– Tới giờ lên đường, không dùng dằng thêm phút giây nào nữa.” Anh đã nói với Th. như vậy, tại quán cà-phê trước đây Th. là một trong hai đồng-chủ-nhân. Đấy là quán cà-phê anh ưa thích hơn hết thảy ở thị trấn sương mù vì vẻ hoang sơ, vẫn ưa thích nó vì vẻ hoang sơ ấy, nhưng tình trạng bây giờ đã khác trước. Th. không còn là một trong hai chủ nhân cái quán hoang sơ này nữa, cô gái trở thành một người khách như mọi người khách tới quán này uống cà-phê.
Nửa tiếng đồng hồ sau, Th. chạy xe xuôi chiều quốc lộ, mặc nhiên là con phố chính của thị trấn sương mù, ngang qua ngõ hẻm 349, thấy anh lại ngồi ở cái bàn sát cửa quán cà-phê nhỏ, nhìn chếch sang bên ngõ hẻm 349. Ngõ hẻm không có gì đặc biệt, một đoạn ngắn kè bên hông trạm biến điện chạy vào phía trong, rồi vội vã ngoặt sang một bên, khuất sau những nhà cửa. Trạm biến điện cũ mốc, ngờ đã bỏ phế, nhưng thỉnh thoảng vẫn thấy người ra vào, một vài chiếc xe gắn máy dựng ngoài sân, cái sân cỏ mọc đầy khắp. Phía sau trạm biến điện, hai trụ tháp xây vươn cao vượt hẳn lên phía trên trạm biến điện, vôi vữa tróc lở không biết từ thuở nào, có lẽ trước thuở đó nơi này là thánh thất của đạo Cao Đài.
Th. ưa ngồi bên anh, uống cà-phê hoặc một ly trà chanh, ưa gọi anh là người-nghệ-sĩ-lang- thang.
– Người nghệ sĩ lang thang tới khi nào mới chịu dừng bước?
Th. thỉnh thoảng hỏi anh như vậy, anh luôn trả lời:
– Lang thang tới khi nào dừng bước thì hết lang thang.
Có cả cái vẻ Th. ưa thích con người nghệ-sĩ-lang-thang ấy, cái vẻ ưa thích quá độ làm nhiều người ngờ rằng Th. yêu anh. Nhưng anh không lẫn lộn giữa sự thương cảm với tình yêu nam nữ. Bằng hữu, người thân quen anh đều thấy rõ điều ấy, thấy rõ sự thương cảm của anh với Th., họ cũng gọi anh là kẻ lang thang, đúng nghĩa là kẻ lang thang. Kẻ-lang-thang-thứ-thiệt. Có thể xem chiếc xe gắn máy anh đang sử dụng là người tình của anh, hơn bất cứ người phụ nữ nào đã đi qua đời anh. Điều này nghe tức cười, nhưng có lẽ sự thật tình cảm của anh đúng như vậy.
*
Anh đã xuống tới chân đèo. Th. chúc anh thượng-lộ-bình-an, dĩ nhiên qua cái điện thoại di động. Tới chân đèo B’Lao thân thuộc, bởi anh đã một-nghìn-lẻ-một-lần qua đèo B’Lao, anh dừng xe. Anh lại vào một trong những quán cà-phê ở chân đèo. Không phải anh quá ưa ngồi quán, chỉ vì có quá nhiều quán anh không thể không vào. Vào quán. Uống cà-phê hay thức uống nào, đối với anh không quan trọng.
Người khách duy nhất trong quán bước ra khi anh đi vào. Anh chợt nhìn, lộ vẻ ngạc nhiên trước người khách, từ vẻ mặt tới khổ người khá cao. Bộ mặt đầy vẻ Orgueil de pénis, “Ồ, không phải vậy, có lẽ anh sẽ đính chính với Th. về cái vẻ…, anh đã không nói huỵch toẹt đấy là cái vẻ gì, bằng tiếng Việt, nghe sỗ sàng. Lúc nghe anh nói, Th. không hiểu, bảo anh ghi vào giấy mấy chữ tiếng Pháp đó. Không, anh ta, người Th. cho rằng mình đã yêu lầm, không có cái vẻ gì như vậy, anh tự thấy mình đã đồng lõa với Th. để khiên cưỡng cho rằng anh ta là người như vậy.
Người khách ra ngoài quán nổ máy xe, thận trọng chạy trên đoạn đường xấu, đất đá mấp mô. Dĩ nhiên ông ta hoàn toàn không phải là người mà Th. bảo là mình đã yêu lầm, thoạt đầu anh ta đã biết như vậy.
