3. Phương pháp nghệ thuật hay lối viết robot?
Tới chuyện nữa không có gì phải ầm ĩ mà chúng tôi còn ham lạm bàn (lại là sang các lãnh vực bản thân mình mù tịt!) Ham, vì chúng ta đang chạm tới khu vực nhậy cảm nhất của Muse – Nữ thần sáng tạo văn nghệ.
Về nghề văn, đa số tác giả không hề viết theo một phương pháp nghệ thuật nào. Vô khối văn tài thi bá đông tây kim cổ còn ứ thèm biết đến nó. Cẩm nang dưới tay các chư vị đó gói gọn ba điều: một, viết là viết[1]; hai, viết là viết hay; ba, điều một và điều hai. Ở ta có thể kể ngay hai tiền bối nổi trội: Nguyễn Bính[2], thơ và Tô Hoài, văn. Các khuynh hướng, trường phái, chủ nghĩa nếu như được hiện ra trong sáng tác, thì đa phần là từ góc độ chủ quan của nhà phê bình.[3]
Tất nhiên không kể các môn đồ theo đuổi một hay một vài khuynh hướng, trường phái, chủ nghĩa.[4]
Ngược lại, với hội họa và đặc biệt với võ thuật, trường phái quyết định nếu không nói là tiên quyết. Dù có thể không vẽ vời, đấm đá theo trường phái, môn phái nào sất, song hầu hết các họa sĩ, võ sĩ tài ba đều am hiểu một vài trường phái, môn phái phổ biến.
Bên chính trị thì từa tựa. Nhiều đảng phái, nhất là vào thời hậu hiện đại, có thể khỏi cần hệ tư tưởng, học thuyết, chủ nghĩa song nhất nhất đảng nào cũng phải có phương pháp. Là đang nói về phương pháp tư tưởng, khác phương pháp hành động (lao động nhà văn gọi là kỹ thuật viết, xem tiếp Phần 5).
“Tổ chức, tổ chức và tổ chức” là một trong vài phương pháp tư tưởng của đảng mácxít – lêninnít do Lênin lần đầu tiên tổ chức ra, ở nước Nga – Xô viết.
Trở lại chuyện chúng ta, các truyện ngắn trong Mối tình đầu.
Tác giả không theo khuynh hướng nghệ thuật cụ thể nào đã hoặc đang có, và dùng nhiều yếu tố từ các phong cách, khuynh hướng như ta thấy ở hai phần trên (cổ tích hóa, thi pháp tự truyện), cùng một vài yếu tố khác sẽ được bàn sơ qua dưới đây.
Có thể nói, nhờ nương theo cách-tổ-chức ra một truyện ngắn, Đỗ Ngọc Thạch đã hình thành một lối viết riêng cho mình. Rất ổn định. Nếu như thành công (tập truyện được giới phê bình đánh giá cao, dư luận khen hay, sách bán chạy, nối bản rồi tái bản, dựng thành phim, chuyển thể sân khấu, v.v…), nó sẽ được coi là phong cách. Còn nếu chưa hoặc không thành, thì lối viết vẫn chỉ là lối viết. Riêng, không giống ai. Một lối viết. Kể thế cũng đã “thành nhân”, như một tác giả.
Không xa lạ gì, Phương pháp tổ chức – ở đây xin định nghĩa – chính là các kiểu cách xây dựng tác phẩm ở khá nhiều loại hình văn học trên thế giới, từ dân gian đến đương đại; trong đó sự lặp lại những yếu tố về mặt hình thức tương tự với các tác phẩm khác sẽ quyết định hình thể tác phẩm.
Cổ tích, truyền thuyết, giai thoại, ngụ ngôn, tiếu lâm, rồi thơ Đường luật, ballad, lục bát, v.v… là các hình thức quý giá ở tính kế thừa.
Với văn học Việt lúc này, ví dụ, truyện ngắn của Nhật Chiêu và truyện cực ngắn của Hoàng Long cũng có thể xem là tương đối thành quả theo hướng đó, mà tình cờ cả hai đều chung một điểm tựa là văn học – văn hóa truyền thống Nhật Bản.
Không hề ngẫu nhiên khi trào lưu truyện cực ngắn hiện đại Trung Quốc trong nửa thế kỷ nay đã vụt biến một tiểu thể loại phải nói là kỳ khôi trở thành gần như kinh điển.
