Noguchi Garden, Costa Mesa, California
(ảnh Đinh Từ Bích Thúy)
Cách đây gần một phần tư thế kỷ, người chị chồng tôi về Việt Nam, rồi ghé qua một làng quê Bắc Việt thăm họ hàng gia đình bên chồng tôi. Khi trở về Mỹ, chị có mang theo một bản sao của gia phả nhà họ Đ., với những giòng viết tay chụp từ nguyên bản:
Từ đình làng, qua rặng tre, đi khoảng trăm bước, quẹo trái khi gặp cây đa, rồi băng qua ruộng, sau đó đi thêm khoảng sáu mươi bước, xuống một con dốc nhỏ, lần thêm mười bước, sẽ đến Mộ Tổ, nằm dưới bóng mát cây mộc hương.
Gia phả chắc đã được ghi xuống từ đầu thế kỷ hai mươi, sau khi được truyền miệng ít nhất là từ hai ba đời trước, nhưng lúc được viết xuống cho các con cháu theo giáo dục quốc ngữ thì vẫn như tốc ký, với những giòng chỉ đường đến Mộ Tổ hết sức đại cương dành cho người trong họ sống cùng một làng, đã biết rõ địa thế xung quanh, cũng như vị trí ngôi mộ. Cả gia phả không đề cập tên làng, tên của vị Cố Tổ, ngày, tháng, năm, tông tích, hay chữ ký của người ghi xuống. Phần nhiều những tên liệt kê trong gia phả cũng là những tên gọi nôm na hay theo thứ tự trong gia đình. Tuy vậy, gia phả vẫn được luân lưu và sao lại nhiều lần, rồi đến năm 2000 thì một phiên bản được trao cho chị chồng tôi từ Mỹ về thăm, để phổ biến cho họ hàng sống ở ngoài nước.
Nếu không biết đây là gia phả nhà họ Đ., thì chứng tích lịch sử này cũng có thể áp dụng cho bất cứ một gia tộc nào, ở bất cứ một ngôi làng nào trên lãnh thổ trong hoặc ngoài Việt Nam, cho bất cứ ai. Gia phả nhà họ Đ. do đó vừa có tính chất thân mật, vừa mang một vẻ trừu tượng vì đã bị tách biệt ra khỏi thời gian và không gian. Dù sao, khi đọc gia phả này, sự quên lãng hoặc hoàn cảnh di dân của người sinh sau, qua nhiều thời đại và những không gian xa lạ, trở thành một cảm giác hoang mang về lý lịch tưởng như mất tích của người đi trước.
Khai phá mọi trạng thái mất tích trong đời sống, Ai của Đặng Thơ Thơ cũng là một thử nghiệm giữa gần gũi và xa lạ, xác định và nghi vấn, đầy ải và tự do, vô hình và hiện thể. Tiểu thuyết ở năm chương đầu bắt đầu với chủ thể “Tôi,” đại diện cho một người mẹ nói về “nó” – đứa con của bà. Năm chương sau được thuật lại từ góc nhìn của nó/đứa con, cũng là một “tôi” khác. Nhưng rồi “tôi” và “nó,” hoặc “mẹ” và “con” cũng biến mất khi cả hai chủ thể đi tìm nhau, qua những không gian và thời gian khác, qua các trạng thái chuyển biến, như chuyện nằm mơ, sự ghi chép và tự thú, triển lãm trong viện bảo tàng, âm nhạc, nhiếp ảnh, phim, nghệ thuật tạo hình, và nghệ thuật trình diễn. Các nhân vật trong Ai tuy có lúc bước ra khỏi hiện thực, vẫn là những âm bản “đầy máu” vì lịch sử hay linh hồn họ chưa được siêu thoát: thiếu nữ thổ dân mang nặng ký ức tuyệt chủng, con búp bê sống thay cho một nữ sinh chết vì tai nạn xe cộ, hồn ma thuật lại những vi phạm nhân quyền của kinh nghiệm xuất khẩu lao động.
