Trang chính » 50 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (1975-2025), Sáng Tác, Tiểu thuyết Email bài này

mấy sông cũng lội… nợ những người không may mắn như tôi

0 bình luận ♦ 24.03.2025
12-54_thumb.jpg

Chiến tranh kết thúc. Bao nhiêu trai tráng cùng lứa tuổi với tôi hoặc đã chết, hoặc đã thành kẻ tật nguyền. Tôi đã không chết trong chiến tranh. Tôi là người sống sót. Tôi thành kẻ thiếu nợ. Nợ những người đã chết.

Như bao nhiêu người yêu cái dải đất Việt Nam đã trải qua những mùa màng khốn khó, tôi nhủ thầm thôi thì không còn đánh nhau, hãy cùng bắt tay xây dựng lại quê nhà. Đổ vỡ cũng đã quá đủ rồi. Nhưng những người có súng đạn không nghĩ như tôi. Họ còn bận tâm trả thù.

Nên tôi phải bỏ xứ mà đi.

Chúng tôi ra đến hải phận quốc tế vào một đêm tháng Sáu. Qua một cơn bão biển cuồng nộ, hơn sáu chục con người dưới ghe nhàu nhò như những mớ giẻ rách. Dở sống dở chết. Đói khát rã rượi. Rồi một con tàu khổng lồ hiện ra ở chân trời. Khăn trắng, áo trắng, vải trắng đua nhau vẫy trên ghe. Tôi run rẩy bám chắc những mối dây thừng dùng làm thang, lần từng bước, lên tới, bám chặt cái khung sắt vững chãi của con tàu. Gió quất lên mặt, nồng nàn hương muối. Chúng tôi là dân tị nạn. Dưới ghe có hai em bé sắp chết vì đói khát. Không có nước uống, không có đồ ăn mấy hôm rồi. Xin cứu chúng tôi. Tôi nói hụt hơi. Lần đầu tiên nói tiếng Anh với người ngoại quốc. Gió lộng. Giọng gào khàn đục của người thuỷ thủ râu tóc sồm soàm tôi nghe tiếng được tiếng không. Tôi nghe ra rằng ghe chúng tôi phải đục cho chìm thì tàu dàn khoan mới được phép cứu.

1-58

Tôi tuột xuống, nói lại với chủ ghe. Bà chủ ghe gật đầu, thương con thuyền chắt chiu, những giọt nước mắt theo nhau rụng xuống lòng biển cả.

Con tàu khổng lồ đem chúng tôi đi.

Ấy là đêm trăng đẹp nhất thế kỷ. Tôi đã sống đêm trăng huyền hoặc ấy trên boong con tàu của dàn khoan có hàng chữ PANAMA bên hông. Sàn tàu rộng thênh thang. Con tàu chạy về một bến bờ nào đó mà chúng tôi không biết. Chúng tôi cũng chẳng quan tâm bởi chúng tôi vừa được cứu. Và biết chắc họ sẽ không trả chúng tôi về lại quê nhà. Đêm hôm ấy, tôi đứng dựa vào lan can tàu của dàn khoan, nhìn vạt sóng lấp lánh bạc trải dài phía sau và con trăng rạng rỡ trên khung tối của bầu trời. Phía ấy là quê nhà, tôi vẫn nhớ. Biển đêm ấy huyền hoặc. Và trăng đêm ấy đẹp hơn bất kỳ đêm trăng nào trên thế gian.

3-39

Những thuỷ thủ trên tàu của dàn khoan cho chúng tôi bánh ngọt và nước uống, rồi cho chúng tôi mượn chăn mền trải ra trên boong tàu để ngủ. Mấy cô gái còn được đám thuỷ thủ cho vào tắm nhờ. Từng cô bước ra tóc ướt dính bết hai bên má. Chiếc khăn tắm trắng muốt vắt ngang vai. Những đôi mắt rực sáng. Những nàng công chúa lưu lạc. Họ cũng như tôi, vừa mới chết đi sống lại.

7-20

Chúng tôi đến Pulau Bidong vào ban ngày. Tôi không còn nhớ sáng hay chiều, chỉ nhớ là khi ấy trời còn nắng. Chuyện xảy ra như trong một giấc chiêm bao. Những bước chân hụt hẫng thấp cao. Giây phút ấy tôi có cảm giác như mình đang sống trong giấc mơ dài bất tận. Lũ chúng tôi sáu mươi mấy người lớn và hai bé trai còn đang bú mẹ.

Một trong hai đứa bé là con trai tôi.

Baby HẢI 2

Thằng bé là bệnh nhân cuối cùng của tôi ở quê nhà. Trước khi xuống ghe, bố đã chích cho con một mũi thuốc để con ngủ ngoan, để con không khóc và đánh thức đám công an phường khóm dọc theo bờ con rạch nhỏ, trên đường xuống bãi.