Từ lâu trong lý luận vẫn quen dùng thuật ngữ mô típ (motif) để chỉ các yếu tố làm nên cốt truyện và đề tài, tức là về nội dung. Nay bàn về Phương pháp tổ chức để thực hành sáng tác, chúng ta có thể dùng khái niệm mô típ hình thức – các yếu tố dựng lên bộ khung, tức là hình thể bên ngoài ôm ấp tác phẩm.[5] Khác với con người, tác phẩm văn học có loại đủ cả “đầu, mình, tứ chi” rõ ràng và cũng có loại thừa thiếu lung tung. Ở không hiếm sáng tác cách tân “đầu chẳng ra đầu” hoặc không “đầu”, “tứ chi” thì biến dạng… Riêng những loại hình dân gian, truyền thống thường có đầy đủ các mô típ hình thức.
Dễ thấy ba sở đoản, cũng là sở trường, ở các sáng tác theo Phương pháp tổ chức: a. Đơn điệu (dễ nhớ, dễ hiểu, dễ tái sáng tác); b. Giáo điều (dễ chuẩn mực); c. Chất nhân văn làm chủ nghệ thuật và ngôn ngữ (dễ tải đạo).
Một văn sĩ Pháp thời kỳ Lãng mạn từng có ý rằng, tác phẩm độc đáo chưa hẳn là không bắt chước các tác phẩm khác, mà là không tác phẩm nào có thể bắt chước được nó. “Học hỏi các cụ” dễ làm mà khó thành, khó đạt. Không cao tay sẽ lôi dài sở đoản, co ngắn sở trường. Không thuần thục tổ chức các mô típ hình thức thì chỉ dừng lại ở lối viết tự động.
Đỗ Ngọc Thạch đã chế tạo[6] truyện ngắn của mình ra sao?
Không tính một vài truyện lịch sử, cổ tích được trung thành “bổn cũ soạn lại” (như đa số tác giả cổ tích tân thời khác), hầu hết các truyện đều được viết theo Phương pháp tổ chức.
Đại thể, khuôn của các truyện trong Mối tình đầu thế này:
a. Chọn tên truyện trúng nội dung, không bóng gió, ẩn dụ. (Dễ nhận ra chỉ qua Mục lục).
b. Mở truyện bằng một đoạn dẫn dụ như tư liệu báo chí, lịch sử về một vấn đề, địa danh, sự kiện nào đó, thường là các chủ điểm hot trong xã hội (Băng nhân; Nghêu, Sò, Ốc, Hến).
c. Giới thiệu thẳng nhân vật chính (theo kiểu truyện Tàu) và có thể kèm vài nhân vật phụ, liên hệ nhiều khi rất xa với các điều vừa dẫn dụ. (Ba lần thoát hiểm, Có một hậu duệ của nhà Hậu Lê).
d. Kể, thuật theo cốt truyện, dàn ý rành mạch, lớp lang theo tình tiết, diễn tiến của thời gian và không gian với cấu trúc tuyến tính.
e. Hành văn gãy gọn, tự tin như loại “tác giả biết tuốt” bằng ngôn ngữ bình thường đượm vẻ tếu hài, dùng nhiều cách nói bình dân, tục ngữ, thành ngữ phổ biến trong cộng đồng.
g. Xung đột phát triển không theo tâm lý nhân vật mà bằng những sự cố bất ngờ mang tính phóng dật, khôi hài đen trong mặt trái xã hội, từ hạ tầng con của con người hướng lên thượng tầng người.[7] Chất hư cấu của truyện sinh ra từ hư cấu chi tiết (kỹ thuật) mà không bằng hư cấu cốt truyện (nghệ thuật).
h. Tận dụng hết cỡ các thủ pháp của nghệ thuật tuồng (ước lệ, cách điệu, khoa trương), một vài thao tác của văn chương hậu hiện đại (lồng ghép tư liệu lịch sử, địa lý như các ngoại đề), và nhất là tính phóng đại của cả hai nghệ thuật trên mà không cần “trữ tình”.[8]
i. Kết truyện bất ngờ nhưng phi logic so với diễn biến truyện, đúng như một quan niệm rất hay của tác giả, “với thể loại truyện ngắn, chỉ cần tới cuộc điện thoại bị cắt ngang là đủ!” (Đấu trường 100).
Thách đố cho Đỗ Ngọc Thạch là tránh lặp lại mình trong khi lặp lại tiền bối. “Hay đó cũng chỉ là một thủ-pháp-giả của ông để tạo ra tác-dụng-ngược cho tác phẩm?”[9]
4. Chức năng của văn học… “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi…”
– A: Một chuyện tiếu lâm hiện đại, từng lan truyền từ khối xã hội chủ nghĩa Liên Xô – Đông Âu sang Việt Nam ta: “Ở mọi cuộc họp của Viện Hàn lâm Khoa học nọ được tiếng là tiến bộ, lời đầu tiên bao giờ cũng phải là ‘Buổi họp hôm nay có cần thiết không?’ Nếu biểu quyết thấy không cần, cuộc họp coi như chấm dứt.”