“Phép lạ” trong Ai chính là ngôn ngữ/văn bản diễn tả mọi trạng thái chuyển biến, nếu có thể ví ngôn ngữ như bàn tay Phật vô biên, mà Tôn Ngộ Không – tượng trưng cho nội dung tác phẩm — có lẩn trốn ở đâu cũng không thể thoát khỏi bàn tay năm ngón vươn cao như rừng tre của Đức Phật, hoặc như rặng tùng bách hương xanh thẫm trong Ai! Tương tự, dự án triển lãm để các bà mẹ quan sát những đứa con của mình trong môi trường biệt lập của viện bảo tàng là cách cho phép các bà mẹ (hoặc tác giả?) được làm “Phật” để theo dõi mọi quá trình biến hóa của các Tôn Ngộ Không được tạo ra. Nghịch lý của sáng tạo là sự toàn tri/toàn trị của tác giả trên tác phẩm của mình, đồng thời là lý lịch mở của mọi tác phẩm, sau khi xuất bản được biến hóa tùy theo cách suy diễn của độc giả.
Bắt đầu với Phòng Triển Lãm Mùa Đông, Khả Thể, rồi tới Ai, Đặng Thơ Thơ luôn luôn trải nghiệm đời sống qua sự giằng co liên tục giữa hòa nhập và tách biệt, để có những lựa chọn sáng tạo vượt ra ngoài giới hạn của tình cảm, xã hội, và chính trị. Tôi là I. Tôi cũng có thể là tri thức nhân tạo hóa (A.I. – viết tắt của artificial intelligence), hoặc một phiên bản khác mà tôi đã tạo ra. Tôi là nhân bản. Khái niệm clone mà Đặng Thơ Thơ đề cập trong tiểu thuyết mang hai nghĩa nhân bản – là bản sao chế tạo/phôi thai từ tế bào người — và cũng là xu hướng, thái độ, kinh nghiệm sống của con người. Clone cũng có thể tượng trưng cho sự biến hóa của một tác phẩm thành nhiều phiên bản qua cách nó được phân tích.
![]()
Noguchi Garden, Costa Mesa, California
(ảnh Đinh Từ Bích Thúy)
Tình mẫu tử, như mối tương quan giữa tác giả và tác phẩm, cũng bao hàm khái niệm ngự trị và sở hữu, do đó ta có thể đọc Ai qua lăng kính hậu thuộc địa, theo dõi những hành trình đi ngang, xuyên quốc gia, xuyên lịch sử của các nhân vật, như cách đối chiếu với chiều hướng thẳng đứng và xâm lấn của chủ nghĩa toàn cầu hóa, như cách phản kháng sự kỳ thị và vi hấn của văn hóa dòng chính, hoặc của những quốc gia công nghiệp đối với những các nước đang phát triển — hiện vẫn áp dụng chủ nghĩa thực dân qua sự bóc lột kinh tế, những tổn hại môi sinh, và vi phạm nhân quyền. Những hành trình đi ngang/ đi xuyên qua như nỗ lực bình đẳng hóa cũng là chủ trương của tạp chí Da Màu mà Đặng Thơ Thơ là một trong những sáng lập viên và chủ biên, đã được khai phá trong chuyên đề đầu tiên là Màu Da và Ngôn Ngữ.