Tàu cặp bến. Cây cầu gỗ chênh vênh trên ngàn con sóng bạc. Tôi nhớ gói mì sóng sánh nước nóng trong cái bát nhựa. Nước không đủ nóng nên những sợi mì không chín đều nhưng gói mì nhạt nhẽo ấy là gói mì ngon nhất trong đời. Món mì có gia vị Tự Do.

Rồi chúng tôi lảo đảo những bước chân “say đất”, nhập vào cái khối khổng lồ mười sáu ngàn dân lưu xứ trên đảo Pulau Bidong.

Tôi đã đến được bến tự do. Tôi là người sống sót. Tôi là kẻ thiếu nợ. Nợ những người không may mắn như tôi. Nợ những người đã chết.

6-10

Những ngày ở trại tị nạn, tôi vào Ban Y Tế. Tôi ôn bài y khoa, tôi học tiếng Mã Lai, tôi học tiếng Phổ Thông, tôi học tiếng Pháp, tôi học tiếng Anh… Tôi học đủ thứ. Tôi làm ở bệnh viện Sickbay. Tôi sống để chờ. Tôi chờ để sống. Gần một năm chờ đợi. Nhưng rồi chúng tôi cũng được đi định cư. Chúng tôi được Canada đón nhận. Tôi còn nhớ, như in cuộc phỏng vấn ấy.

Trời nóng, nhân viên di trú của phái đoàn Canada là một người đàn ông. Ông ta vừa phỏng vấn vừa cầm cái bìa cứng quạt phất phơ. Những sợi tóc vàng bay lập lờ trước vầng trán cao. Ông ta bắt đầu bằng câu hỏi quan trọng nhất mà ai cũng bị hỏi, “Tại sao anh chọn Canada?”

Tôi nhanh nhảu, “Vì ở Canada, tôi sẽ có tự do.”

“Đâu phải chỉ Canada mới có tự do,” Ông ta ngắt lời tôi và liệt kê một loạt những quốc gia đang nhận người tị nạn. “Ở Pháp, Anh, Úc, Bỉ, Hòa Lan, Thụy Điển, Thụy Sĩ… anh cũng có tự do vậy.”

Tôi ấp úng. Ông ta tiếp, “Và Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ nữa.” Tôi nhớ ông ta nói nguyên cái tên dài lê thê The United States of America. Và cái tên ấy mớm cho tôi câu trả lời. Tôi hăng hái, “Nước Mỹ đã là đồng minh của chúng tôi suốt trong cuộc chiến 20 năm, nhưng nước Mỹ đã bỏ rơi chúng tôi. Nước Mỹ bỏ rơi bạn bè. Canada thì không làm như thế.”

Nụ cười nở ra trên môi nhân viên di trú. Nét cau có (vì bận rộn, vì trời nóng) biến đi trên khuôn mặt ông ta. Ông ta viết gì đó vào tập hồ sơ và chìa bàn tay ra trước mặt. Tôi rụt rè bắt tay người ngoại quốc đầu tiên trong đời. “Welcome to Canada,” ông ta nói dù tôi vẫn còn cách Canada mấy ngàn cây số. Ấy là cuộc phỏng vấn ngắn nhất trong đời mà tôi đã tham dự.

Và tôi chính thức có một Quê Hương. Không còn quan trọng chuyện đây là quê hương thứ nhất hay thứ hai nữa. Tôi không còn là kẻ vô tổ quốc. Tôi đã có một Quê Hương.

Tôi may mắn. Tôi đã được công nhận là người tị nạn. Có rất nhiều người không may mắn được như tôi. Tôi là kẻ thiếu nợ. Nợ những người không may mắn như tôi.

Thế nên tôi sống không yên suốt hàng chục năm trời. Miếng ngon nào chưa kịp qua miệng là cũng đã nhắc tôi tới những đứa em đói khát bên nhà. Chuyến đi nào cũng gợi nhớ đến bố tôi đi đâu cũng lục túi áo không biết bao nhiêu lần để biết chắc không đánh mất tờ giấy phép đi đường, không đánh rơi tờ hộ khẩu. Thành phố nào ghé qua cũng làm tôi nhớ những nông trường, nơi bạn bè tôi lam lũ khai hoang. Lần đầu ngồi trên bờ biển Long Beach, California, nhìn thiên hạ lướt sóng, tôi nghĩ đến bờ Thái Bình Dương phía bên kia. Và lời bài hát “Xác Em Nay Ở Phương Nào?” của Ngọc Khôi và Trần Chí Phúc xoáy vào đáy sâu tâm tư. Tôi cứ phải cố giấu những giọt nước mắt.