– B: Như vậy, độc giả nào thấy khỏi cần Phần 4 này, hãy bỏ qua và mời xuống “cuộc họp” cuối cùng của bài viết, Phần 5. Còn vị nào băn khoăn: thực ra văn học làm gì có chức năng nhỉ, cái thường bị/được gọi là chức năng té ra chỉ là đặc thù; hoặc nói trắng phớ như nhà mỹ học Hoài Lam, “Không thể đi tìm chức năng nghệ thuật ở ngoài nó, những cái mà xã hội cần ở nó, đó là những nhiệm vụ, không phải chức năng (function)”[10]; hoặc nói chắc cờ chức năng văn học là phục vụ chân – thiện – mỹ… thì Quý vị cũng nên ra bên lề mà ngó vào. Như vậy…
– C: Có nhẽ đâu thế! Đến như đại thi hào Nga Pushkin còn phải thẳng tưng mà tếu rằng, “Truyện cổ tích là dối trá, nhưng trong đó có những bài học cho các cu cậu hảo tâm”. Chẳng chức năng giáo dục là gì!
– D: Tôi phải nói thật lòng, khi bàn thảo về chức năng văn học, ta hay đặt ra các hoàn cảnh lịch sử cực kỳ hợp tình hợp lý. Thực ra, đó là các thời điểm hữu hạn của văn học vị-quyền-lực. Không hợp tình hợp lý “việc làng” sao đành mỗi khi cho văn học hóa thân thành ông đồ, lính lệ, thằng mõ… Tiểu thuyết phải hướng dẫn độc giả đi tới tầng cao của tri thức và tâm hồn; Câu thơ mang sức mạnh của tiểu đoàn đặc công; Ký sự vẫy gọi nhân gian ra quảng trường…
– E: Cái này bên lý luận đã vừa có “cuộc hội thảo khá lớn với cái tên cũng khá lớn là ‘Văn học, Nghệ thuật với việc xây dựng nhân cách con người Việt Nam’ do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương tổ chức tại TP. HCM trong hai ngày, 3 và 4/10/2015. (…) Vấn đề là khá nhiều bác lên nói những điều rất cũ, như giải thích phương pháp sáng tác Xã hội chủ nghĩa là gì, ba chức năng của văn học nghệ thuật ra sao, cần hhấn mạnh chức năng giáo dục và chức năng nhận thức thế nào… Nghe cứ ù hết cả tai.”[11]
– G: Thì vẫn… Nói theo anh Nguyễn Đức Nam hồi mới Đổi mới một tí: Ba chức năng là khung của lý luận giành cho người quản lý thôi ạ. Lý luận ba chức năng không ổn một tí nào khi nói từ phía người tiếp nhận ạ.[12]
– C: Có nhẽ đâu thế! Tí gì mà ít vậy. Còn nữa, anh Nam á dạo đó anh ấy còn bảo: “Sáng tác mà chăm chăm vào một chức năng (nhận thức, giáo dục) thì tất hỏng. Chức năng thẩm mỹ rõ ràng là bản chất biểu hiện lên các chức năng kia.”, trong khi anh Phúc, Vũ Đức Phúc í, thì: “Nghệ thuật nhiều chức năng, nhưng chức năng tư tưởng là hàng đầu”, “người đưa lý thuyết ba chức năng văn nghệ vào Việt Nam là Septulin, đưa vào giảng dạy hồi những năm 60 ở trường Đảng Nguyễn Ái Quốc.”[13]
– B: Như vậy, đã hiển lộ những bài học triết lý, minh triết Việt từ truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch bằng quan niệm luân hồi và số mệnh – hai sức mạnh chính của thế giới quan cổ tích phương Đông. Với tác giả này, như vậy, không hẳn luân hồi là hóa thân vào kiếp khác của người hoặc thú vật mà tự hoán đổi vào thân phận kỳ lạ khác của chính mình sau những cú nhảy của số phận.
– C: Có nhẽ đâu thế! Còn nữa, ngoài những bài học. Chức năng giải trí là đích thứ hai nhưng trực diện từ các trang văn Đỗ Ngọc Thạch. Của đáng tội, đọc xong thấy “mua vui cũng được một vài”… chục phút! Toàn các chuyện 3T tiền-tình-tội mà chả mệt đầu, cũng chả động não.
