ hội cho tôi và anh được gặp nhau và trao đổi cảm tưởng về nhiều vấn đề. Một trong những vấn đề đó là huyền thoại “Lính ngụy ăn thịt người”. Theo Phùng Nguyễn:
-… Chiến tranh, trong mọi thời kỳ, bởi mọi nguồn cơn, là một tai họa lớn lao. Chiến tranh mang đến sự hủy diệt của không chỉ nhân mạng, làng mạc, phố xá, sông suối, núi rừng mà còn cả tình người, điều giúp cho con người tiếp tục là con người ngay cả trong những hoàn cảnh đen tối nhất. Chiến tranh cũng là cái cớ tuyệt hảo để người ta đạp đổ những hàng rào luân lý, đạo đức mà không cần phải cảm thấy áy náy. Để chiến thắng, người ta không ngần ngại áp dụng những thủ đoạn vô luân vô đạo. Một trong những thủ đoạn này là gắn đầu ác thú lên thân thể kẻ thù. Giới lãnh đạo của phe chiến thắng trong cuộc nội chiến Bắc Nam vừa qua, gồm thành phần chóp bu của đảng CSVN, chiếm giải quán quân trong lãnh vực này. Trong chiến tranh Việt Nam và rất lâu sau đó, họ đã giúp biến người dân người lính miền Nam thành những con quỷ khát máu, một lũ ăn thịt người trong mắt người dân và bộ đội miền Bắc. Sau khi chiến tranh chấm dứt, họ tiếp tục bôi nhọ hình ảnh người lính miền Nam như thế mặc dù họ đã mỗi ngày chạm mặt, sinh hoạt gần gũi với những con người bằng xương bằng thịt ở phía Nam đất nước. Cái hình ảnh xấu xa họ dựng lên trong thời chiến đã thấm sâu vào xương tủy, tim óc người miền Bắc, và sau này, lan tỏa đến các thế hệ trẻ trong cả nước. Đối với đa số dân chúng, “lính ngụy” và “ăn thịt người” là hai từ luôn đi đôi với nhau (…) Tôi đã nói về đề tài “lính ngụy ăn thịt người” một vài lần, nhưng chưa hề thấy đủ. Bởi vì chưa hề đủ! Đã có không ít người, vì những lý do mà họ nghĩ rằng cao cả, chỉ muốn quay lưng lại, tảng lờ, chối bỏ sự hiện diện của những nọc độc văn hóa đang luân lưu trong huyết quản dân tộc …[Phùng Nguyễn, “Đúc khuôn tội ác”, Blog Rừng & Cây, VOA Tiếng Việt https://www.voatiengviet.com/a/duc-khuon-toi-ac/3013722.html]
Thoạt đầu, Phùng Nguyễn cực kỳ dè dặt, hơi nghi kỵ thì đúng hơn, dù đã đọc tôi nhiều trước đó. Sự dè dặt hay nghi kỵ ấy không đáng ngạc nhiên vì, là Thư ký Tòa soạn Khởi Hành, một tạp chí in với cách tổ chức theo truyền thống Văn Học Miền Nam, tôi cáng đáng một nửa trách nhiệm, lại kiêm phụ nữ, khiến trở thành 2 thứ ngoại lệ tại làng báo văn học hải ngoại. Sự ngoại lệ nào cũng dẫn đến vài cơn giông. May thay, anh Nguyễn Xuân Hoàng “khoe” tôi vừa tốt nghiệp với luận án Cao Học về các nhà văn Miền Nam, kể cả các nhà văn di cư, tiếp tục sinh hoạt văn nghệ và tiếp tục chống Cộng sản tại Hoa Kỳ. Một thực tế mà người Việt hải ngoại phải đối diện là, cho tới nay, một phần sinh hoạt hay khảo cứu về Văn học Miền Nam hay Miền Nam cũng xẩy ra tại hệ thống đại học hay báo chí bản xứ. Tiểu luận, luận án hay tác phẩm của họ hiện diện trong một thế giới khác, thí dụ như tiểu luận thượng dẫn của dịch giả Nguyễn Bá Chung. Trừ phi chúng ta tốt nghiệp tại một đại học ngoại quốc như tại Hoa Kỳ, nghĩa là gia nhập hệ thống của họ, làm sao có phương tiện hầu tìm hiểu, theo dõi, thu thập tài liệu để hoan nghênh hay phản bác? Đó là chưa kể đến hoàn cảnh sinh sống dẫn đến khả năng tham dự. Thế hệ người Việt tỵ nạn đầu tiên, tản lạc trên khắp một vùng đất quá rộng lớn, phải đối phó với “cơm áo gạo tiền” trong hoàn cảnh và ngôn ngữ xa lạ, là những An Tiêm tiên phong trong việc tìm các loại dưa mới chỉ để sống còn. Tuy bản thân không úy kỵ gì khoa bảng, nhưng khó khăn vẫn là khó khăn, trở ngại vẫn là trở ngại. Do đó, câu hỏi này có vẻ phũ phàng, nhưng đó là một phần thực tế chúng ta đã phải đối diện.
Thế nên, đó là lý do Phùng Nguyễn chú ý đến luận án thượng dẫn. Cho tới nay, đó vẫn là luận án duy nhất tại một đại học Hoa Kỳ được hoàn thành bởi một người vừa là nhân chứng, vừa tham dự, vừa nghiên cứu Văn Học Miền Nam và Thời sự Văn nghệ Hải ngoại, lại có mối liên lạc trực tiếp nhiều năm với vài tác giả-nhân chứng danh tiếng là đối tượng nghiên cứu từ nền văn học đó. Tôi vốn sinh quán tại Miền Bắc, nhưng trưởng thành hoàn toàn tại Miền Nam rồi di tản. Luận án ấy cũng phản ảnh thời gian tôi đảm trách phần Thư Ký Tòa soạn cho tạp chí Khởi Hành và, trước đó, Trưởng ủy ban Nhà văn-bị Cầm tù thay thế Trần Tam Tiệp khi ông lâm trọng bệnh. Năm 1978, khi tôi xin được chuyển sang Hoa kỳ Học–mà lẽ ra phải là Mechanical Engineering theo giấy tờ mang theo được–là đã có ý học hỏi về lịch sử, văn hóa và văn học của quốc gia đồng minh đã đóng vai trò quan trọng, hầu như duy nhất, trong việc trợ giúp vũ khí, kinh tế cũng như trách nhiệm trong việc thất thủ của Việt Nam Cộng Hòa. Gần 30 năm sau, trở lại trường hoàn tất việc học dở dang, tôi đã may mắn thực hiện được một phần lời nguyền, là lưu lại chứng tích—dù khiêm nhượng dù thiếu sót đến đâu– của người Việt tỵ nạn trong hệ thống đại học hầu góp phần làm sáng tỏ về Việt Nam Cộng Hòa, gồm cả kinh nghiệm của một công dân từ quê hương đã mất và thêm quan điểm của công dân ấy, nhưng từ quê hương mới.
Từ Thức đã không thể trở lại chốn cũ, nhưng vẫn mang theo hình ảnh của chốn cũ, với hy vọng chốn mới sẽ ngày nào phản ảnh được dư quang đã bỏ lại.
Bên cạnh đó, luận án này còn tiêu biểu cho một khía cạnh chung của hoàn cảnh người tỵ nạn: Làm lại từ đầu với hai bàn tay trắng. Khác với sự nguyền rủa của Cộng Sản, gia đình tôi và rất nhiều dân Miền Nam, may mắn thoát được là nhờ phút cuối theo giòng người hỗn độn và hoang mang, hoảng sợ, ùa vào bến tàu Sài gòn; không ngờ được cho trèo vào xà-lan, chung quanh che bằng bao cát chống đạn, rồi ra khơi, di tản sang Hoa Kỳ. Gia đình tôi không giàu, không thuộc loại “hút máu nhân dân” hay “bám chân đế quốc Mĩ”. Từ 1976 đến 1994, tôi cũng chỉ là một người nội trợ, không biết cả lái xe (hơi) cho đến năm 1985. Từ năm 1995, tôi là người mẹ đơn thân, làm 2, 3 việc bán phần nuôi các con, với hy vọng sẽ đến phiên được trở lại Đại Học. Tôi thuật lại một phần tiểu sử, không phải vì hợm mình, mà muốn cho thấy, bất cứ người tỵ nạn nào cũng có thể, sau cùng, góp phần khiêm nhượng cách này cách khác có khi một cách rất bất ngờ, vào việc góp một ngọn nến cùng nhiều người khác trên đường soi lại lịch sử của tập thể mà họ từng gia nhập.
Bởi thế, lập tức Phùng Nguyễn thảo luận về những chủ đề được đề cập, dẫn đến một cuộc trao đổi bên lề. Đó là, nếu có khả năng, thế hệ chúng tôi nên viết (nhiều hơn) bằng ngôn ngữ mẹ đẻ hay bản xứ? Vì mỗi ngôn ngữ có một khối độc giả riêng dẫn đến tác dụng khác biệt. Chúng ta chú tâm vào lịch sử/ độc giả Việt Nam bây giờ và mai sau? Hay viết cho các đại học hoặc học viện ngoại quốc, nơi sẽ chuyển nhận mọi nguồn tin tức cho các thế hệ tương lai tại hải ngoại? Nói một cách khác, chúng tôi cần chú ý ưu tiên đến tác giả người Việt hay tác giả người ngoại quốc nếu có cơ hội gia nhập cả hai thế giới đó với khả năng quá hạn hẹp của mỗi cá nhân? Phùng Nguyễn đã phát biểu một chút khi ghi nhận trong cùng bài thượng dẫn:
-…Nền văn học này cũng hiếm khi được đề cập đến ở hải ngoại, ngay cả ở Hoa Kỳ, nơi có đông đảo người gốc Việt cư ngụ, ngoại trừ những cố gắng đơn độc để bảo trì những gì còn có thể cứu vớt bởi một thiểu số đếm được trên đầu ngón tay. Cho nên, nếu có lần nào đó nền văn học này được nhắc đến bằng một thứ ngôn ngữ rất mạnh, rất phổ quát như Anh ngữ, hẳn là một điều rất đáng lưu tâm…” [Phùng Nguyễn, sđd, 2007]
Thật vậy, ngoài những tiểu luận bằng nguyên bản Anh ngữ, một số tác phẩm của nhà văn Miền Bắc còn được dịch ra ngoại ngữ, nhất là Anh ngữ, “một thứ ngôn ngữ rất mạnh, rất phổ quát” như Phùng Nguyễn nhận xét chính xác. Tôi sẽ cho một thí dụ điển hình là tiểu thuyết Cõi người rung chuông tận thế, Hồ Anh Thái– viết từ năm 1996, xuất bản lần đầu năm 2002– hầu độc giả tiện theo dõi. Tiếp đó, tôi sẽ trích dẫn phần Anh ngữ khi tác phẩm này được hiệu đính, dịch sang Anh ngữ và phát hành tại Hoa Kỳ (2012).