Ai cũng là trò chơi mà tác giả chạy trốn, để độc giả đi tìm. Sử dụng những ẩn dụ văn chương như cách hóa trang lý lịch, Ai là vân tay/thủy ấn của một nhà văn sinh ra và lớn lên ở miền Nam, tị nạn ở Mỹ, được hấp thụ văn chương miền Nam cũng như văn chương thế giới, mang cả hai gen di truyền và xã hội từ các thành viên của Tự Lực Văn Đoàn. Do đó, Ai vừa là một nỗ lực mở tương lai cho văn chương Việt ngữ ở ngoài nước, vừa là sự cấy óc từ quá khứ. Trong lời cảm tạ ở phần đầu quyển sách, chính tác giả cũng công nhận khía cạnh tiểu sử đã được “mã hóa” trong Ai:
Cuốn tiểu thuyết này mang dấu vết của rất nhiều “Ai” trong đời tôi: gia đình, bạn thân, những nhân vật trong văn chương và đời sống. (Ai, tr. 9)
Tôi đọc Ai như tinh lọc và hóa chất từ Phòng Triển Lãm Mùa Đông và Khả Thể. Cả ba, Phòng Triển Lãm Mùa Đông, Khả Thể, và Ai có thể được đọc như một liên bản. Cách đọc này cũng có thể là cách xuất bản, trong tương lai, ba tác phẩm này như ba biến tấu của một bản nhạc.
Một cách cụ thể, Phòng Triển Lãm Mùa Đông, xuất bản năm 2002, tuy là tuyển tập truyện ngắn đầu tay của Đặng Thơ Thơ, cũng có thể được coi là tác phẩm giải mã cho Ai, xuất bản năm 2023. Những quan tâm của tác giả từ hơn 20 năm trước, đã được tái tạo trong Khả Thể, cũng hiện hữu trong Ai — như điều tiên đoán cho những gì sẽ xảy ra, phải xảy ra, trong đời sống hàng ngày cũng như trong văn chương của chị.
Thí dụ, truyện “trăng mật” trong Phòng Triển Lãm Mùa Đông về thời gian honeymoon của hai vợ chồng trẻ đã tiên báo cho chuyến đi chơi Lisboa giữa người mẹ và đứa con trong Ai. Như người mẹ trong Ai “muốn lấy ra khỏi thời gian” những ngày tháng du lịch thanh thản với đứa con, người vợ cũng là người mẹ trẻ trong “trăng mật” muốn thời gian được dừng lại, để tận hưởng những giây phút hạnh phúc vẫn còn tinh nguyên, mới mẻ, gần như xa lạ, của tình yêu vợ chồng và tình yêu dành cho đứa con mới sinh. “Độ đau của máy” và những suy nghiệm về trợ tử (euthanasia) là “âm bản” của khái niệm cloning trong Ai. “Hôm nay ba về,” như truyện “Mở Tương Lai” trong Khả Thể, tiên đoán, qua sự nằm mơ, những cái chết sẽ phải đến. Là người đọc, ta có thể làm một vòng detour qua Phòng Triển Lãm Mùa Đông và Khả Thể trước khi đến Ai, nhẩn nha xem tranh và các màn trình diễn, lẩn vào những hành lang u tịch, bước lên gác lửng, xuống cầu thang hẹp với những nấc thang mòn, gõ vào những cánh cửa tưởng như đã khóa chặt.
Đặng Thơ Thơ đã dựng cảnh trong Phòng Triển Lãm Mùa Đông, như cách phác thảo, hoặc “nối xương” cho những phiên bản về sau. “Con Yêu Ai Nhất” trong Phòng Triển Lãm Mùa Đông tiên báo chuyện người mẹ giả chết trong Ai rồi được đứa con ghi lại trong bài luận gửi cho bác sĩ tâm lý ở đại học. Như lời kể vẫn còn mang đầy vẻ uất ức của đứa con trong Ai, ở truyện “Con Yêu Ai Nhất,” tình mẫu tử tượng trưng cùng lúc thiên đường và địa ngục của một đứa bé:
“Con yêu cụ bằng ai?”
Nó ngập ngừng, hoang mang lắm vì đây là một câu hỏi mới: Yêu bằng ai?”
Có thể “bằng” là “giống”, nhưng nó yêu cụ không giống như nó yêu mẹ, khác với nó yêu bố. Nó chợt nhớ ra cụ vẫn bảo “Cụ yêu con nhất,” và buột miệng:
“Con cũng yêu cụ nhất!”
Nó nói rất dõng dạc, như những khi làm được điều gì tốt và biết sẽ được khen.