– E: Cái này bên lý luận truyện ngắn đã chốt lại rồi. Trích và nhấn mạnh: “Một số truyện ngắn khiến bạn thích thú khi đọc, nhưng thực ra lắm khi chúng chỉ là loại truyện giải trí, thuần túy để thời gian qua mau hơn, giúp ta tạm quên thực tại và những rắc rối nhức đầu. Một số truyện ngắn khác thì đem lại nhiều hơn thay vì chỉ đơn thuần giải trí. Chúng giúp ta nhìn sâu hơn vào khía cạnh nào đó (…). Ta có thể tạm gọi đó là loại truyện lý giải. Tuy nhiên, thật khó vạch một biên giới rõ rệt cho hai loại truyện này. Chúng như hai chùm ánh sáng ở hai cực rọi vào chúng ta, những người ở giữa.”[14]
– H: Tựu trung, để cho “hậu hiện đại” và “hậu đổi mới” không bị “hậu hậu đậu” như đang là, tôi thấy ta vẫn phải đóng đinh vào bảng giá trị của văn học bộ khung ba, hay bốn, năm chức năng, tùy nghi. Ba chức năng bất khả từ, về thứ tự cũng tùy nghi: Nhận thức, giáo dục và thẩm mỹ; Nhận thức, thẩm mỹ và giáo dục; Giáo dục, nhận thức và thẩm mỹ; Giáo dục, thẩm mỹ và nhận thức; Thẩm mỹ, nhận thức và giáo dục; Thẩm mỹ, giáo dục và nhận thức. Thế thôi cũng đủ! Cách tân, đổi mới, hiện đại hay hậu hiện đại đi chăng nữa nhưng trong khuôn viên của các tập hợp quan hệ nói trên cũng đủ nuôi sống – sống hùng sống mạnh – một nền văn học lớn, đủ một nhà văn lớn viết đến chết – chết đẹp chết khỏe.
– G: Thì vẫn… Không như vậy là không hiểu tí gì về khoa học nhân văn, không biết tí gì về nhà văn.
– E: Cái này bên lý luận hiện thực xã hội chủ nghĩa đã làm xong ngay từ Đổi mới 1987 với sự chiêu tuyết chức năng thẩm mỹ bởi các chư vị như Trần Trí Trắc (“Chức năng nghệ thuật: chỉ có một chức năng thẩm mỹ.”), Phương Lựu (“Về chức năng nghệ thuật: tương đối nhiều. Ví dụ dùng thơ chữa thẹn cũng là chức năng của thơ. Nói ba chức năng là nói gọn lại. Cái chính là chức năng thẩm mỹ.”), Hoài Lam (“Giải quyết các vấn đề bản chất, chức năng là quan trọng; lâu nay ta coi nhẹ chức năng thẩm mỹ là một bản chất rất cơ bản của văn nghệ, trong khi ta thiên hẳn về nội dung chính trị.” [15], và Nguyễn Đức Nam như đã thấy.
– C: Có nhẽ đâu thế! Còn nữa… Johan Huizinga, sử gia người Hà Lan, một trong những vị sinh ra ngành lịch sử văn hóa hiện đại từng nói tới yếu tố xã hội trong trò chơi chữ: “Trò chơi là một yếu tố cơ bản trong việc tạo dựng văn hóa”, nên “nếu trò chơi đứng ngoài lãnh vực của lợi ích và nhu cầu vật chất, và nếu thơ ca là một trò chơi thì ngay nơi thơ ca tự thuở xa xưa nhất đã có một yếu tố vô bằng cớ.”[16] Chẳng chức năng giải trí là gì? Ô kê không?
– G: Thì vẫn… Đây, lời thi sĩ kiêm phê bình gia Paul Valéry, vị đại diện lớn cuối cùng của Chủ nghĩa tượng trưng Pháp: “Đến với thi ca không có nghĩa là đến với những lạc thú tầm thường của ngôn ngữ, mà là tìm đến với hội hè của trí tuệ!”[17] Đấy, “lạc thú tầm thường”, hội hè”… Chẳng chức năng giải trí là gì? Ô kê đi!
– B: Ô tô kê! Ô tô kê! Như vậy và hơn thế, trong truyện Thạch tôi thấy cả triết lý dân gian cùng triết lý cá nhân được dân gian hóa. Và không nhuần nhị kiểu như truyện Thiệp – nơi “có sự mở rộng những kinh nghiệm nguyên thủy”.[18] Như vậy…
– G: Thì vẫn… Dẫn chứng tí này. “Ai đồng ý bố chết giơ tay, tôi biểu quyết nhé.” (Không có vua); “Sức mạnh đế vương thật là sứ mệnh khốn nạn, chỉ được quyền cao cả, không được quyền đê tiện” (Kiếm sắc). Và, “Chồng em mà đánh em chỉ một cú vào đầu là em cắt dái!” (Kiếm sống); “Hãy cứ để cho bàn tay của tạo hóa sắp xếp! Ta chỉ cần thực hiện cho tốt!” (Ô Đống Mác).