Một mình anh trong quán, ngó chai rượu vang đỏ mang nhãn hiệu Excellence ở quầy. Rượu vang Đà Lạt. Cũng được. Dĩ nhiên không ngon bằng bất cứ thứ rượu vang nào của bất cứ quốc gia nào trên thế giới, anh nghĩ vậy. Anh kêu chủ quán lấy chai rượu vang đó. Uống hết chai cũng không chắc gì say xỉn được, nhất là vào buổi trưa như lúc này. Quán không giăng võng như nhiều quán khác ở dọc đường quốc lộ; anh được ngả lưng nghỉ ngơi một chút thì tốt hơn. Anh lẩm bẩm: “thôi cũng được,” nếu thấy đã ngà ngà say thì anh sẽ ngưng lại, có ai bắt buộc mình phải uống cho cạn tới đáy chai. Trên đường về Sài Gòn cũng chẳng còn đèo dốc nào đáng ngại, phải dè chừng, anh không lo sợ cái xe gắn máy hai bánh hiệu Spacy lăn bổ nhào xuống vực sâu. Đèo Chuối không có gì nguy hiểm, chỉ là vài ba cây số đường uốn lượn cong vòng đôi chút mà thôi. Cái dốc ở Định Quán xuống La Ngà, chạy cẩn thận, giảm tốc độ bình thường anh vẫn chạy, chẳng thành vấn đề gì nữa.
Anh từng té xe ba lần, cả ba lần đều trên đường phố thẳng băng của Sài Gòn. Cả ba lần té xe đó anh đều say xỉn, sau khi uống cùng bạn, mỗi người một chai rưỡi rượu vang ở quán Bến Cũ. Người bạn họa sĩ anh trân trọng yêu quý, anh gọi giỡn là nhà đại họa Nguyễn Trung, nhắc anh sau lần té ngã thứ nhất:
– Lần sau tới quán Bến Cũ, ông nhớ cho là đi xe ôm đấy nhé!
Dĩ nhiên anh nghe lời nhắc nhở khuyên bảo chân tình ấy, để tiếp tục té ngã thêm hai lần nữa. Anh nhận thấy hình thù to ngang của chiếc xe Spacy là một trợ lực, giúp kẻ say xỉn té không đau; nó đỡ cho thân người nhiều phần đau đớn trầy xước. Có đau chăng nữa cũng vẫn là một trả giá quá rẻ: được uống rượu vang ngon ở quán Bến Cũ; được ngắm nhìn cô chủ quán xinh đẹp. Cô chủ quán bị khuyết tật ở chân, phải chống nạng, chính vì thế càng tăng vẻ diễm lệ não nùng khi cô lên tiếng hát mượt mà.
Tên cô chủ quán Bến Cũ hình như cũng bắt đầu bằng mẫu tự Th., cô gái ở thị trấn sương mù có nhiều nỗi niềm anh thương xót. Cũng chính Th., người thiếu nữ đã tinh tế, thấu cảm mỗi khi đọc những dòng thơ u ẩn. Một lần, từ dòng thơ của Tô Thùy Yên, Tình yêu là khuôn mặt dịu dàng nhất của cô đơn, Th. nói:
– Với người nghệ sĩ lang thang, tình yêu ấy chính là những chặng đường!
Dừng lại ở đâu đó, hoặc lâu hoặc chóng, anh lại lên đường đi tới đâu đó. Những chặng đường. Anh nhận thấy hẳn nhiên đấy là hình ảnh thường trực trong cuộc sống của anh. Anh nhớ tác phẩm On the road của Jack Kerouac, nhà văn beatnik Hoa Kỳ, ông ấy lang thang đáng nể, ở một đất nước rộng lớn mênh mông vô cùng tận.
Anh đứng dậy, đi tới chỗ dựng chiếc xe Spacy, người chủ quán trẻ tuổi nhắc anh chưa trả tiền chai rượu vang Excellence Đà Lạt. Anh đã ngà ngà say, tật đãng trí của anh có lẽ vì vậy tăng thêm. Lúc này anh mới biết cái ví trong túi quần đã mất từ lúc nào. Anh nói với chủ quán:
– Cho tôi gửi cái đồng hồ đeo tay, lát nữa tôi mang tiền tới trả sẽ lấy lại.
Chủ quán không nói lời nào, lẳng lặng nhận cái đồng hồ. Hẳn nhiên anh ta đã nhận định được cái đồng hồ đeo tay này khá đắt tiền, nhiều gấp nhiều lần giá cả chai rượu vang Excellence Đà Lạt anh vừa uống.