Tôi cũng xin được lập lại một số trích dẫn trước đây, từ Phùng Nguyễn hoặc của tôi, trong vài bài khác đã có, hầu độc giả–nhất là độc giả chưa có dịp đọc về vấn đề này—theo dõi một cách mạch lạc hơn.
Phần lính ngụy ăn “tim, gan và 2 hột tinh hoàn” kèm đây được trích dẫn từ tác phẩm thượng dẫn:
– … Hai người cứ nằm mãi cho đến khi nhớ ra còn phải đi tìm rau. Lúc này họ đang ở gần một con suối nhỏ. Hùng nấp ở trên bờ, cảnh giới cho Hoa xuống tắm trước. Sau đó đến lượt Hoa canh cho anh tắm. Khẩu súng ngắn, Hùng đưa cho Hoa giữ. Xuống đến bờ suối anh mới cởi hết quần áo, bỏ lại bờ, rồi nhảy xuống suối tắm tiên. Từ trên cao và ở một vị trí không xa lắm, Hoa nhìn rõ một cơ thể cân đối và cường tráng, cao gần một mét tám, nặng bảy mươi sáu cân. Những chàng trai như thế phải đi vào cuộc chiến này, vừa tự hào vừa đáng tiếc làm sao. Giây phút ấy, Hoa bất chợt có ý nghĩ như một người mẹ. Cô sẵn sàng chịu ngàn lần thương tích và tai họa mà chiến tranh đang dội xuống đầu mình, miễn sao những chàng trai như thế kia được đưa ngay về hậu phương, được gửi đi học nước ngoài. Hết chiến tranh, đất nước thực sự cần những chàng trai như vậy. Thình lình Hoa run lên. Một tốp bốn thằng thám báo đã ập đến bên bờ suối từ lúc nào. Chúng giẫm lên bộ quần áo và phát hiện ra con dao găm để lẫn trong đó. Một thằng cúi nhặt con dao, rút ra khỏi vỏ, liếc liếc lưỡi dao vào bàn tay như thử độ sắc. Rồi chúng vẫy Hùng lên bờ. Hùng vẫn đứng ngập nửa thân người dưới suối. Anh không có một vũ khí trong tay, lại trong tình trạng khoả thân hoàn toàn. Hoa định hét lên, định nhắm bắn lũ thám báo cho Hùng chạy, nhưng lý trí kịp kìm sự manh động lại. Lâu nay cánh rừng này vẫn được xem là không có Việt Cộng. Trong bộ quần áo của Hùng không có một thứ giấy tờ gì. Anh sẽ chỉ bị coi là một gã bộ đội Bắc Việt đi lạc đơn vị. Hùng lao người bơi xuôi theo dòng suối tương đối cạn, xa hẳn chỗ Hoa đang nấp. Lũ thám báo văng tục chạy men bờ đuổi theo. Có những chỗ suối cạn không bơi được, Hùng phải chạy. Bốn tên thám báo nhảy chồm chồm trên những tảng đá giữa lòng suối, rồi quây được Hùng vào giữa. Anh quật ngã một thằng. Nó cắm đầu xuống nước, không thấy động đậy gì. Nhưng những thằng kia đã xúm lại. Chỉ một lát sau, chúng đã lôi xềnh xệch Hùng lên bờ. Thân thể anh bầm giập đẫm máu. Chúng đấm đá túi bụi để lấy cung cho tới khi anh ngất đi. Anh tỉnh lại, chúng đánh tiếp. Hoa hiểu vì sao chúng không dùng đến súng. Chúng cũng không muốn gây ra tiếng nổ ở vùng rừng này. Cuối cùng, điều Hoa không ngờ đã đến. Cô chỉ nghĩ rằng bọn thám báo sẽ lôi Hùng đi làm tù binh để tiếp tục lấy khẩu cung. Nhưng thằng cầm con dao găm của anh đã cúi xuống rạch một đường thành thạo trên bụng Hùng. Anh quằn quại hét lên một tiếng rùng rợn. Ở trên cao, Hoa nghiến chặt răng gần như ngất đi. Hai thằng kia đè chặt chân tay Hùng cho thằng mổ bụng moi tim gan ra. Chúng nổi lửa nướng tim gan ăn ngay tại chỗ. Hai hột tinh hoàn thì được phân chia cho hai thằng chắc là cấp cao hơn. Bữa tiệc kéo dài quá sức chịu đựng cuối củng cũng chấm dứt. Lũ thám báo bỏ xác Hùng lại trên bờ suối…” [Hồ Anh Thái, Cõi người rung chuông tận thế, trang 171-174, Nhà xuất bản Trẻ, 2013- In 3.000 cuốn]
Hồ Anh Thái quả không hổ tiếng nhà văn danh trấn giang hồ. Chỉ trong 1 đoạn ngắn, ông đã diễn tả rất…thành thạo (chữ của chính ông) về một tội ác mà không hiểu có chứng kiến bao giờ chưa. Dù sao chăng nữa, tạm thời cứ cho là ông có quyền sáng tạo vì đây là một tiểu thuyết/a novel. Xin tóm tắt đoạn đó như sau: Lính Miền Nam, 4 người nhưng đều vô danh, bắt được Hùng lính Miền Bắc, không những có danh tính “hùng” mà người cũng “hùng” không kém. Theo Hồ Anh Thái, nhân vật Hùng có “một cơ thể cân đối và cường tráng, cao gần một mét tám, nặng bảy mươi sáu cân”, nghĩa là cao 5 feet 9 và nặng 167 lbs rưỡi, nghĩa là một anh người mẫu khá cao so với một người đàn ông Việt Nam thường thường bậc trung kèm số cân rất “chuẩn”. Nhân vật của Hồ Anh Thái có những số đo làm độc giả không chỉ kinh ngạc mà phân vân. Bóp, một nhân vật chính khác, cao hơn 6 feet và nặng gần 200 lbs:
-… Tôi xuống đến chân cầu thang, gặp thằng Bóp đang định đi lên. Kính đen gọng to. áo may ô đen. Quần soóc đỏ. Một gã người rừng Tarzan thực sự, cao mét tám lăm, nặng tám mươi tám cân… [Hồ Anh Thái, -Chương 2, https://isach.info/story.php?story=coi_nguoi_rung_chuong_tan_the__ho_anh_thai&chapter=0002]
Không những người lớn mà trẻ con cũng dị thường. Một em bé sơ sinh khác, cân nặng xấp xỉ 5 ký (10 pounds 8) khi chào đời:
-…Một thằng bé bầm tím nặng bốn cân chín lọt lòng mẹ nhất định không khóc… [Hồ Anh Thái, sđd, Chương 3.
Đứa bé này có thể “nhất định không khóc” nhưng bà mẹ “nhất định” phải khóc. Cứ trưng cầu dân ý của phụ nữ đã qua lần sinh nở là biết ngay. Đáng suy nghĩ hơn vẫn là lối diễn giải của tác giả. Ông viết:
Những chàng trai như thế phải đi vào cuộc chiến này, vừa tự hào vừa đáng tiếc làm sao. Giây phút ấy, Hoa bất chợt có ý nghĩ như một người mẹ. Cô sẵn sàng chịu ngàn lần thương tích và tai họa mà chiến tranh đang dội xuống đầu mình, miễn sao những chàng trai như thế kia được đưa ngay về hậu phương, được gửi đi học nước ngoài. vv.
Thế những chàng trai khác không “như thế”, không “cao gần một mét tám, nặng bảy mươi sáu cân” mà trái lại, nhìn vào khe song/trông anh ốm yếu ho hen [Phạm Duy, Phố buồn] thì không “đáng tiếc”?! Không đáng được sống sót để “gửi đi học nước ngoài”?!
Nói là nói thế thôi chứ có lẽ tôi biết dụng ý của tác giả: chiến tranh tiêu diệt tinh hoa của một quốc gia. Điều đáng tiếc là, qua ông, chỉ có Miền Bắc mới có loại tinh hoa “vừa tự hào vừa đáng tiếc” cần bảo vệ. Đó là chưa nói tới chi tiết người lính (mà lại là lính thám báo) không dám nổ súng để gây tiếng động nhưng “nổi lửa” nướng thịt khiến khói lan mùi bay. Thêm vào đó, Hoa lại “có ý nghĩ như một người mẹ” thì than ôi, theo tôi, thậm tuyên truyền kiểu “bà mẹ thành đồng chống Mĩ-Ngụy”. Tình yêu với một người đàn ông và tình yêu (hay tình thương) với các con là 2 thứ tình khác nhau. Trong lúc thập tử nhất sinh ấy, việc ưu tiên là làm thế nào để cứu người tình và cứu mình với tình yêu đã đập nhịp bằng chiếc bào thai. Bởi thế, Hồ Anh Thái chưa chắc hơn ai nổi về kinh nghiệm chiến trường. Tôi đã có dịp ngồi cả đêm trong một căn nhà khi bạn tôi dẫn lính đi tuần tiễu trong một đêm mưa nhòe nhoẹt, đã ra đến Cổ thành Quảng Trị rất sớm:
Cổ Thành Quảng Trị
Trời bùng bục
gió lền bụi cát
chân người bước rầm rập
rầm rập ngoài thành quách cổ.
Ðá lăn chuồi
tấn sát chân tường lún gạch xanh rêu
ngàn ngàn năm ngợp trong một chớp mắt.
Chốn bất ưng
người ta giả tảng mà đi tới
anh cũng giả tảng mà đi tới
có thấm nhớ em đã muộn màng
ích chi đặt bày điều trăm năm, em ôi!
Chạng vạng
trừng mắt ngó thinh không im ắng
thây vùi ló mặt
gọi hồn oan uổng lặc lìa
chó tru hoảng.