– D: Tôi phải nói thật tâm, trong phương diện chức năng – nếu quả thật có chức năng – chưa bàn hay dở thì Thạch triết lý để giáo dục, Thiệp triết lý để nhận thức. Tiện thể, thực tình là chức năng nhận thức của Thiệp nó bao hàm cả chức năng dự báo rồi.
– H: Voilà! Tựu trung, là người cách tân nhất nay đồng chí đã đến lúc tự nâng cấp chức năng từ ba lên năm rồi!
– G: Thì vẫn… Ngay năm đầu Đổi mới, trong một hội nghị tại Ban Văn hóa tư tưởng Trung ương do chính bác Độ, Trần Độ ấy ạ, chủ trì, anh Hoài Lam còn đo đếm: “Nói chức năng là nói những năng lực, khả năng vốn có của nghệ thuật (các nhà mỹ học marxist đã nêu tới 24 chức năng nghệ thuật)”[19] cơ mà!
– E: Cái này bên lý luận chưa giải quyết xong: truyện Thiệp có giải trí không? Riêng tôi, không! Khoái thì quá khoái nhưng mệt quá, vì đau quá. Cứ như làm tình ấy!
– G: Thì vẫn… Cậu tí tuổi đã lý luận giỏi lại thạo “thực hành” nữa. Sao bây giờ mới nói ra?! Ừ, giải trí gì, có mà giải cấu trúc, giải thiêng, giải huyền thoại. A, giải thưởng nữa, mà tí giải thưởng quốc tế thôi. Trong khi truyện Thạch chỉ giải trí thôi. À giải… dục nữa. Hi hi, xin lỗi đùa tí.
– D: Tôi phải nói thật tình, hôm nay mọi người biết hết các cái tí của chị rồi ạ![20]
– H: Tựu trung, trên đã thấy tới lúc ta cần phải “xoay trục châu Á”, ồ nói nhịu, “xoay trục giải trí”. Tôi cũng thấy một tiểu luận mới được pốt trên mạng, ngắn thôi, đâu như hơn 3.800 từ, nhưng phải nói khá tốt khi ta cần chiêu tuyết cho chức năng giải trí. Giải trí là lãnh vực vừa bao trùm vừa luồn lách nền kinh tế thị trường trong thời toàn cầu hóa nhất là khi Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (mà theo đánh giá của nhiều cơ quan phân tích có uy tín trên trường quốc tế thì nước ta sẽ hưởng lợi chắc là nhiều nhất[21]) vừa được chính thức công nhận với cuộc đàm phán cuối cùng của Trưởng đoàn 12 nước thành viên vào sẩm tối hôm qua ngày 5 tháng 10 năm 2015 tại thành phố Atlanta của Mỹ sau 5 năm sôi nổi mà căng thẳng với nhiều trì hoãn đến mức cứ tưởng như hết cửa.
– G: Thì vẫn… Sáng nay chồng em cà phê đã thấy báo giấy Tuổi Trẻ trong Sài Gòn giật luôn tít “Kết thúc đàm phán TPP, Việt Nam bước vào sân chơi mới”.[22] Chơi! Chẳng giải trí thì giải… rút à?
– C: Có nhẽ đâu thế! “Phải hết sức bình tĩnh với TPP”[23]– chính Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Quốc Khánh, Trưởng đoàn Việt Nam tại đàm phán TPP bảo vậy khi chủ trì họp báo về việc kết thúc đàm phán mà báo mạng Thanh Niên ngoài Hà Nội đang giương lên đầu giao diện.
– E: Cái này bên lý luận cũng từ lâu (mà đầu tiên là Viện Văn học nghe phong thanh các bác bên Khoa Văn học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn với đích xác là Trung tâm Nghiên cứu và Ứng dụng Văn hóa – Nghệ thuật) có kế hoạch thảo luận quanh bài tiểu luận đó. Nào, cùng Phó giáo sư – Tiến sĩ Lý Hoài Thu “Nhìn lại chức năng giải trí của văn học nghệ thuật”[24] qua mạng Tạp chí Văn nghệ Quân đội và một vài mạng khác. Báo cáo anh; đúng thế ạ, ngắn, 3.815 từ, kể cả tên tác giả và ngày tháng. Ô kê?