Nhưng lạ chưa, sắc mặt mẹ không vui, giọng mẹ bất chợt đanh lại:
“Thế con yêu cụ hơn mẹ à?”
Nó chột dạ, vậy là nó nói sai rồi, nhưng không biết sai chỗ nào? Nó lo lắng nhìn mẹ, cố chữa:
“Không, con yêu mẹ nhất mà!”
“Con vừa mới nói yêu cụ nhất xong! Đồ nói dối!”
“Con yêu mẹ nhất, với cụ nhất luôn…”
Mặt mẹ sầm xuống, mẹ hẩy nó ra:
“Mẹ đẻ ra con thì con phải yêu mẹ nhất chứ, thứ con bất hiếu nhỉ. Thôi đi đi, mẹ không yêu con nữa.”
Nó lăn vào lòng mẹ:
“Mẹ! Mẹ yêu con đi, con yêu mẹ nhất mà!”
Nó lay lay cánh tay mẹ, ngước nhìn mẹ nằn nì, nhưng mẹ vẫn lạnh lùng không thèm nhìn nó. Chưa bao giờ nó thấy mẹ xa lạ như thế, như một người hoàn toàn khác. Bỗng dưng người nó lạnh toát vì sợ hãi, thì ra mẹ không yêu nó nữa, mẹ muốn đuổi nó đi. Nó không biết phải làm sao, không biết phải trốn đi đâu bây giờ.[i]
Khi thế giới tình cảm của đứa con hoàn toàn lệ thuộc vào người mẹ, thì nó chỉ có thể định nghĩa sự hiện hữu của nó qua ánh nhìn được coi như độc quyền của mẹ. Cách nó bày tỏ tình cảm với mẹ, tuy hồn nhiên và chân thật, vẫn có thể bị coi là không tùng phục, và mẹ nó có thể trừng phạt nó bằng cách trở thành xa lạ, lãnh đạm, làm nó bị khủng hoảng tinh thần. Tương tự, chính vì đứa con trong Ai chứng nhận sự lệ thuộc tình cảm của nó qua cách xưng hô con là I với mẹ, người mẹ đã trừng phạt đứa con bằng cách giả chết khi bà nghĩ thằng bé đã cố tình đi trốn để làm bà tưởng nó bị bắt cóc. Hành động giả chết/thành người lạ của người mẹ làm đứa bé khiếp sợ rồi oán hận – đây chính là chất xúc tác giúp nó thoát khỏi sự áp chế tình cảm của mẹ nó, để nó có thể thẳng thừng phán xét:
Một người mẹ bắt con chứng kiến cái chết của mình là bất thường. Một người tàn nhẫn. Một người bệnh hoạn.
Mẹ phải hiểu là điều mẹ làm đã hủy hoại tôi như thế nào. Nhưng mẹ đã chọn làm. Vì ý thích của riêng mẹ. (Ai, tr. 107-108)
Ngay lúc còn ở với mẹ, đứa con trai trong Ai, như nhân vật “nó” trong “Con Yêu Ai Nhất,” đã cảm thấy khổ sở khi bị mẹ bắt biểu lộ tình cảm hoặc sở thích bằng ngôn ngữ “bậc nhất.” Nó không thể chọn loại kem nào là loại nó thích nhất. Ngôn ngữ “bậc nhất” cũng tượng trưng cho khái niệm loại trừ hoặc phong tỏa những gì yếu kém hơn. Đứa con, như công dân trong một thể chế toàn trị, hay một thuộc địa nơm nớp dò xét phản ứng của mẫu quốc, hoàn toàn không có quyền tự do phát biểu.