Linh hồn nào
chưa chịu đầu thai
lén lút ở lại
chờn vờn trên đầu cây ngọn cỏ
rình người bước rầm rập
rầm rập trong thành quách cổ …
[Nguyễn Tà Cúc, 1973-2025]
Tôi đã có dịp vào quân y viện nhiều lần, chứng kiến người lính dưỡng thương với nhiều tâm sự. Tôi không bao giờ quên cảnh tượng một anh giở chiếc chân đắp, cho thấy một chân bị cắt quá đầu gối. Lúc đó thì biết nói gì bây giờ? Hát gì bây giờ? Tặng gì bây giờ? Tôi chỉ còn biết nắm chặt tay anh trong khi chính anh lại cố an ủy. Đến đây tôi xin được mạn phép dẫn chứng để, một phần chứng minh tôi không bịa đặt về những cuộc thăm viếng đã ghi lại trong sinh hoạt Miền Nam bên này; phần khác, để các nhà văn bên kia như Hồ Anh Thái hiểu rằng khi viết về chiến tranh thì nên cẩn thận và…lịch sự hơn bằng cách nghiên cứu trước khi viết:
– … Cuối tuần. Hai ngày thứ bảy và chủ nhật hay có những phái đoàn của học sinh các trường trung học thường xuyên nhất là Gia Long tới thăm và tặng quà cho lính. Tất nhiên là lính rất khoái vì ngoài quà tặng còn được những người đẹp tới trò chuyện, đôi khi có ca hát “bỏ túi” rất là “ấm lòng chiến sĩ”… (NHV, “Những ngày bị thương nằm Tổng Y Viện Cộng Hòa, Ngày 28.11.2023 – https://dongsongcu.wordpress.com/2023/11/28/nhung-ngay-bithuong-nam-tong-y-vien-cong-hoa-nhv/ ]
Quà thì gia giảm nhưng luôn luôn có một bức thư thăm hỏi và một khăn tay nhỏ, màu trắng, rút chỉ để thêu “rua chữ I” quanh 4 cạnh khăn rồi thêu tắt 2 chữ “GL” vào một góc. Mũi thêu “rua chữ I” này cũng để áp dụng một trong những mũi thêu–mũi “xương cá đơn”, “xương cá kép” vv. — trong chương trình Nữ công Gia chánh mà chúng tôi phải học. Đám học trò con trai không phải học Môn này, trong khi chúng tôi vẫn phải học Môn Thể thao (leo dây, chạy vv.) như họ. Xong xuôi mới may viền mép khăn lại bằng mũi luông để giấu nốt chỉ. Nghĩa là phải may thêu bằng tay từ đầu đến cuối. Vải thì được nhà trường cung cấp. Kim và chỉ thì chúng tôi phải bỏ tiến túi. Cô nào sang thì mua chỉ hiệu DMC từ Pháp, sắc thắm hơn và sợi cũng mượt hơn. Chỉ thêu cũng nhất định màu trắng. Nghĩa là đồng nhất, không có chuyện đủ màu sặc sỡ. Vậy mà có cô bạn còn ráng điểm xuyết vài mũi thêu màu tím vào chữ “GL” vì màu tím là màu đại diện của trường Nữ Trung học này. Vụ “ca hát bỏ túi” thì được gọi là “văn nghệ đầu giường”, nếu không lầm. Thường thì các cô Sài gòn, cô nào mà không biết hát. Có cô còn hát rất hay. Chỉ có anh thương bệnh binh nào…tới số mới bị tôi tới thăm vì hoàn toàn không biết hát. Bù lại, trúng lô an ủi, lá thư có chữ viết và chiếc khăn thêu thì tạm được. Nhờ đó, tôi được thứ tội, lại có dịp hỏi các anh về đời sống chiến trận sau khi cho họ biết tôi muốn trở thành y sĩ phục vụ tại các bệnh viện quân đội. Một anh sĩ quan kể lại điều “kỳ cục” khi bắt được lính Miền Bắc:
– Có đứa chỉ khoảng 16, 17. Thấy tội nghiệp quá. Từ Bắc lén vô, núp rừng núp bụi, thì làm sao biết đường mà chạy. À, mà lạ lắm, có đứa khóc lóc, xin tôi bắn nó chết cho rồi, đừng ăn thịt nó. Tôi nạt, Bậy nà rồi cho nó ăn đỡ đói. Nó không ăn, cứ xin được theo tôi cho chắc ăn. Tôi phải kêu bạn tôi người Bắc tới kềm nó. Chắc nó bị động kinh nói sảng. Chớ làm gì có chuyện kỳ cục ăn thịt tụi nó. Mình đâu có đói hay rừng rú như vậy. Nó còn kể thiệt cho tôi nghe bị nhồi sọ là lính mình nhát. Dè đâu khi đụng trận, tụi nó mới biết tụi tôi đâu có nhát, rượt tụi nó chạy dài dài…
Đó là lần đầu tiên tôi được biết về loại tuyên truyền người lính chúng ta ăn thịt lính Miền Bắc. Hồi đó, tôi cũng nghĩ như anh sĩ quan, là do tù binh bị hoảng loạn quá mức; cho đến khi bắt đầu nghiên cứu về loại tuyên truyền này. Thế nên, tổng chi, tôi dễ dàng nhận ra mấy điều khả nghi thượng dẫn trong Cõi người rung chuông tận thế mà theo tôi, được sửa soạn cho điều rùng rợn cuối cùng. Trước khi bắt được Hùng, lính Miền Nam nhặt được con dao găm (rất sắc) của chính anh ấy. Ba người lính Miền Nam đánh đập Hùng dã man. Cuối cùng, Hoa (nhân vật nữ, người tình của Hùng), và cũng không ai ngờ nổi, một người lính Miền Nam lấy con dao găm của chính Hùng để rạch bụng moi tim moi gan. Cũng ngay tại đây, là đoạn chứng minh anh hoa phát tiết ra ngoài của tác giả. Ông dùng hai chữ “thành thạo” khi diễn tả người lính Miền Nam rạch bụng người lính Miền Bắc, nghĩa là người lính Miền Nam (và nhóm lính ấy) đã từng làm nhiều lần, rất nhiều lần. Trước đó, ông đã giáo đầu bằng “Một thằng cúi nhặt con dao, rút ra khỏi vỏ, liếc liếc lưỡi dao vào bàn tay như thử độ sắc…” Chưa ngưng được, vì chắc chưa tự tin vào tài thuyết phục độc giả hay tài thuyết minh của chính đương sự hoặc cả hai, Hồ Anh Thái lại tiếp tục bằng “Hai hột tinh hoàn thì được phân chia cho hai thằng chắc là cấp cao hơn.” A ha! Hóa ra “tim” và “gan” chưa quý bằng “hai hột tinh hoàn”?! Thưa ông Đệ nhị Bí thư kiêm nhà văn Hồ Anh Thái?! Tôi xin chấm dứt đoạn …phóng sự này bằng cách mượn lời một anh đồ nghèo đi xin gạo. Tương truyền rằng, có 1 anh đồ nhà ta túng bấn, bèn đến cửa quan xin gạo. Quan ông đi vắng. Quan bà chẳng thương thì chớ, còn mang nhiều thứ, không phải gạo, dọa đem cho. Đồ nghèo đáp lại bằng một bài thơ, đương nhiên, với câu cuối: Của ấy, thưa bà, để biếu ông.
Thiển nghĩ, sáng tạo là quyền đương nhiên của một nghệ sĩ, nhưng trong trường hợp này, loại tội ác chỉ thấy gán đặc biệt cho một bên Miền Nam cần được giải quyết một cách thỏa đáng và đến kỳ cùng. Theo tôi, muốn truy nã những kẻ phạm tội hầu mang công lý về cho tập thể nạn nhân—như Phùng Nguyễn từng đề nghị–quả sẽ quá dễ dàng với một chính phủ đã gửi hàng trăm ngàn quân cán chính Miền Nam vào tù và điều tra họ qua ba đời lý lịch với nhiều phương cách truy nã quá khứ hầu trừng trị tới tương lai của họ cùng gia đình họ. Chưa hết, Cõi người rung chuông tận thế được dịch ra Anh ngữ, Apocalyse Hotel, rồi phát hành vào năm 2012. Không những quyển này đã được dịch ra Anh ngữ mà còn được Tiến sĩ Wayne Karlin adapted/ hiệu đính và introduce/giới thiệu. Tôi trích dẫn đoạn ngắn được dịch sang Anh ngữ về người lính thám báo VNCH, từ lúc phát giác đến đuổi theo và ăn thịt Hùng, người lính Miền Bắc. Trước khi trích dẫn, tôi muốn nói tới tên của dịch phẩm vì hơi khác với nguyên tác. Cõi người rung chuông tận thế được dịch thành Apocalypse Hotel. Phần “Notes, ‘Introduction’” (Apocalypse Hotel, trang 127-129) cho thấy lời giải thích như sau:
–The literal translation of the title is awkward in English: “The apocalypse bell resounds in the human abode/Nếu dịch theo nghĩa đen của tên tác phẩm thì quả vụng về: “Tiếng chuông thời tận thế vang lên trong khu gia cư”. [Apocalypse Hotel/ Khách sạn thời tận thế, Dịch giả Jonathan McIntyre, Wayne Karlin hiệu đính & giới thiệu, trang 127, Nhà Xuất bản Texas University Press, 2012—Nguyên tác Cõi người rung chuông tận thế, Hồ Anh Thái, Nhà Xuất bản Phụ Nữ, Đà Nẵng, 2012]