– B: Ô tô kê! Như vậy, cuộc họp về chức năng văn học hôm nay kết thúc bằng cách mở ra câu hỏi: Ở thước đo giải trí, sáng tác Đỗ Ngọc Thạch vào vừa khung lý luận Lý Hoài Thu: tại sao không?
– A: Chức năng của văn học… “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi”…
5. Kỹ thuật viết: truyện ngắn cho ra truyện ngắn
Sắc hay cùn, dao nào gọt được chuôi! Mạn phép dùng luôn bài tổng quan Truyện ngắn – Đặc trưng thể loại của Đỗ Ngọc Thạch để thử “gọt” truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch. Như đã dạm trước ở Phần 1, Chú thích 24.
Kỹ năng viết truyện ngắn, có biết bao nhiêu là sách là thầy. (Chắc nhiều gần bằng sách, thầy dạy nấu ăn!) Lạ, dường như không có nhiều sách, tài liệu tương tự, hướng dẫn cụ tỉ và khoa học cách làm thơ, viết tiểu thuyết, soạn kịch. Không hiểu sao? Có lẽ vì truyện ngắn, dầu gì cũng dễ vào khuôn thước. Khuôn về hình thức nghệ thuật (sẽ bàn dưới đây) đã đành, mà cả về hình thức văn bản (kích thước tầm 4.000 từ để có thể lọt vào một trang báo hay năm trang sách, nếu không muốn bị cắt xén; đủ đầu-mình-tứ chi; dễ theo nhu cầu báo chí về thời gian, đề tài và… nhuận bút), chứ không bất định mờ ảo như thơ, phóng khoáng tù mù như tiểu thuyết, lan man giật cục như kịch? Không thế các giáo sư đâu dám cao giọng đứng lớp bày vẽ cho những nhà văn tương lai các mẹo luật sáng tác truyện ngắn cho ra truyện ngắn!
Thế kỷ 20, nhà văn ta viết truyện ngắn theo kinh nghiệm từ truyện Tàu, rồi truyện ngắn Pháp… Sau 1954, từ ngả Liên Xô truyện ngắn và sách tư liệu về kỹ năng viết thể loại này trở thành “gối đầu tay” cho các tác giả ngoài Bắc; còn các nhà truyện ngắn trong Nam lại chịu ảnh hưởng tứ phương, trong đó có dòng truyện ngắn Mỹ mà tới nay đang là chủ lưu.
Thập niên đầu thế kỷ 21, theo chúng tôi thấy, ở mức độ nào đó để có thể “toàn cầu hóa” thì “chàng trai” truyện ngắn Việt Nam đang ngang ngửa “ông lão” tiểu thuyết Việt Nam cả về ba mặt nội dung tư tưởng, hình thức nghệ thuật và ý nghĩa thể loại; cả về từng hiện tượng tác giả lẫn phong trào sáng tác.[25] Hay dở chưa biết đâu nhưng số lượng tác giả truyện ngắn viết có kỹ thuật chiếm tỷ lệ ngày càng cao.
Nhiều lý do. “Học thầy không tày học bạn… Gúc gồ!”, văn chương mạng là người thầy tài năng, rộng lượng, tận tụy và rỗi rãi nhất cho các tay bút truyện ngắn. Thêm nữa, những khóa học, những lớp dạy viết văn ở khắp các đại học Mỹ đã cung cấp (qua thông tin miễn phí trên mạng và được báo mạng tiếng Việt dịch lại) không chỉ nhiều tác phẩm và – quan trọng – nhiều kinh nghiệm bài bản, bổ ích cho giới cầm bút Việt Nam.
Thông thường, giáo trình kỹ năng truyện ngắn của các lớp dạy viết văn[26] hình thành từ năm yếu tố: 1. Ý tưởng và đề tài; 2. Tình huống; 3. Nhân vật; 4. Kết cấu và chi tiết; 5. Ngôn ngữ và giọng điệu[27]. Các thành phần khác như cốt truyện, xung đột, điểm nhìn/người trần thuật, bối cảnh (không gian – thời gian nghệ thuật), hình tượng, ẩn dụ… được gia giảm tùy bục giảng.
Trở lại quan hệ sáng tác và phê bình truyện ngắn của tác giả Đỗ Ngọc Thạch.
(Quy ước trong phần này: các trích dẫn từ bài Truyện ngắn – Đặc trưng thể loại được in nghiêng trong ngoặc kép; Nói thêm: bài đề cập tới loại truyện ngắn chuẩn mực, không xét các dạng truyện ngắn đặc biệt, cách tân… Tất nhiên có kể đến những tác giả tạo mốc quyết định trong lịch sử phát triển của thể loại non trẻ này trên thế giới.)