Đứa con trai lớn lên rồi đi học xa nhà, thoát ra khỏi vòng kiểm soát của người mẹ. Đây là một hành trình phải xảy ra, để nó có thể trở thành một hiện thể độc lập và tự quyết. Nó, bây giờ là một chàng trai xưng “tôi,” vào viện bảo tàng Nhân Chủng Học để xem cuộc triển lãm về những di vật của bộ lạc Ais, ngày xưa sống ở vùng đông bắc châu Mỹ nhưng nay được coi là tuyệt chủng vì đã bị thực dân Tây Ban Nha tiêu diệt hoặc bắt làm nô lệ. Trong lúc xem triển lãm thì chàng gặp một cô gái mang nét mặt và làn da có vẻ như của thổ dân Mỹ, thêm với lòng bàn chân lõm “như cái cầu vồng” là nét đặc thù của người Ais. Cô gái quả quyết với chàng rằng chính cô, chứ không phải những thứ được trưng bày trong viện bảo tàng, mới là di vật, vì cô hiện giữ ký ức của bộ lạc Ais trong đầu óc và thân thể cô. Tuy vậy cô nghĩ sẽ không ai tin cô là một người Ais, vì cô không nói được tiếng Ais, và cũng vì thiên hạ
chỉ muốn mọi thứ tưởng như đã chết thì cứ chết hẳn đi! Lịch sử họ đã viết như thế rồi. Viện bảo tàng đã chứng thực rồi. Bây giờ nảy ra một bằng chứng sống thì họ phải làm gì chứ? Họ sẽ bối rối lắm, khó xử lắm … (Ai, tr. 134)
Ở đây khái niệm tuyệt chủng, cũng như khái niệm về bản sắc, được Đặng Thơ Thơ diễn tả như một nghi vấn từ quan điểm bị coi là bên lề của người thiểu số, chống lại khuynh hướng của thẩm quyền. Cũng như sự trưởng thành và độc lập phải xảy ra cho đứa con – thể hiện qua sự biến chuyển từ ngôi thứ ba là “nó” sang “tôi” – sự khẳng định của cô gái, về sự tồn tại có vẻ như vô hình của bộ lạc Ais, là cách định nghĩa lại thành kiến “tuyệt chủng” để cho ta thấy tương lai mở của người Ais. Do đó, định mệnh và sự tự quyết không hẳn là đối nghịch. Cả hai khái niệm có thể được hiểu như hai sắc thái bổ sung của quá trình tiến hóa. Ngay trong sự tuyệt chủng, tưởng là định mệnh, vẫn có những giải pháp. Một cánh cửa đóng lại thì những cánh cửa khác sẽ được mở ra. Tuy cô gái thổ dân không nói được tiếng Ais, cô vẫn tin vào điều mình là người Ais và do đó đã quyết định chọn học tiếng Chitimacha là một tiếng thổ dân đã hóa nhập từ tiếng Ais.
Đặng Thơ Thơ dùng lập luận của cô gái người Ais để chất vấn quan điểm chính thống về lịch sử và bản sắc văn hóa, từ lăng kính bảo tồn cũng như từ ý đồ đồng hóa/loại trừ của dòng chính. (Đề tài này cũng đã được chị khai phá ở truyện “Đi Tìm Bản Kinh Thánh Cuối” trong Khả Thể, về sự biến thể của Mary Magdalene từ học giả uyên bác và sáng tạo thành gái điếm tội lỗi, bởi nhóm giáo sĩ đàn ông muốn củng cố quan điểm kỳ thị và “cực dương” của Kitô Giáo). Nếu sự bảo tồn văn hóa chỉ được thể hiện qua thành kiến hoặc nhu cầu của số đông, hoặc chỉ được áp dụng một cách phiến diện, qua hình thức triển lãm “hoành tráng” trong những ngày lễ hội hoặc từ khuynh hướng chủ quan của viện bảo tàng, mà không thực sự thúc đẩy những cải cách trong môi trường giáo dục, luật pháp, và kinh tế, thì chính sách đồng hóa của dòng chính vẫn kéo dài sự bất công và kỳ thị đối với người thiểu số.