Theo tôi, chữ “cõi” nên dịch là ‘realm” vì “abode” thường có nghĩa là “chỗ ở” hay “nơi cư ngụ”. Thế nên Cõi người rung chuông tận thế có thể dịch sang tiếng Anh The Apocalypse Bell Vibrates Throughout the Human Realm mà không có vẻ awkward/vụng về, lại giữ được chữ “Cõi” (người), một chữ hết sức quan trọng trong văn hóa Việt, vượt hẳn chữ “khách sạn” với ý nghĩa bị hạn chế. Nhà xuất bản Texas University Press, cũng sử dụng một tên tương tự khi giới thiệu bán sách: The Apocalypse Bell Tolls in the Human World [https://www.ttupress.org/9780896728035/apocalypse-hotel/]. Ngoài ra, câu giải đáp cho bản dịch có 1 tên khác với nguyên tác, có thể tìm thấy ở một đoạn được coi như lời giải thích của Wayne Karlin với báo chí Việt Nam:
-Theo dịch giả Jonathan R. S. McIntyre và nhà văn Wayne Karlin (ở vai trò hiệu đính), cuốn sách được đổi tên với hàm ý: “Thế gian này như một cái nhà trọ, một cõi tạm đang ngổn ngang trước những nguy cơ về đạo đức, về tinh thần, về điều kiện sống ngày càng đòi hỏi tranh đua khốc liệt”. Nó cũng trùng hợp, khi tiểu thuyết mở ra trong bối cảnh một khách sạn mang tên Apocalypse, nghĩa là Thiên Khải, đồng thời còn mang nghĩa ngày tận thế… [Võ Minh, “Cõi người rung chuông tận thế ra mắt độc giả Mỹ”, ngày 17.05. 2013 – https://www.nxbtre.com.vn/diem-tin/coi-nguoi-rung-chuong-tan-the-ra-mat-doc-gia-my-2531.html]
Tôi không có bản Anh ngữ của lời phát biểu này, nên không biết hư thực ra sao, nhưng phần dịch sang Anh ngữ của đoạn đã trích thì rất sát:
-… Hùng was still half submerged in the stream, unarmed and totally naked. Hoa almost called out, almost started to open fire at the scouts so Hùng could run for it, but logic quickly prevailed. This area of the forest had been considered free of Viet Cong for a long time. There weren’t any documents or letters in Hùng’s clothes. He’d just be seen as a North Vietnamese soldier who had become separated from his unit. Hùng threw himself into the water and started swimming downstream, away from Hoa’s hiding place. Spitting vulgarities, the scouts ran along the bank in pursuit. There were a few points at which the stream ran too shallow to swim, and Hùng had to run. The soldiers scrambled from rock to rock, clustering in the center of the stream, and surrounding Hùng. He ran into one of them, shoving him over, and smashing the scout’s head down into the water, so he lay motionless. But the others had regrouped and a moment later they were dragging Hùng’s writhing body up onto the shore, bruised and bleeding. As they questioned him, they rained kicks and punches down on him until he lost consciousness. When he came to, they started again. Hoa knew why they didn’t use their guns. They didn’t want the sound of a gunshot ringing out in the forest. What happened in the end Hoa never could have foreseen. She’d assumed that the scouts would drag Hùng off to a POW camp to continue their interrogation. Instead, the scout with the long dagger slashed it deftly across Hùng’s stomach. A horrifying scream burst from his mouth. High above, Hoa ground her teeth, nearly passing out. Two of the scouts shoved their hands into Hùng’s abdomen and dug out his organs. They lit a fire, roasting and eating his innards right there. His testicles were split between two of them who were probably higher ranking. This feast–which stretched so far beyond the limits of the bearable–finally ended. The squad of scouts dumped Hùng’s corpse back down onto the bank of the stream, gathered their comrade—half-living, half-dead— and left… [Apocalypse Hotel, trang 88, Dịch giả: Jonathan R.S. McIntire & Tiến sĩ Wayne Karlin hiệu đính/adapted và giới thiệu/introduce, Loạt “Modern Southeast Asian Literature”, Nhà Xuất bản Texas University Press, Hoa Kỳ, 2012 – Nguyên tác: Cõi người rung chuông tận thế, Hồ Anh Thái, Nhà Xuất bản Đà Nẵng, 2002, Việt Nam]
Như chúng ta có thể thấy, Apocalypse Hotel/ Cõi người rung chuông tận thế không chỉ được xuất bản bằng Anh ngữ, mà còn được xếp vào loat Modern Southeast Asian Literature/Văn chương Đông Nam Á Hiện đại. Mấy chữ Modern Southeast Asian Literature với Chủ biên (series editor) Wayne Karlin xuất hiện ngay trên trang 3 (trang 1 và 2 để trống) trước tên tác phẩm Apocalypse Hotel, trang 5. Các đoạn trích dẫn từ Hồ Anh Thái cho thấy huyền thoại “lính ngụy ăn thịt người” đã phổ biến từ Việt Nam ra thế giới, từ ngòi bút của một trong những nhà văn xứng đáng được coi là danh tiếng thuộc Văn học Miền Bắc, từ tiệm sách và thư viện trong nước tới tiệm sách và thư viện tỉnh lỵ hay đại học tại hải ngoại. Tôi đã tìm mượn được Cõi người rung chuông tận thế tại thư viện thuộc một thành phố có tiếng đông đảo dân Việt cư tại California.
Tôi mừng thay cho tác giả Hồ Anh Thái (và Wayne Karlin) khi Hồ Anh Thái để cho Hoa và cái thai sống sót. Cái thai trở thành nhân vật chính Mai Trừng-một cô gái xinh đẹp nhưng đeo lời nguyền của mẹ– suốt đời theo đuổi trừng trị bất cứ kẻ ác nào với sức mạnh bí ẩn và tuyệt đối. “Mừng thay” vì Hồ Anh Thái đã không cho Hoa bị giết khi mang thai vài tháng. Nếu thế thì Mai Trừng đã không có mặt hầu làm xương tủy/ pun intended cho ý nghĩa của Cõi người rung chuông tận thế khi Cái Ác sẽ bị tiêu diệt bằng sự tha thứ, không bằng sự trả thù. Nhưng cũng chính vì thế, tiểu thuyết này gẫy ngay từ đầu khi dùng 1 tội ác man rợ– một thứ tội ác vượt lên khỏi mọi thứ tội ác khác—đem gán cho cả tập thể lính Thám báo nghĩa là người lính VNCH. Mai Trừng có thể hỏa thiêu di thể của bố Hùng và mẹ Hoa để xin ngừng truy đuổi nhắm trừng trị kẻ làm Ác, bắt đầu hành trình tự giải thoát và cho người khác khỏi vòng trả thù miên viễn. Nhưng ai giải oan cho tập thể người lính VNCH? Ai đủ quyền năng hầu tha tội cho những tác giả, dù vô tình, đã treo tội ác lên cổ cả một thế hệ? Đoạn giong đi khắp cùng thế giới? Nếu giòng giõi của người lính VNCH muốn báo oán những kẻ đã vu oan cho thân nhân thì bao giờ mới chấm dứt được vòng oan nghiệt theo ý nghĩa cao đẹp của tác phẩm?
Bởi thế, tuy “mừng thay” cho Hồ Anh Thái nhưng “buồn thay” cho chúng ta, những người Việt từ Nam chí Bắc…không ăn thịt người, vì Cõi người rung chuông tận thế không chỉ là một cuốn tiểu thuyết được dịch ra Anh ngữ. Tác giả của nó còn là 1 trong 6 nhà văn Việt Nam được tuyển chọn trong Dictionary of Literary Biography, Volume 348: Southeast Asian Writers/ Từ điển Chân dung Văn học-Tập 348: Nhà văn Khu vực Đông Nam Á [Chủ biên: David Smyth, Nhà Xuất bản Gale Cengage Learning, 2002]. 6 nhà văn này được giới thiệu theo thứ tự ABC: nhà văn Dương Thu Hương, trang 44-50; nhà văn Hồ Anh Thái, trang 69-73 do Wayne Karlin giới thiệu, có nhắc đến Cõi người rung chuông tận thế, trang 72-73; nhà văn Lê Minh Khuê, trang 132-136 do Wayne Karlin giới thiệu; nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, trang 198-202; nhà văn Nguyễn Minh Châu, trang 203-205 và nhà văn Phạm Thị Hoài, trang 218-221.
Hiện tượng “Lính ngụy ăn thịt người” trong tác phẩm của vài nhà văn Miền Bắc quan trọng đến thế quả đã ám ảnh Phùng Nguyễn, đại diện bằng ít nhất mấy bài viết thống hận kèm phẫn nộ.
Không chỉ nhà xuất bản tại Việt Nam hay Hoa Kỳ, cả Phùng Nguyễn và tôi đều dư biết Nhà Xuất bản Tiếng Quê Hương (Virginia), do nhà báo Uyên Thao đứng mũi chịu sào, lại chính là nơi đã ấn hành Đi tìm nhân vật có đoạn “bọn ngụy ăn thịt người” sau khi tác phẩm này bị ngăn chận trong nước (?)