– “Đối với truyện ngắn hay, có một vấn đề đặc biệt quan trọng, đó là bảo vệ cho được tính xác định về mặt thể loại. Truyện ngắn cần phải cô đọng đến mức cao nhất. Vấn đề số một đối với nó là vấn đề dung lượng -‘tất cả trong một’”;
“Tính thuyết phục của sự hư cấu của truyện ngắn nằm ở sự nhỏ gọn nhưng đầy đủ của nghệ thuật trần thuật.”
+ Hai cách nói về đặc trưng thi pháp truyện ngắn. Bửu bối cho mọi cây viết! Phụ họa: “tính xác định về mặt thể loại” có từ cả năm yếu tố trên; “tất cả trong một”, “nhỏ gọn nhưng đầy đủ” chủ yếu đến từ ý tưởng và chi tiết. Minh họa: Truyện Cái kén đỏ của Abe Kobo – tác giả “có tiếng tăm trên thế giới, là một trong những nhà văn ở đỉnh cao nhất trong văn chương Nhật Bản hiện đại.”[28]
– “Truyện ngắn được viết ra để đọc liền một mạch”.
+ Nhiều truyện trong Mối tình đầu được vậy, với độc giả hợp gu. (như: Có một hậu duệ của nhà Hậu Lê, Đấu trường 100).
– “Khác với tiểu thuyết là thể loại chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó, truyện ngắn thường chỉ hướng tới việc khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người.”
+ Khá đúng với hầu hết truyện ở đây, trừ đôi ba truyện gần như hồi ký, nhật ký chưa “khắc họa một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất”. Do tác giả bị câu thúc bởi đề tài mà thiếu ý tưởng chăng? (Mẹ tôi ngày nào cũng hiện về).
– “…từ những góc nhìn khác, có thể cho rằng, truyện ngắn hiện đại với hình hài và phẩm chất như hiện nay, là khởi đầu từ Mỹ.”
+ Các truyện Đỗ Ngọc Thạch không giống truyện ngắn Mỹ, ít nhất về hình hài. Là ở các khâu nhân vật, xung đột và kết cấu.
– “Yếu tố quan trọng bậc nhất trong truyện ngắn là những chi tiết cô đúc, có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết.”
+ Thế mà tác giả lại phóng túng với quá nhiều chi tiết phụ, hư cấu quanh “người thực việc thực”, thiếu hình tượng được “cô đúc”.
– “Những cách tân, sáng tạo của các nhà văn bậc thầy về truyện ngắn đã khẳng định rằng, truyện ngắn, về tạng chất của nó rất gần với thơ, thậm chí có thể nói một cách không đến nỗi quá đáng rằng, truyện ngắn là một dạng cấu trúc đặc biệt của thơ. (…) cái nghĩa Thơ được nói đến ở đây cần được hiểu là chất trữ tình sâu lắng của những trạng huống”.
+ Không như nhiều người tưởng, đâu phải lúc nào cũng dễ nhận ra chất thơ trong truyện ngắn, dù nó đến từ nhiều yếu tố: ý tưởng, tình huống, ngôn ngữ, giọng điệu, hình tượng, ẩn dụ…; nhất là với các truyện viết theo lối khác lạ! (Xem thêm Chú thích 31). Như nói ở Phần 2, các truyện của Mối tình đầu, với chúng tôi, không mang nồng độ trữ tình hiểu theo nghĩa bình thường.
Không hiếm truyện ngắn có “máu lạnh” lại là con đẻ của các tác giả vang danh văn tài và nhiệt huyết nghề nghiệp. Nhà văn Anh Somerset Maugham là một ví dụ lớn. “Mặc dù có các thắng lợi, ông chưa bao giờ thu hút được sự tôn trọng cao nhất từ các nhà phê bình hoặc đồng nghiệp ngang hàng. Maugham tự cho điều này là do ông thiếu ‘phẩm chất trữ tình’, vốn liếng từ vựng ít và việc thất bại trong sử dụng thành thạo phép ẩn dụ….”[29]
Với không ít truyện ngắn hay theo lối viết hậu hiện đại ở Việt Nam và thế giới, ngay cả với các sáng tác “quậy” nhất – phá phách (nội dung) và phá cách (hình thức)[30] – vẫn có thể nhận ra chất thơ ở chúng mà không nhất thiết phải đồng tình với lối thơ hậu hiện đại, bởi đó vẫn “là chất trữ tình sâu lắng của những trạng huống”. Trạng huống hậu hiện đại. Điều này không rơi vào trường hợp Mối tình đầu – nơi có sự tham gia của một vài thao tác hậu hiện đại. Khác với kết quả từ tâm thức hậu hiện đại.