Trên hết, khung và nền của Ai vẫn là câu chuyện của một người mẹ không muốn mất con, và của đứa con muốn trốn thoát ảnh hưởng của mẹ nhưng vẫn ao ước được yêu quý mẹ như tri kỷ. Cả hai do đó đã dùng những tư liệu và kỹ thuật truyền thông sẵn có, để tạo ra những phiên bản hoặc “ảo thể” trung gian (avatar) hầu giúp họ đối thoại, chia sẻ, và vượt thoát giới hạn của thời gian và không gian, ngay cả bản thể của mỗi người. Đứa con “biến mất,” nhưng để lại máy quay phim lưu giữ những hình ảnh, cùng chuyển những đoạn phim mà nó thực hiện với nhóm bạn lên trang http://trienlam.mattich.ai để mẹ nó có thể trải nghiệm, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, mọi điều mà nó đã chứng kiến, như thể nó đang đi du lịch với mẹ, như thể nó đã biết cách làm thời gian dừng lại, để tái diễn kỷ niệm đi chơi của hai mẹ con từ thời trước khi nó vào đại học.
Một cách khác, Ai có thể được ví như truyện Ngàn Lẻ Một Đêm trong đó Scheherazade đã biến mất nhưng những câu chuyện vẫn tự động được kể, bởi bất cứ ai, cho dù là người hoặc máy. Cũng có thể xem những câu chuyện được kể lại — qua phương tiện ảo của kỹ thuật hiện đại — là thảm kịch, vì chúng đều có vẻ là những câu chuyện về sự thất bại, về những mất mát “không thể trưng bày,” nhưng lại giống “mùi hương [của hoa thạch thảo]” luôn luôn ám ảnh người mẹ.
Cho dù những câu chuyện được lưu giữ trong máy quay phim hoặc trên mạng mattich.ai là thảm kịch, chúng tượng trưng cho những thử nghiệm để một cá nhân có thể cùng lúc cự tuyệt và chấp nhận sự nghiệt ngã của thời gian. Ai, người chế tạo búp bê trong đoạn phim chiếu trên trang mạng mattich.ai, được bà Aika, người mẹ Nhật của Aiko — một nữ sinh trung học bị tử thương vì tai nạn xe hơi — đặt hàng nhờ làm búp bê theo hình dạng của Aiko như thể cô con gái của bà vẫn còn sống và lớn lên theo thời gian. Cách bà Aika muốn tái sinh Aiko qua nghệ thuật cũng không khác gì việc người mẹ, trong những chương đầu của Ai, muốn cấy/clone những bản sao của thằng con trai từ sợi tóc của nó, để mỗi phiên bản tượng trưng cho mỗi chặng đời của đứa con. Ước nguyện tái tạo thời gian của hai người mẹ trong Ai làm ta nghĩ đến hình ảnh những trẻ em bị mất tích trên các hộp carton sữa, được biến hóa theo kỹ thuật dự đoán tuổi đời để trông như các em vẫn lớn theo thời gian, để may ra các em còn sống sót ở đâu đó và sẽ được cứu.
Người chế tạo búp bê cũng bị cám dỗ bởi chính ảo tưởng tạo hóa của mình, nhưng cuối cùng thì nhận ra rằng mục đích của nghệ thuật, cũng như của đời sống, không hướng về sự hoàn mỹ cố định, mà chính ở trạng thái mạo hiểm, ở những thử nghiệm có thể thất bại. Ai không giao hàng búp bê Aiko cho bà Aika, vì con búp bê tưởng là hoàn hảo đã bị dính máu, do đó bị coi như đã biến thành người – một “phế phẩm” phù du và bất trắc.