Tôi trích dẫn đoạn “bọn ngụy ăn thịt người” trong tác phẩm thượng dẫn:
– … Hai ngày sau bọn địch phản công. Cả trung đội mình bị băm nát. Thằng Thiết bị đạn găm đầy mình, vừa đưa tay ấn ruột vào, vừa bóp cò. Bọn ngụy ào lên như lũ quỷ, quyết bắt sống thằng Thiết. Như sau này anh em trinh sát kể lại, chúng quay thằng Thiết như quay một con lợn rồi róc thịt uống rượu trả thù cho đồng đội. Nó đã hy sinh như một người anh hùng trên chiến trận… [Tạ Duy Anh, Đi tìm nhân vật, trang 136, Nhà Xuất bản Tiếng Quê Hương, 2003, Virginia-Hoa Kỳ]
Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh vào loại văn chương sử dụng vào mục đích “bọn ngụy ăn thịt người”: Người lính VNCH không chỉ là “ngụy” mà còn là “lũ quỷ”. Theo tôi, ngòi bút của Tạ Duy Anh cống hiến bạn đọc hình ảnh người lính VNCH bị gọi chung bằng “ngụy”, cũng ghê rợn như hình ảnh moi gan, tim và “2 quả tinh hoàn” của Hồ Anh Thái. Cứ tưởng tượng một nhóm người (bất cứ…người gì, Nam hay Bắc) “róc thịt” một người khác, từ từ từ từ từ từ từ từ từ từ, từ khi còn nguyên vẹn hình hài cho tới lúc chỉ còn lại một bộ xương nham nhở. Mùi thịt người ra sao? Và rượu ở đâu mà sẵn thế? Rượu đế Miền Nam hay rượu …mơ tịch thu của bộ đội sinh Bắc tử Nam? Uống từng hớp hay ngửa cổ tu ừng ực từng nửa chai? Quả thật, tôi thắc mắc: khi viết những giòng này, Tạ Duy Anh đã căn cứ trên dữ kiện nào, của ai, một cách đích xác? Ông đã có dịp tiếp xúc với bao nhiêu người dân/người lính Miền Nam? Hay chỉ gặp đôi ba người từ Miền Nam đã không phản đối, lại giúp ông phổ biến loại hình ảnh đó? Như Uyên Thao, một trong những người sáng lập Nhà Xuất bản Tiếng Quê Hương sau 1975? Trả lời biên tập viên Mặc Lâm của Đài Á châu Tự Do/RFA, Uyên Thao giải thích cho thính giả và độc giả biết về lý do ấn hành Đi tìm nhân vật:
– Nhà văn Uyên Thao: Tôi nghĩ là trong số những người cầm bút ở trong nước mà có những tác phẩm mình cần phải giới thiệu với mọi người thì Tạ Duy Anh là một trong số những người đó. Tủ sách Tiếng Quê Hương in hai tác phẩm của Tạ Duy Anh. Cuốn đầu tiên là cuốn Đi Tìm Nhân Vật và cuốn thứ nhì là Sinh Ra Để Chết… [Mặc Lâm/ Biên tập viên RFA, “Tủ sách Tiếng Quê hương và nhà văn Uyên Thao”, ngày 19.10. 2013 – https://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/uyen-thao-n-the-voice-of-motherland-ml-10182013144959.html]
Câu trả lời của Uyên Thao thật ra chỉ là sự lập lại đoạn cuối của “Vài nét về tác phẩm” dẫn vào Đi tìm nhân vật:
-… ĐI TÌM NHÂN VẬT xứng đáng với một vị thế đáng kể bên cạnh các tác phẩm giá trị hiện nay của văn học Việt Nam. Đây là lý do thứ nhất khiến Tủ Sách Tiếng Quê Hương quyết định ấn hành tác phẩm này. Ý thức trách nhiệm xã hội không cho phép chúng ta để những công trình tim óc đáng trân trọng của người cầm bút chìm lấp vào lãng quên do hành vi vùi dập của một tập thể bạo quyền. Kế tiếp, chúng tôi cũng không thể sơ sót với bạn đọc khi đã tự chọn công việc tìm kiếm để giới thiệu những tác phẩm đáp ứng đúng nhu cầu đọc sách của mọi người. Tiếp nữa, quan trọng hơn, chúng tôi nghĩ rằng ĐI TÌM NHÂN VẬT là bức chân dung không thể thiếu đối với các thế hệ mai sau khi muốn nhìn lại cuộc sống đích thực của đất nước chúng ta ở giai đoạn hiện nay. Cuối cùng và cấp bách hơn hết là bổn phận chuyển giao lời kêu gào bi thiết của bức thông điệp giữa những người còn mang nặng mong ước đổi đời cho quê hương. Xin mời các bạn bước vào thế giới tiểu thuyết của Tạ Duy Anh. [Tạ Duy Anh, “Vài nét về tác phẩm”, Đi tìm nhân vật, trang VII-XV, Tủ sách Tiếng Quê Hương xuất bản, Virginia, Hoa Kỳ, 2003]
Chỉ tiếc “bức thông điệp” và “bức chân dung không thể thiếu đối với các thế hệ mai sau” lại có đoạn bọn quỷ-lũ ngụy lính VNCH man rợ đến nỗi “róc”, “nướng” rồi ăn thịt người lính Miền Bắc-đầy dũng cảm. Tuy thế, Trần Phong Vũ, một nhân vật quan trọng của Tủ sách Tiếng Quê Hương, phải thú nhận đã… đầu hàng khi việc phổ biến Đi tìm nhân vật thất bại tại hải ngoại. Ông đặt giả thuyết:
– … Riêng cuốn tiểu thuyết ĐI TÌM NHÂN VẬT, tủ sách Tiếng Quê Hương đã được hân hạnh giới thiệu với độc giả hải ngoại từ năm 2003. Nhưng điều đáng tiếc là nó đã không được nhiều người đón nhận. Có thể vì nhan sách không tạo được sự chú ý của người đọc. Cũng có thể vì nhiều nguyên nhân khác (…) ĐI TÌM NHÂN VẬT không thể bị rơi vào quên lãng. Công trình tim óc này của tác giả họ Tạ cần được đặt vào một vị thế xứng đáng bên cạnh các tác phẩm giá trị hiện nay của văn học Việt Nam. [Trần Phong Vũ, “Nhân một lần đọc lại một tuyệt phẩm của Tạ Duy Anh bị bỏ quên”, Nam California, Một ngày năm 2008- https://tiengquehuong.wordpress.com/wp-content/uploads/2014/05/ditim-nhanvat.pdf ]
Tôi đã dụng công đọc áng văn chương bất hủ dài đằng đẵng (16 trang) của Trần Phong Vũ ca ngợi nhiệt liệt Đi tìm nhân vật mà vẫn không thấy giòng nào nhắc đến đoạn thượng dẫn. Hay tôi lầm? Trần Phong Vũ liệu có đọc hay có còn nhớ 2 chữ “lũ quỷ”-Miền Nam mà Tạ Duy Anh gán cho “bọn ngụy róc thịt uống rượu” hầu đối chiếu với “người anh hùng trên chiến trận” Thiết-Miền Bắc? Cả Uyên Thao và Trần Phong Vũ đều là người Miền Nam và thành tâm của các ông trong việc cổ võ cho một Việt Nam tươi sáng hơn là điều không thể chối cãi được. Tôi chỉ có thể suy đoán bằng giả thuyết của chính tôi: Vì xuất thân từ một Miền Nam nhân bản, khai phóng và rộng lượng, họ không nhận ra nổi những ngón đòn ác hiểm nằm vùng ngay trong những nơi bất ngờ nhất, càng bất ngờ khi tác giả lại có vẻ …vô hại và rõ ràng có thiện ý.
Trong bài “Khi nhà văn không chỉ là kẻ đồng lõa”, Phùng Nguyễn chỉ đích danh Tạ Duy Anh và Hồ Anh Thái–hai trong số tác giả Miền Bắc đã gieo rắc thứ huyền thoại “láo khoét và vô đạo đức” (sic) –qua nhãn quan của một người lính tác chiến Miền Nam. Tư cách một người lính tác chiến từ Miền Nam này rất quan trọng vì từ Hồ Anh Thái, Tạ Duy Anh đến Uyên Thao, Trần Phong Vũ sẽ phải hiểu rằng nếu họ có quyền sáng tác và phổ biến, thì Phùng Nguyễn sẽ có quyền chất vấn. Tiếp đó, quyền phản bác là quyền của họ, dĩ nhiên. Điều tôi muốn nói ở đây, là từ nay, trong lịch sử chúng ta (Miền Nam hay Miền Bắc, quốc nội hay hải ngoại) đã có sự chất vấn chính thức từ một sự phân tích đáng tin cậy của một người lính-tác chiến-Miền Nam trong-cuộc. Ông đặt dấu hỏi về khuôn mẫu “lính thám báo VNCH – ăn thịt lính Miền Bắc” trong sáng tác của cả hai:
– … Phần còn lại là một sao chép vụng về và mâu thuẫn từ một điều đã nghe/đọc/nhặt từ một hay nhiều nơi nào khác. Sao chép? “Thám báo nguỵ” và “ăn thịt người” luôn luôn là cặp bài trùng trong “cổ tích dân gian” kể từ hậu bán thế kỷ 20! Mâu thuẫn? Trong đoạn văn trích dẫn ở trên, có hai chi tiết không ăn khớp:
Tất nhiên Hồ Anh Thái chưa từng ở hay đưa trí tưởng tượng của mình vào cái khung cảnh ông đang diễn tả như là một người lính, thám báo “nguỵ” hay trinh sát “Việt cộng.” Cho nên ông không chỉ rón rén mồi lửa mà “nổi lửa” nướng thịt người và trong cùng một lúc lại rất cẩn thận không dùng đến súng vì sợ gây tiếng động! Ông không hề biết gì về khoảng cách và tốc độ mà khói và mùi thịt [người?] cháy khét có thể đạt đến! Tôi ngạc nhiên là những tên “thám báo nguỵ” này đã không ăn… sống nhân vật Hùng, vốn có thể làm cho câu chuyện trôi chảy hơn! Khi Jorge Amado, trong “Phép lạ của bầy chim”, tả Ubaldo Capadócio cu dái lòng thòng bay lên trời cùng với bầy chim đủ loại [một cách rất đáng tin], đó là hư cấu. Cần phải dùng đến một từ khác để diễn tả chính xác hơn công trình “sáng tạo” của nhà văn Hồ Anh Thái.[6] Không thể nói là tôi đã không cảm thấy xúc phạm ở cương vị một người lính của Quân lực Việt Nam Cộng hoà, một tập thể nay đã thuộc về lịch sử, và trên hết, như là một người Việt Nam khi đọc những đoạn trích dẫn nói trên. Cái huyền thoại “lính nguỵ ăn thịt người,” đối với tôi, là chuyện láo khoét, bắt đầu với những tuyên truyền dối trá vào những thời điểm rất sớm trong chiến tranh, và trong khi vô cùng bẩn thỉu khi xét trên các phương diện văn hoá và đạo đức, đã được áp dụng triệt để với mưu đồ gán ghép cái đầu ác thú lên thân thể của kẻ thù. Những tuyên truyền láo khoét và vô đạo đức này, bất kể xuất phát từ bất cứ từ phe nào, nếu có ai đó cho rằng cần thiết trong giai đoạn chiến tranh, lẽ ra phải được chấm dứt và mầm độc của nó phải được hoá giải ngay lập tức vào ngày hôm sau của ngày tàn cuộc chiến. Điều này đã không hề xảy ra, và càng tệ hơn nữa, điều trá nguỵ được tiếp tục củng cố, nuôi dưỡng không chỉ bởi những đầu óc ngu muội mà còn bởi những người mà dựa vào chức năng của họ, trí tuệ và khả năng tư duy phải vượt trội hơn những tầng lớp khác trong xã hội. Tôi muốn nói đến nhà văn, nhà thơ, nghệ sĩ sáng tác, và trong một giới hạn nhất định, trí thức. Những người vẫn đang tin tưởng vào huyền thoại “lính nguỵ ăn thịt người” (hoặc những huyền thoại ghê rợn nhắm vào phe này hay phe kia trong cuộc chiến) sẽ nhảy lên đòi tôi trưng ra bằng chứng về sự “vô tội” của họ. Bằng chứng? Trách nhiệm đưa ra bằng chứng thuộc về kẻ buộc tội, phe công tố, những người đã dựng lên câu chuyện hoang đường này trước tiên, những người nay hoặc đã qua đời hoặc quá hèn nhát để đứng ra thú nhận tội ác làm ô nhiễm văn hoá dân tộc của mình. Về phần mình, tôi không có bằng chứng nào hết! Nói cách khác, bằng chứng của tôi về sự láo khoét và vô đạo đức của cái gọi là “lính nguỵ ăn thịt người” chính là sự thiếu vắng bằng chứng về cái tội ác vượt quá ranh giới giữa người và thú được đổ lên đầu cái tập thể bất hạnh này. Những người đã, đang, và sẽ tiếp tục tin tưởng, viết xuống, hoặc nói về cái tội ác tưởng tượng này, có trong tay mình những gì? Có bao nhiêu chứng cớ cụ thể hoặc có thể kiểm chứng được về “lính nguỵ ăn thịt người” trong những phòng trưng bày “tội ác Mỹ nguỵ” trên cả nước? Hình ảnh? Tên tuổi nạn nhân? Ngày tháng, nơi chốn? Nhân chứng? Đã có những kết quả nào đến từ nỗ lực của nhà nước sau chiến tranh trong việc tầm nã hung thủ để thực thi công lý? Bao nhiêu phiên toà đã được dựng lên để xét xử những con “ác thú kinh tởm” này? Bọn chúng gồm những ai, tên tuổi, ngày tháng tội ác xảy ra, bản cung khai? Tôi e rằng không có bằng chứng nào hết ngoài những lời kể lể ỉ ôi đi kèm với những thề thốt long trọng về sự chân thực của những câu chuyện bịa đặt! Vạn nhất nếu có, và điều này vô cùng quan trọng, sẽ là vô cùng hiếm hoi và vô cùng cá biệt, không bao giờ đủ để bất cứ một ai có thể gán ghép những tội ác phi nhân tính này như là một thuộc tính lên bất cứ một tập thể, một nhóm người nào hết…” [Phùng Nguyễn, “Khi nhà văn không chỉ là kẻ đồng lõa”, Da Màu, Ngày 2. 8.2008, https://damau.org/8438/khi-nha-van-khong-chi-la-ke-dong-loa * Chữ in ngả là của tác giả]
Ngày 19.10. 2015, bài “Đúc khuôn tội ác” được đăng trên Blog “Rừng & Cây” thuộc Trang Mạng của cơ quan VOA Tiếng Việt. Ngày 22.10.2015, đến lượt bài “Ác mộng trăm năm”. Ngày 23.10.2015, hai bài này gộp làm một thành “‘Từ giấc mộng mười năm’ đến ‘Ác mộng trăm năm’” đặng đăng trên Da Màu. Chưa đầy 1 tháng sau, ngày 17.11.2015, ông qua đời đột ngột tại tiểu bang Maryland. Chưa đầy 1 năm sau, ngày 23. 9. 2016, quyển Cõi người rung chuông tận thế đoạt “Giải Sách Hay” về mục Văn Học. Độc giả có thể xem một phần thông báo của Ban Tổ chức như sau:
-Kết quả Giải Sách Hay 2016
THÔNG CÁO BÁO CHÍ
CÔNG BỐ KẾT QUẢ BÌNH CHỌN GIẢI SÁCH HAY 2016
(Do Viện IRED và Quỹ Phan Châu Trinh tổ chức vào ngày 18/09/2016 tại TP. HCM)
(…) 6. Hạng mục sách Văn học
Hội đồng trao giải Giải Sách Hay:
Nhà văn hóa Nguyên Ngọc
Tiến sĩ Chu Hảo
Tiến sĩ Quách Thu Nguyệt
Nhà nghiên cứu Bùi Văn Nam Sơn
Tiến sĩ Giản Tư Trung …
[https://sachhay.org/tin-tuc/ket-qua-giai-sach-hay-2016]
Phần tôi, tôi thành thực không tin cả Hồ Anh Thái lẫn Tạ Duy Anh—hai nhà văn có thực tài– lại ác độc, hèn nhát hay đê hạ đến nỗi cố ý vu báng một kẻ thù đã tử trận hoặc không còn tự vệ được nữa, dù còn sống. Tuy thế, dù vô tình, nếu không chứng minh được, họ đã triệt tiêu tư cách văn chương khi kết án một tập thể vô tội khiến Phùng Nguyễn, người lính thuộc tập thể đó, có quyền đòi hỏi chứng cớ cụ thể. Nhìn xa hơn, họ là thí dụ điển hình của một chế độ đã thành công trong chính sách chuyển hư thành thực, đến nỗi những người xem ra bình thường lại có thể tin nổi những việc rất bất bình thường. Nói một cách khác, không thể nhân danh văn chương mà muốn viết thế nào thì viết. Không chỉ dập dìu trong cõi sáng tác của nhà văn, những tin tức loại này đã được bắt đầu rồi củng cố trong tâm khảm của dân chúng Miền Bắc—từ phó thường dân đến Phó Đại sứ [7] Hồ Anh Thái — như thí dụ chứng minh sau đây từ hồi ký Vùng đất ngục tù của sĩ quan Miền Nam Nguyễn Vạn Hùng. Bởi thế, theo tôi, việc kiểm chứng sáng tác của nhà văn Miền Bắc về vấn đề này quả quá dễ dàng: hãy so sánh sáng tác của họ với các cuộc tiếp xúc giữa dân chúng địa phương Miền Bắc và tập thể người Tù Cải tạo, trong số này dĩ nhiên phải có rất nhiều người lính VNCH và “lính thám báo”. Nhiều cuộc tiếp xúc ấy đã cho thấy, không còn nghi ngờ gì nữa, huyền thoại “lính ngụy, bọn ngụy ăn thịt người” quả đã được phổ biến từ chính phủ Miền Bắc.
2.2 Vùng đất ngục tù: Nơi phát sinh huyền thoại “lính ngụy, bọn ngụy ăn thịt người”
Tác giả Nguyễn Vạn Hùng được động viên vào Khóa 17 Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức 1963-1964. Ông phục vụ tại tiểu khu Phước Long (1964-1967) trước khi thuyên chuyển về nhận chức Phụ tá Trưởng Phòng Tuyên úy Công giáo kiêm Giám học trường Tiểu học Trần Hưng Đạo từ năm 1967 đến ngày 30 tháng 4. 1975. Ông bị đưa lên Yên Bái rồi sau này, bị giam tiếp tục tại trại Hà Tây- Hà Đông, Miền Bắc. Ông bị giam từ 1975 đến đầu năm 1982, đoạn vượt biển đến Hoa Kỳ vào năm 1984. Ông cho chúng ta biết về kinh nghiệm trực tiếp đối đấu với huyền thoại “ăn thịt người”:
-… Trong khi chúng tôi mở to mắt quan sát xã hội thì những người của xã hội đó cũng bắt đầu nhận thấy sự có mặt của chúng tôi ở bên vệ đường. Có nhiều người bước lại gần chúng tôi hơn. Họ lặng lẽ nhìn, trong ánh mắt của họ tôi thấy một vẻ gì không tự nhiên hiện lên. Có người xăm xăm bước tới, khi đến gần bỗng dưng đứng lại như chiếc xe bị thắng bất ngờ. Hình như có một cái gì vô hình nhưng khủng khiếp đã ngăn chặn họ đứng lại. Có người thì nhìn chúng tôi vì tò mò, có người lại nhìn chúng tôi với vẻ sợ hãi. Ít phút sau đó, một cụ bà trạc ngoài sáu mươi, mặc chiếc áo vải nâu bạc màu, nhiều mảnh vải vá chằng vá đụp đã gần như phủ kín khắp màu áo nguyên thủy. Bà cụ này tiến đến sát đám chúng tôi hơn. Một số anh em chúng tôi muốn gây thiện cảm, đã cất lời chào hỏi: – Chào cụ ạ.
Bà cụ nghe chúng tôi “nói tiếng người” có vẻ ngạc nhiên, nhìn ngó lom lom. Rồi bỗng bà giơ tay chỉ vào một anh ngồi ở đầu toán, mặc trên người bộ áo biệt động quân mà bọn cán bộ trại cấp phát cho chúng tôi lúc còn ở Long giao. Giọng bà cụ cất lên the thé: – Bọn chúng mày là ngụy đấy à?
Chúng tôi im lặng, ngó nhau, liên tưởng đến trận mưa đá củ đậu hôm chờ xe lửa ở ga Hải phòng. Bà cụ nói tiếp: – Thế anh này ăn mỗi ngày bao nhiêu gan người mà trông anh to béo thế?
Anh em chúng tôi vẫn ngồi yên, và thấy rõ hơn có một cái gì bất ổn khi bà phát âm tiếng “anh” với anh bạn kia. Những người quây chung quanh chúng tôi hình như thấy bà cụ “can đảm” đến gần chúng tôi, lại nói chuyện với chúng tôi, nên có một bà mạnh dạn hơn, tiến tới được mấy bước để đứng gần bà cụ già này. Rồi một người đàn ông từ phía sau lưng bà cụ cũng bước lên, chỉ vào mặt một anh bạn khác, cũng tương đối to con ngồi gần tôi:– Có phải anh khỏe và béo thế này là do anh uống máu người thay nước lã mỗi ngày không?