Chiều ra biển đứng ê chề
Tìm trên ngọn sóng ngó về xác em…

Tôi đã không chết chìm trong Vịnh Thái Lan. Ghe tôi đi gặp bão nhưng không gặp cướp biển. Tôi may mắn. Tôi là người sống sót. Tôi thành kẻ thiếu nợ. Nợ những người không may mắn như tôi.

Những năm 90 của thế kỷ trước, người ta quyết định đóng cửa những trại tị nạn ở Đông Nam Á.

10-40

Tôi gặp một bản tin trên tờ Thời Báo Canada như thế này:

10-10

Dòng chữ cuối trên bản tin làm tôi điếng người trong cơn xúc động. “Những đám cưới này được tổ chức trong trại cấm, sau đó cô dâu sẽ về nhà chồng.”

Cô dâu Việt Nam trong trại cấm sẽ về đâu sau đám cưới? Về nhà chồng. Nhà chồng nào? Hình ảnh nhoè nhoẹt của tấm hình chụp khuôn mặt một cô gái choàng tấm khăn voan, phía sau khung lưới mắt cáo, bức ảnh không đủ ánh sáng ám ảnh tôi.

Tôi may mắn. Tôi không bị cưỡng bức hồi hương. Tôi thành kẻ thiếu nợ. Nợ những người không may mắn như tôi.

11-36

Vì vậy tôi phải viết. Tôi có bao nhiêu điều phải nói ra. Cho những người không còn cơ hội để nói.

10-25

Và tôi đặt bút viết những dòng đầu tiên của “Mấy Sông Cũng Lội…” Tôi bỏ ra ba tháng trời để viết.

Truyện hoàn tất, tôi trao cho một tờ báo ở Canada đăng từng kỳ. Mấy Sông Cũng Lội… cũng gian truân như nhân vật của nó. Nhà xuất bản này hứa, nhà xuất bản kia hẹn.

Tôi hỏi tới hỏi lui. Giám đốc nhà xuất bản bảo sẽ in. Sáu tháng sau, tôi nhắc. Giám đốc nhà xuất bản bảo sắp in. Sáu tháng sau nữa, tôi gọi, hỏi thăm và nói xa nói gần. Nhà xuất bản bảo đang sửa soạn in, và ông nhấn mạnh, đừng lo, cuốn sách sẽ góp mặt với nhân gian. Tôi chờ. Như những con người bơ vơ trong trại tị nạn, chờ được đi định cư. Hai ba lần sáu tháng, tôi không hỏi nữa. Một ngày kia, ghé nhà sách Việt Nam ở Toronto, đang mê mải với những cuốn sách thiên hạ, tôi chợt thấy “Mấy Sông Cũng Lội…” của mình lẫn trong đám sách bày trên kệ.

Tôi đỡ nhẹ một cuốn, mân mê cái bìa, mân mê từng trang giấy. Tôi viết thư cho nhà xuất bản. Ông chủ ngập ngừng, “Tôi lại cứ tưởng đã gửi sách cho anh rồi!”

12-54

Họa sĩ Vi Vi cho tấm tranh bìa. Cô gái Việt ngồi buồn bên bờ biển. Ít lâu sau bắt gặp một truyện dài của nhà văn Hồ Trường An cũng có cái bìa giống hệt như thế. Bao nhiêu thứ vẽ lên cái thân phận long đong của cuốn sách và của nhân vật trong truyện.

Bạn – đã từng – hay chưa bao giờ là người tị nạn, bạn đã từng chứng kiến hay chỉ được nghe kể về những hành vi tàn bạo của cướp biển. Bạn đã sống ở một trại tị nạn nào đó ở Đông Nam Á hay mới chỉ đọc được về cảnh sống tạm bợ của những người buộc lòng phải bỏ xứ mà đi. Dù gì đi nữa, Mấy Sông Cũng Lội… cũng sẽ giúp đưa bạn đến một nơi mà một thời đã là nơi chốn bình yên – dẫu tạm thời – của một bộ phận dân tộc Việt Nam.

“Mấy Sông Cũng Lội…” gian nan như thân phận cô gái trong truyện. Tôi mong nó góp một phần nhỏ trong muôn ngàn dấu chứng của một thời, cái thời người ta lao ra biển tìm đường sống. Mong bạn đón nhận “Mấy Sông Cũng Lội…” như quê hương thứ hai đã mở cách cửa lòng nhân ái, đón nhận cô gái trong truyện bởi cô đã hứa với lòng rằng cho dù gian truân, cho dù vất vả, cho dù phải qua mấy đời sông, cô cũng lội cho tới được bến bờ tự do.

231205

Bạn có thể nghe tác giả đọc bài viết này trên YouTube.

bài đã đăng của Hoàng Chính

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)