Khái niệm dấn thân trong nghệ thuật và đời sống cũng là cách mà một cá nhân tự cho phép mình biến mất khi định mệnh của họ trở thành bất khả. Đây là motif trong lịch sử gia đình cũng như trong hầu hết mọi tác phẩm của Đặng Thơ Thơ. Phương tiện trợ tử cho người bệnh nan y trong truyện “độ đau của máy” từ Phòng Triển Lãm Mùa Đông, cái chết bằng cyanide của bà ngoại tác giả và cô Hồng Trang trong truyện “Mở Tương Lai” từ Khả Thể, và sự tự tử của người thợ chống chính sách bóc lột lao động trong Ai là những nỗ lực
mở cánh cửa thời gian … bằng ý chí quyết liệt và vô vọng [mà] không quyền lực nào có thể ngăn nổi. (Ai, tr. 249)
Ai không giải mã được sự chết cũng như những khoảng thời gian bị đánh mất, qua đời sống hàng ngày, chiến tranh, lịch sử đô hộ, hoàn cảnh lưu vong, thể chế độc quyền, những bất công trong xã hội v.v., nhưng cho độc giả nhiều lựa chọn để đánh dấu những gì đã mất. Ai cũng giúp chúng ta cảm nhận sự lôi cuốn của bi kịch. Tại sao chúng ta thích chiêm nghiệm, qua nhiều lần, những bi kịch của Shakespeare, như Hamlet, Macbeth, hoặc không chán đọc những truyện huyền thoại Hy Lạp về sự biến thể của thần Zeus, cũng như của các nạn nhân của Zeus? Chuyện chúng ta bị/được bi kịch lôi cuốn không vì chúng ta nghĩ là các nhân vật trong bi kịch có thể trốn tránh được số mệnh của họ, nhưng vì chúng ta biết rằng các nhân vật này, như chúng ta, không thể nào thoát khỏi định mệnh. Chúng ta bị/được bi kịch lôi cuốn chính vì chúng ta là người.
Tuy vậy, những câu chuyện về ly tán và mất tích của Đặng Thơ Thơ, như các huyền thoại Hy Lạp, như bi kịch của Shakespeare, vẫn thể hiện tinh thần tự quyết. Tự quyết trong ước muốn được tận hưởng, và ghi nhớ, từng giây phút trong đời sống, để luôn duy trì nét mới, lạ của nó. Tự quyết trong ý thức cùng cực và thấm thía về định mệnh vô thường. Tự quyết trong mọi chất vấn chính trị. Tự quyết trong nỗ lực kháng cự mọi hình thức của biến mất.
Trong bài thơ “The Last Dinosaur” (“Con Khủng Long Cuối Cùng”) mà Ocean Vuong sáng tác sau khi mẹ anh qua đời vì bệnh ung thư, nhà thơ dùng ẩn dụ con khủng long thời Đại Trung sinh (Mesozoic) sắp bị núi lửa thiêu hủy, vẫn gìn giữ được thế giới đặc thù của nó trong ánh mắt, và qua ký ức sâu đậm về người mẹ:
Ai ngờ thượng đế coi bọn ta như
một thử nghiệm chọc trời thất bại.
Ai ngờ tròng mắt ta
có đến ba sắc trắng nhưng chỉ một hình ảnh
của mẹ. Mẹ đứng dưới tàng cổ thụ
gỗ đỏ, buồn thiu. Thời gian trên đất là
gia tài của mẹ.[ii]
Con khủng long quay ra chất vấn nhân loại, là loài đã được tồn tại đến ngày hôm nay, sao vẫn chưa biết dung hòa ý chí tự quyết với tinh thần đón nhận tính phù du nhưng kỳ diệu của đời sống:
Loài người ơi, ta không chấp chuyện ngươi thắng thế
Nhưng sao ngươi chưa dám mơ xa hơn. Đại đế
của ngôn ngữ, sao chưa biết vượt qua Không
mà không xao lãng những gì đã Có?[iii]
Qua những sáng tác văn chương, Đặng Thơ Thơ, như Ocean Vương, đã thử nghiệm với nhiều cách mơ xa hơn, để mở ra những cánh cửa trông như khó mở. Trong cách hoán chuyển mọi điều quen thuộc qua những chức năng nghệ thuật mới lạ, tác giả giúp chúng ta cảm nhận giá trị đa diện của đời sống. Sự trân quý một hiện tại không trường tồn chính là hạnh phúc của thân phận làm người, “hạnh phúc khi biết rằng ngày mai sẽ khác hôm nay,” như chị đã viết trong truyện “Mở Tương Lai.”