Chúng tôi vẫn ngồi yên lặng, quan sát. Thấy thế, những người từ phía sau hình như không còn sợ hãi chúng tôi nữa nên cùng tới ngang chỗ bà cụ già, rồi thì ồn ào hỏi chúng tôi những câu như mỗi ngày chúng tôi cưỡng hiếp bao nhiêu người đàn bà; mỗi người đã ăn bao nhiêu cái mật người; đã đốt và cướp bao nhiêu nhà cửa của đồng bào vô tội; đã ném vào lửa bao nhiêu trẻ em vừa mới chào đời… Tóm lại giờ này thì chúng tôi biết tại sao lúc đầu họ vội vã dừng đứng chân họ khi chợt cảm thấy đã quá gần chúng tôi. Thì ra trước mắt những người dân này, chúng tôi không phải là người Việt Nam, chúng tôi không còn là con người của Chúa và Phật sinh ra. Đảng và nhà nước đã dạy họ rằng chúng tôi là một bằy ác quỉ, chuyên ăn thịt người, chuyên giết người, hãm hiếp… Anh em chúng tôi vẫn ngồi im, kín đáo quan sát và nghe những lời họ nói. Lúc ấy, một tên công an áo vàng từ trong chợ có lẽ thấy đám đông bu lại quanh chúng tôi nên hắn rảo bước đi tới. Những người dân thấy hắn, ra hiệu nhau rồi lặng lẽ tản ra, lảng dần mỗi người một hướng. Những tháng sau, nhân khi đi lao động ngoài trại tù, thỉnh thoảng chúng tôi có dịp gặp gỡ, một hai người dân địa phương. có khi chúng tôi gặp họ cũng lên rừng đốn củi như chúng tôi. Cũng có khi trong lúc di chuyển trên đường, tình cờ gặp họ và mau lẹ trao đổi dăm ba câu chuyện. Những lần đầu họ gặp chúng tôi, tôi thấy họ thường hay chăm chú quan sát, họ coi chúng tôi như không phải là người Việt Nam, những người vốn cùng với họ là anh em ruột thịt của một Quốc tổ Hùng Vương, của anh hùng Lê Lợi. Trong ánh mắt nhìn của họ, chắc chắn chúng tôi là những con thú đi bằng hai chân và biết nói tiếng Việt Nam. Thậm chí, có những trẻ em khi thấy chúng tôi phải sợ hãi tránh dạt sang bên kia đường, y như sợ chúng tôi đói quá, có thể vồ lấy em, moi gan, uống máu ngay tại chỗ. Nhưng, dần dần, theo thời gian, những lần gặp dân chúng sau này, những nghị ngại kể trên hình như đã giảm dần rồi. Một vài người đã bắt đầu có dấu hiệu thiện cảm đối với chúng tôi. Tiến xa hơn, có những ông cụ già đã cam đảm dúi vào tay chúng tôi những dúm thuốc lào khi gặp nhau trong lúc vắng vẻ ở trên rừng. Sau này, nhờ những lần nói chuyện với đồng bào, chúng tôi được biết khu vực chung quanh vùng đất ngục tù của chúng tôi trước đây chỉ có một số đồng bào thiểu số, sắc dân Mường, Mán làm rẫy sinh sống. Mãi đến sau năm 1954, cộng sản chiếm được một nửa đất nước, chúng đã ra tay đàn áp các giáo dân Thiên Chúa Giáo vùng Bùi Chu, Phát Diệm bằng cách tịch thu nhà cửa, ruộng đất và đầy ải họ lên biệt cư tại đây với những danh từ hoa mỹ như kinh tế mới, như mở rộng vùng canh tác “rừng vàng biển ngọc” của tổ quốc. Nhưng thực chất là đi đầy. Người dân Bùi Chu, Phát Diệm đã phải chấp nhận cuộc sống sơ khai như những người Mường người Mán. Bao bọc bởi rừng thiêng và núi non trùng điệp, nhiều người đã bỏ mạng oan ức và những người còn sống, phải ra sức phát rừng, cào đất mà sống. Do đó, trong tâm hồn họ, đặc biệt là những người lớn tuổi, vẫn còn căm thù cộng sản, vẫn hy vọng có ngày tình thế sẽ lật ngược (…) Một hôm, trại cắt đi công tác một toán bốn người, trong đó có tôi, lên rừng chặt cây về làm nhà. Chúng tôi đã gặp giữa rừng một ông cụ già, đang đi thơ thẩn, tìm kiếm. Hỏi chuyện thì hóa ra ông cụ đang đi tìm những cây lá để mang về làm thuốc nam, chữa bệnh cho đứa cháu cưng của cụ, đau đã lâu mà không có thầy có thuốc. Ông cụ này chúng tôi đã gặp vài lần trước đây. Hôm nay cụ vẫn mặc bộ bà ba nâu như mọi khi, làm tôi có ý nghĩ như cụ chỉ có một bộ đồ duy nhất. Cụ hay cho những anh em cải tạo thuốc lào. Giữa cảnh rừng vắng vẻ, cụ có vẻ ung dung hơn nên mời anh em chúng tôi cùng hút thuốc. Tôi nhìn nét mặt cụ, vẻ mặt cương nghị, vầng trán cao, phảng phất một phong thái của người có học và đã từng một thời khá giả. Trong câu chuyện hôm đó, tới nay tôi còn nhớ như in lời cụ nói: “Suốt mấy chục năm qua, chúng tôi nghe đài trong Nam, chúng tôi chờ đợi các anh ra giải phóng chúng tôi, ai ngờ hôm nay các anh ra đây lại với tư cách này.” Lời nói trăm nỗi xót xa, là tâm sự của cụ, là tâm sự của đa phần đồng bào miền Bắc khiến lòng chúng tôi đau nhói. Khi chiếc điếu cầy được chuyền tay đi đủ vòng để mọi người cùng rút những khói thuốc vào buồng phổi, cùng uống những dư vị đắng cay vào lòng, ông cụ mới chậm rãi nói tiếp: “Các anh là những người vô trách nhiệm, không những vô trách nhiệm với đồng bào trong Nam và còn vô trách nhiệm với cả đồng bào miền Bắc chúng tôi nữa. Biết bao nhiêu người miền Bắc đã thoát khỏi ngục tù cộng sản, vào miền Nam, vậy mà chưa đủ cho các anh thấy kinh nghiệm sống với cộng sản sao? Các anh đã chiến đấu như thế nào để rồi thua, hả?” Nghe y như lời cha mắng con. Chúng tôi chấp nhận ở cương vị những đứa con ngu dại đó, ngồi nhận lỗi với cha già trước bàn thờ tổ quốc. Một anh trong bọn nóng nẩy hơn đã ào ào giải thích với ông cụ là đám người trẻ chúng tôi không hèn, chỉ những thằng đầu sỏ hèn mạt mà thôi. Một người khác giải thích cho ông cụ về cái thế quốc tế mà nước Việt Nam chúng ta, một thân phận nhược tiểu, nên đã bị siêu cường đồng minh bán đứng cho cộng sản. Ông cụ gật gù, chậm rãi: “Đúng, thời nào thì cũng có những người anh hùng cái thế. Vị anh hùng nhất định sẽ xuất hiện lúc này. Từ Quang Trung Nguyễn Huệ tới nay đã hai trăm năm rồi…” … [Nguyễn Vạn Hùng, Vùng đất ngục tù: Hồi ký Tù Cải tạo, trang 37-43, Nhà Xuất bản Thời Luận, 1988
* Chú thích của Nguyễn Tà Cúc: Nhà Xuất bản Thời Luận phát sinh từ Nhật báo Thời Luận do nhà văn/ đạo diễn/giáo sư tại Đại Học Minh Đức Đỗ Tiến Đức làm giám đốc và Chủ nhiệm kiêm Chủ bút. Nhật báo này là một trong những nhật báo có uy tín lâu đời nhất tại hải ngoại với sự góp sức của gia đình và bà Đỗ Tiến Đức (đảm trách phần Trị sự). Gia đình ông vượt biển sang Hoa Kỳ vào khoảng năm 1985.]
Giở bất cứ một hồi ký của người tù cải tạo nào cũng có thể được đọc chi tiết “lính ngụy ăn thịt người” hoặc “bọn ăn thịt người” tương tự. Linh mục Phêrô Phan Phát Huồn/Phó Giám đốc Nha Tuyên úy Công giáo (1926, Huế-ngày 16.10.2015, Long Beach, California), bị giam 13 năm tù sau 1975, ghi lại:
– … Qua sự tiếp xúc với chúng tôi, các cháu hình sự cũng như cán bộ mới hiểu rõ chúng tôi là ai, bây giờ họ biết chúng tôi không phải là bọn ăn thịt người như Việt cộng tuyên truyền cho họ… [Linh mục Phan Phát Huồn, AKA và THẬP GIÁ Ai thắng ai?, trang 215, The Vietnamese Redemptorist Mission/Dòng Chúa Cứu Thế xuất bản, 1994, California]
Thế nên, tôi tự hỏi: có phải chi tiết “lính ngụy ăn thịt người” bị đưa vào nhiều hơn 1 tác phẩm của các tác giả Miền Bắc vì loại tin tức này đã được hệ thống hóa nhắm phổ biến quá lâu và quá rộng lớn bằng Cộng sản? Khi phân tích sự mâu thuẫn giữa hệ thống tuyên truyền—một hệ thống mà Tạ Chí Đại Trường đặt là “Giáo dục tinh ranh trong độc quyền…”—và sự nghi ngờ của người dân Miền Bắc khi có cơ hội chạm với thực tế qua sự tiếp xúc với người Tù Cải tạo Miền Nam, ông đã xác định thủ phạm của loại tin tức này chính là nhà cầm quyền Cộng sản:
-… Ừ, đám người mà sách báo, đài của Đảng, bài nói của cán bộ đều chỉ rõ ràng đól à những tên ác quỷ ăn gan uống máu người không tanh, hiếp dâm từ trẻ lên ba, cắt vú đàn bà, quăng ông già vào lửa rồi rú lên cười man rợ … [Tạ Chí Đại Trường, Một khoảnh Việt Nam Cộng Hòa nối dài, trang 416-417, Thanh Văn xuất bản, Los Angeles, California, 1993]
Bởi thế, việc “giải độc” cho loại tin tức/tuyên truyền kiểu đó sẽ không dễ nhưng không phải là không thực hiện được nếu chúng ta, cả trong và ngoài Việt Nam, cố gắng. Nếu được may mắn sống sót, hãy nhớ để cùng nghiên cứu, cùng lên tiếng, không chỉ để trả lại danh dự cho một nửa tập thể vẫn thuộc dân tộc Việt, mà còn để hủy cái tiếng “bọn ngụy ăn thịt người” ra khỏi lịch sử của Người Việt dù Nam dù Bắc, dù đứng bên phía Cộng sản hay phía Tự Do, dù được nuôi dưỡng trong chính thể nào. Tôi rất quý Phùng Nguyễn vì sự cố gắng không ngưng nghỉ ấy.
Mươi ngày sau khi Phùng Nguyễn qua đời, tôi bàng hoàng nhớ lại mấy lần ông càu nhàu “Chị đừng chạy, coi chừng té, khi đi sau một người đàn ông. Chị có biết bộ dạng lật đật đó không tốt cho chị không?” Tôi bật cười “Anh không biết tôi là dân chạy đua à?” Khi quen nhau nhiều hơn, anh bảo tôi đưa những bài đã viết để giữ hộ vào một chỗ, theo từng chủ đề hoặc từng tác giả, cho khỏi thất lạc, lại càng tiện lợi khi muốn xuất bản. Tôi vốn tệ phần kỹ thuật (vừa bận kiểu “con đông chồng nhiều”, vừa đại lãn kinh niên), tệ đến nỗi có lần anh trách khéo: “Chị có chắc chị học Khoa Học ở Sài gòn không? Hay ông nào đi học dùm chị?” (!!!) Tôi nhớ lại đôi mắt hiền hòa, có khi phủ đầy những làn sương u ám từ quá khứ, đối diện từ bên kia bàn cà-phê. Nhớ lại mấy lần bất đồng ý kiến nhưng vẫn giữ được cuộc tranh luận cho hòa nhã và luôn luôn kết thúc bằng câu nói đùa của tôi: Writing well is the best revenge/Viết cho hay là cách phục hận hoàn hảo nhất.