Anh phải trở lại thị trấn sương mù gặp Th., cô sẽ mượn tiền giùm anh để trả tiền chai rượu; và còn đổ xăng cho cái xe nữa chứ; và còn ăn uống dọc đường. Mấy thứ giấy tờ tùy thân cho người và cho xe, dĩ nhiên cũng mất theo cái ví. Anh không ái ngại lắm về mấy thứ đó. Trên đường, cũng như ở bất cứ đâu, rất ít khi anh bị cảnh sát xét hỏi giấy tờ. Chạy xe lên tới giữa đèo B’Lao, điện thoại di động của anh reo vang nhiều lần. Anh dừng xe, nghĩ Th. gọi anh. Hóa ra không phải. Đào Duy Thi gọi.
Đào Duy Thi, người bạn anh tìm gặp lâu nay, người cháu dòng đích tôn của Đào Duy Từ, nhà chiến lược-nhà văn học-nhà kịch nghệ ở thế kỷ XVII của đất Việt. Anh mong mỏi gặp người bạn họ Đào, mãi hoài anh chưa gặp được. Lời hứa của Đào Duy Thi về câu chuyện Vịt chạy đồng, với anh là một cám dỗ. Đào Duy Thi từng nhiều năm lùa hàng ngàn con vịt băng qua vô số đồng lúa sau mùa gặt, trải từ Quy Nhơn – Bình Định xuôi xuống Đơn Dương – Lâm Đồng. Chúng ăn lúa sót, để Đào Duy Thi trở thành người thường trực cư ngụ và dời chuyển trên những cánh đồng. Bây giờ Đào Duy Thi đã ổn định cuộc sống, dĩ nhiên “ổn định” theo nghĩa thường tình, theo nghĩa ấy thì cuộc sống của Đào Duy Thi sung túc nữa là đằng khác, ở thị trấn Liên Nghĩa, huyện Đức Trọng. Bạn lên đây ở chơi bao lâu tùy ý, chuyện trò thâu đêm suốt sáng không nề, nói cạn cùng về đàn vịt chạy đồng bát ngát một thời dĩ vãng…, Đào Duy Thi nói chuyện hay làm thơ?
Dứt cuộc điện thoại với Đào Duy Thi, anh gọi cho Th., nói vắn tắt chuyện anh đang đi ngược lên hướng bắc của B’Lao, hẹn vài bữa sau sẽ trở lại thị trấn sương mù. Cũng may anh đã đổ đầy bình xăng trước khi mất cái ví; hẳn là dư nhiên liệu cho xe chạy tới thị trấn Liên Nghĩa.
*
Anh nằm rũ liệt, đau đớn toàn thân, trong vườn ngô sát bên quốc lộ Hai Mươi. Sâu trong vườn, cái xe Spacy gục đổ móp méo. Anh nghĩ chàng Holden Caulfield của Jerome David Salinger rất sợ lời chúc thượng-lộ-bình-an là đúng; ấy tuy nhiên hoàn toàn không phải anh thầm trách Th. đã chúc anh như vậy. Rượu vang Excellence Đà Lạt cũng đủ sức chuốc anh say xỉn rồi té xe; không thua rượu vang Chi-lê hay rượu vang Tây-ban-nha, uống với nhà-đại-họa-Nguyễn Trung, trong quán Bến Cũ ở Sài Gòn.
– Anh ngồi ngủ như thế này từ lúc nào vậy?
Th. lên tiếng, ngó chằm khuôn mặt anh mệt mỏi. Cô tới chỗ anh ngồi uống cà-phê sau chừng nửa tiếng đồng hồ. Anh ngó lại Th. và mỉm cười; ngó cái xe Spacy trìu mến. Cái xe chỉ móp méo hư hỏng trong cơn mơ; anh đã say, đã ngủ mê, sau những ly bia uống với Th. ở quán cà-phê hoang sơ cũ xưa ngàn năm ngày ấy.
– Thật ra anh ta không có cái vẻ orgeuil de pénis, bữa đó anh đã nói không đúng về anh ta như vậy.
Anh chợt lên tiếng, hệt đang trong cơn mơ. Th. hỏi anh nói gì vậy, vẻ mặt cô gái ngạc nhiên hết sức. Anh uống tiếp ly cà-phê đen không đường và nguội ngắt, lại nhìn sang hẻm 349, ngõ hẻm không có gì đặc biệt.
./.