Để độc giả thấy sự tương quan giữa vô thường và luân hồi, phần cuối của Ai trình chiếu những giai thoại mất tích, qua lời tự thú của các bà mẹ. Một người mẹ có mười tám đứa con được clone từ một đứa – mỗi bản sao tái tạo từng năm của thằng con trai vừa lên mười tám. Mới đầu bà nghĩ mình là người mẹ hạnh phúc nhất trên đời, vì đã nắm giữ được thời gian thay vì bị “mất” đứa con khi nó bước sang một tuổi khác. Nhưng cuối cùng bà nhận ra rằng những bản sao này cũng chỉ làm bà đau khổ gấp bội phần, do chúng sẽ lập lại nhiều lần những dằn vặt và khiếm khuyết của bản gốc.
Ngôn ngữ diễn tả những trạng thái tuyệt đối như “thích nhất,” yêu nhất,” “hạnh phúc nhất” tượng trưng cho ảo tưởng đặc quyền, muốn sở hữu những điều không thể nắm bắt, đồng thời phản ảnh nghịch lý của đời sống có hai mặt thân thương và phổ quát, cao quý và tự nhiên. Tình mẫu tử, một mặt gợi lên những cảm xúc và kỷ niệm đặc thù tùy theo hoàn cảnh cá nhân, mặt khác là một đề tài hoàn cầu, xúc tác của quá trình tiến hóa, từ ước nguyện được sinh tồn bất tận, cố hữu trong bất cứ ai là mẹ, trong bất cứ ai đã được ra đời để rồi sẽ phải biến mất.
Đinh Từ Bích Thúy
Oakton, Virginia & Los Angeles, California
07 – 16 tháng Tư 2024
This publication was supported in whole or in part by funding provided by the State of California, administered by the California State Library in partnership with the California Department of Social Services and the California Commission on Asian and Pacific Islander American Affairs as part of the Stop the Hate program. To report a hate incident or hate crime and get support, go to CA vs Hate.
Tác phẩm này đã được hỗ trợ toàn phần hoặc một phần bằng nguồn tài trợ từ tiểu bang California, do Thư Viện Tiểu Bang California quản lý với sự hợp tác của Bộ Xã hội và Ủy ban đặc trách Cộng đồng Người Mỹ gốc Á Châu và Quần đảo Thái Bình Dương cho dự án Stop the Hate (Ngăn Chặn Lòng Thù Hận). Để báo cáo mọi sự việc liên hệ đến tội ác do thù ghét và những hành động kỳ thị chủng tộc, và để nhận lãnh hỗ trợ, xin vui lòng truy cập trang mạng của Bộ Dân Quyền (Civil Rights Department) Tiểu Bang California, CA vs Hate.
Chú thích:
[i] (“Con Yêu Ai Nhất,” trong Phòng Triển Lãm Mùa Đông, tr. 215-217, bản điện tử (epub) xuất bản trên kesach.org)
[ii] Ocean Vuong, “The Last Dinosaur,” từ hợp tuyển thơ Time is A Mother (Thời gian là Mẹ) (Penguin Press, 2022), tr. 29-30. Bản in của Penguin Press đổi “ancient pine” từ bản trên Boston Review thành “ancient redwood,” và cũng thay “Lord of language” (“Chúa tể của ngôn ngữ”) thành “Emperor of language” (“Đại đế của ngôn ngữ”).
Mọi trích dịch Việt ngữ là của Đinh Từ Bích Thúy, từ nguyên bản Anh ngữ của Ocean Vuong trong bản in của Penguin Press:
“I didn’t know God saw in us a failed
attempt at heaven. Didn’t know my eyes
had three shades of white but only one image
of my mother. She’s standing under an ancient
redwood, sad that her time on Earth is all she owns.”
[iii] Như trên. Từ trích đoạn Anh ngữ:
“Oh human, I’m not mad at you for winning
but that you never wished for more. Emperor
of language, why didn’t you master No
without forgetting Yes? ….”