Tôi không thân đủ để gửi lời chia buồn với gia đình, nhưng một buổi tối, ngồi ở bãi biển Redondo Beach cùng vài người bạn, tôi tự nhủ: Chúc anh an nghỉ. Anh đáng được an nghỉ. Anh đã cầm súng chiến đấu và anh đã cầm bút chiến đấu. Anh đã không bao giờ bỏ cuộc hay đầu hàng, kể cả với số phận. Anh có thể an tâm. “Có thể an tâm” vì ngày nay, Văn Học Miền Nam và tác giả thuộc nền văn học ấy đã được nhiều tác giả nghiên cứu hơn. Tuy thế, tôi vẫn giữ thêm một quan điểm khi thảo luận với Phùng Nguyễn, rằng rất lưu tâm tới những phát biểu của giới văn nhân từ tác giả người Việt hơn một chút. Tôi đã chứng minh, bằng ít nhất 3 tiểu luận, về khổ nạn của một số nhà nghiên cứu/dịch giả/giáo sư Hoa Kỳ không thông thạo tiếng Việt, khiến họ mù mờ về Văn Học Miền Nam nên bắt buộc phải trông cây vào một số người Việt trong vai trò hướng dẫn hay phụ giúp. Tuy thế, những “cố vấn văn hóa & văn chương” kiểu này có đủ kiến thức hay không lại là chuyện khác dù có hay không có ác ý. Tình trạng đó, theo tôi, vẫn sẽ tiếp diễn một khi tác giả ngoại quốc không thông thạo tiếng Việt nên không thể tự thân tìm kiếm nhân chứng và tài liệu, một điều cực kỳ thiếu sót khó thể xẩy ra trong các ngành nghiên cứu khác. Bởi thế, chúng ta, những người sống tại ngoại quốc, cần phải lên tiếng và tiếp tục lên tiếng, dù bằng tiếng Việt dù bằng tiếng ngoại quốc, để thứ nhất, sự nhầm lẫn hay sai sót ngay từ đầu không có cơ hội bành trướng sang những “cố vấn” rồi vượt… biên lan tràn thêm vào các đại học ngoại quốc.
Thứ hai, quan trọng hơn, các thế hệ đi sau trong và ngoài Việt Nam sẽ có bằng chứng bằng cả hai ngôn ngữ để tiện bề phán đoán cho công minh, nhất là thế hệ sinh trưởng tại Việt Nam đã hay đang du học tại Hoa Kỳ, nơi họ được tham khảo mọi sách báo theo ngành họ chọn, và rất có thể, một ngày kia, ở lại. Tôi đã đọc nhiều bài bàn luận về tương lai Văn học Hải ngoại, trong đó viễn tượng èo uột khi hiếm một thế hệ tương lai thông thạo, lựa chọn và sử dụng ngôn ngữ Việt tại hải ngoại là hợp lý. Tuy nhiên, tôi có cảm tưởng chúng ta đã tự giới hạn vào thế hệ của chúng ta rồi của chính con cháu chúng ta, những thế hệ công dân Hoa Kỳ với quyền lựa chọn ngành nghề và bổn phận cùng trách nhiệm với quốc gia bản xứ.
Đằng khác, bên cạnh những thế hệ người Việt tại ngoại quốc, tôi cũng có dịp tiếp xúc với nhiều sinh viên Việt Nam trẻ, rất trẻ, du học theo ngành văn chương tại Hoa Kỳ. Họ học tiếng Anh và Pháp từ nhỏ nên Anh ngữ (hàn lâm!) không trở thành vấn đề và ngữ vực tiếng Việt thì khỏi phải nói. Con số di dân người Việt có cơ hội sang nước ngoài đã gia tăng, như chúng ta đều biết. Theo kinh nghiệm riêng ấy thì chúng ta không nên quên các thế hệ (sinh viên) thượng dẫn từ Việt Nam. Họ đang hay sẽ góp phần đắc lực vào việc nghiên cứu Văn học Miền Nam. Đó là chưa kể tới những sinh viên/nghiên cứu gia, nhà văn và nhà thơ tương lai chọn “ở lại”. Lúc ấy họ sẽ chính thức gia nhập Văn học Việt Nam Hải ngoại. Nói một cách khác, nhất là về ngành nghiên cứu mà tôi đang tham dự, họ đang thu thập tài liệu/They are keeping score. Cẩn thận đấy!/En garde!
Bởi thế, tôi rất cảm kích khi Phùng Nguyễn tâm sự:
– “… Liệu có nên tiếp tục đầu tư công sức vào những điều mà một người biết rõ sẽ chỉ đưa đến một số kết quả vô cùng hạn chế? Câu trả lời có thể tìm thấy trong Đêm Lisbon của Erich Maria Remarque mà tôi có cơ hội đọc qua cách đây hơn ba mươi năm và chỉ còn nhớ có mỗi một điều. “Bớt một.” Bớt một chiếc gai độc hoặc một điều trá ngụy là điều nên làm lắm chứ! Nhất là khi biết rằng mình không đơn độc. Có rất nhiều người ở bên này hoặc bên kia những ranh giới văn hóa, chính kiến, và địa lý đã và đang làm như thế, có khi rất âm thầm. Phần “tử tế” của bài viết này xin được dành cho họ…” [Phùng Nguyễn, “Lữ Phương và Đêm Lisbon”, Diễn đàn Talawas-Nhà văn Phạm Thị Hoài chủ trương, Ngày 25.8.2008-https://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=14047&rb=0401]
Trong nhiều trường hợp, ngoài “Bớt một chiếc gai độc hoặc một điều trá ngụy”, tôi còn tin tưởng rằng “thêm một” hay “thêm vài” sự kiện cần được đưa ra ánh sáng hầu có thể kết luận đó là sự thực hay chỉ là một thứ biện luận chưa đủ tính thuyết phục. Trong tinh thần ấy, tôi sẽ bàn đến bài “Nói với chàng Siêu” [8] Trương Vũ) nhưng không dừng lại chỉ ở bài này. Tâm điểm của phần này là người lính VNCH và người vợ cùng gia đình của họ sau 1975.
______________________________
[4] Mānoa, Chủ đề “Two Rivers: New Vietnamese Writing from America and Viet Nam/Hai giòng sông: Sáng tác mới từ Hoa Kỳ và Việt Nam”, số Mùa Thu 2002. Bài của nhà tiểu luận/dịch giả Nguyễn Bá Chung được đăng từ trang 33-44. Bài của Phùng Nguyễn, do dịch giả Nguyễn Quí Đức dịch ra Anh ngữ, được đăng từ trang 85-90.
[5] “NHÀ VĂN HỒ ANH THÁI – Tiểu sử văn học trên trang mạng “Cơ quan ngôn luận của Hội Nhà Văn Việt Nam”:
“Nhà văn Hồ Anh Thái là gương mặt văn học tiêu biểu trưởng thành sau ngày đất nước hòa bình thống nhất năm 1975. Ông sinh ngày 18 tháng 10 năm 1960, quê quán Quỳnh Lưu, Nghệ An. Hiện thường trú tại Hà Nội. Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1985. Hồ Anh Thái là Tiến sỹ văn hoá phương Đông, cử nhân quan hệ quốc tế, từng làm việc tại Bộ Ngoại giao, Hà Nội. Truyện ngắn đầu tay xuất bản năm 1978. Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khoá VII, Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội từ năm 2000. Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp VHNT Hà Nội từ năm 2005. Hầu hết các tác phẩm đã được dịch ra nhiều thứ tiếng và ấn hành ở nước ngoài. https://vanvn.vn/nha-van-ho-anh-thai/]”
[6] Tiểu sử của nhà văn Tạ Duy Anh trên trang mạng của Nhà Xuất bản Nhã Nam: “Tạ Duy Anh, sinh năm 1959. Quê làng Đồng Trưa, Hoàng Diệu, Chương Mỹ, Hà Nội Cử nhân văn học. Từng là cán bộ kỹ thuật tại nhà máy thủy điện Hòa Bình, giảng viên Trường viết văn Nguyễn Du. Hiện là biên tập viên NXB Hội nhà văn, https://nhanam.vn/ta-duy-anh”
[7] Chức “Phó Đại sứ” này xuất hiện trên mạng của Nhà Xuất bản Nhã Nam:“Hồ Anh Thái sinh năm 1960, là một nhà văn đương đại của Việt Nam. Ông được xem như một hiện tượng văn chương của thế hệ văn nhân thời hậu chiến, sau 1975. Nhà văn, từng ngồi sáng tác ở các trại viết nước ngoài, đã tham dự nhiều hội nghị nhà văn quốc tế ở các lục địa. Được bầu là Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội hai nhiệm kỳ (2000-2010). Nhà ngoại giao chuyên nghiệp, từng được bổ nhiệm làm việc ở Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ, Phó đại sứ Việt Nam tại Iran và Indonesia. Tiến sĩ văn hóa phương Đông, thỉnh giảng ở Đại học Washington và một số đại học nước ngoài. Đã xuất bản hơn 40 cuốn sách thuộc nhiều thể loại, sách đã được dịch ra hơn 10 thứ tiếng và ấn hành ở nhiều nước, https://nhanam.vn/ho-anh-thai
[8] “Nói với chàng Siêu”, Văn Học, số 95, trang 2-10, tháng 3. 1994. Thư viện Người Việt-Tạp chí Văn Học,
Lính VC trong mắt người miền Nam thời Vietnam War
Tôi vẫn còn nhớ mấy tấm bảng lớn với hình vẽ và các câu thơ lục bát dựng trên xa lộ Sài Gòn Biên Hòa trước 75
Rắn đâu có đẻ ra rồng
Mặt trận giải phóng là dòng cộng nô
Già Hồ ăn nói mưu mô
Tay cầm súng đạn miệng hô hòa bình
Người miền Nam thời đó khi nghe đến VC thì có nghĩa là dao găm cắt cổ giết người trong bóng đêm, thảy lựu đạn quán ăn và rạp hát, giựt mìn sập cầu và đấp mô xe đò liên tỉnh. VC theo chủ nghĩa tam vô, vô tổ quốc vô gia đình vô tôn giáo. VC là chư hầu của CS Nga Hoa. Tất cả là như vậy. Tất nhiên, cơ quan tâm lý chiến của thời VNCH tuyên truyền. Và đã tuyên truyền không sai. Thậm chí nó đúng, mà đúng đến cả chi tiết nghĩa của từ “VC” cho đến tận ngày nay cũng y chang như vậy.
………………………………………………………..
Việt Cộng: 越南共产党 Việt Nam Cộng Sản Đảng. Viết thu gọn là VC – Việt Cộng 越共.(Trích từ tự điển TQ và VN, các trang mạng của TQ và VN bản tiếng Trung hiện hành).
越共中央总书记苏林与中共中央总书记、国家主席习近平。
Việt cộng trung ương tổng thư ký Tô Lâm dữ Trung cộng trung ương tổng thư ký, quốc gia chủ tịch Tập Cận Bình.
Tổng bí thư trung ương đảng cộng sản VN Tô Lâm và Tổng bí thư trung ương đảng cộng sản TQ, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình.
https://zh.vietnamplus.vn/article-post240443.vnp?fbclid=IwY2xjawMxvnZleHRuA2FlbQIxMQBicmlkETFJSmdhYU1FVHRMaHFUSTU2AR7Qn84NWIJ5T494yNR5K2sJSQVLI1yrbF8KkGjaoXTffEVluAQEdopHBek8KA_aem_qcznhNHh0sEB0LB61bjSBw