– “Truyện ngắn nào ít tính chất văn chương, nặng tính chất thời sự báo chí vì người viết bị gò ép quá nhiều về tính chất ‘có định hướng’ của tờ báo, vào những chủ đề, đề tài mà tờ báo đó phải ‘bám sát’”.
+ Là người viết tự do, tác giả chắc không bị “định hướng” từ tờ báo nào, song có thể do muốn tạo fan, hoặc muốn “chế tạo truyện ngắn” theo kiểu của mình chăng?
– “Có người chú ý đến phẩm chất đặc biệt của truyện ngắn do môi trường báo chí đòi hỏi, đó là yếu tố mới lạ. Song, cần lưu ý rằng, yếu tố mới lạ đó không phải là tính thời sự ‘sát sạt’, càng không phải là ‘chuyện lạ đó đây’ của môi trường báo chí.”
+ A, “nhà em” biết một trong nhiều người đó là ai rồi ạ. He he…
– “Yếu tố mới lạ đó là sự xâu chuỗi cái đời thường và (…) cái lớn lao thành một cấu trúc nghệ thuật hoàn chỉnh đặc biệt ngắn gọn, cô đọng của truyện ngắn khiến cho cái cụ thể và cái trừu tượng, cái cá biệt và cái điển hình ở truyện ngắn khác hẳn tiểu thuyết: nó hòa vào nhau và dường như là một để tạo nên sức cuốn hút mạnh mẽ ở người đọc – đọc liền một mạch.”
+ Ôi, đúng quá và hay quá! Nhưng để thực hiện thì quá khó chứ không chỉ khó quá! Biết vậy “nhà em” sẽ cứ viết phê bình nhì nhằng thế này thôi. Cho khoái, khỏi viết truyện làm gì, khổ thân. Kinh! Để “xâu chuỗi” chúng nó, rồi làm chúng “nó hòa vào nhau” – 6 cái phạm trù mỹ học “khủng” ấy – ắt là các nhà truyện ngắn phải dùng hết thảy 12 yếu tố làm nên truyện ngắn vừa kể trên từ giáo trình của thầy Văn Giá. Nhỉ?
– “Tchekhov nói: ‘Để có một truyện ngắn tốt, trong truyện đó, không có cái gì được thừa, cũng y như trên boong tàu quân sự, ở đó tất cả đâu vào đấy, không có gì được thừa….”
+ Còn Maugham thì bảo: “Truyện ngắn phải sao cho người ta không thể thêm vào đó chút gì cũng không thể rút ra chút gì.” (Ngang ngửa với thơ rồi còn gì!) Hai cụ tổ nói và bảo, chỉ đúng trở lên. Dưng mà lên đến thời tiền hiện đại thôi. Rất nhiều truyện ngắn hiện đại và đa số truyện ngắn hậu hiện đại cứ lung tung beng “gió theo lối gió, mây đường mây”[31]. Vô khối truyện trong Mối tình đầu là thế. Những đám “mây” chi tiết phụ, nhân vật phụ, tình huống phụ cứ bay ra ngoài cơn “gió” cốt truyện mà bạn đọc có thể buông thả chúng ra nhưng vẫn túm được ý truyện. (Ô Chợ Dừa, Băng nhân).
– “Tiểu thuyết hay truyện dài thì cứ triền miên theo thời gian, đôi khi có quăng hồi ức trở ngược lại. Truyện ngắn thì gây cho người đọc một cái nút, một khúc mắc cần giải đáp. Cái nút đó càng ngày càng thắt lại đến đỉnh điểm thì đột ngột cởi tung ra, khiến người đọc hả hê, hết băn khoăn.”
+ Xử lý các xung đột nên được xem như một điểm mạnh của Mối tình đầu. Kịch tính được ưu ái và không phụ lòng tác giả. (Đứa bé tật nguyền và nàng tiên áo trắng, Chuyện một nhà báo).
– “(…) tình huống truyện luôn là vấn đề quan trọng bậc nhất (…) Truyện ngắn thường chỉ tập trung vào một tình huống, một chủ đề nhất định.”
+ Thế mà ở đây hơi bị phong nhiêu về tình huống. Dưới tay bút Đỗ Ngọc Thạch quỹ đạo truyện ngắn thường là tình huống “mặt trời” và các tình huống “vệ tinh”. Vài truyện còn có cả “truyện trong truyện” nữa cơ.
– “Phong cách của truyện ngắn và của tiểu thuyết rất khác nhau. Phong cách của truyện ngắn là thuộc về tình tiết. Cái tình tiết mà truyện ngắn dự định diễn tả, truyện ngắn đã tách nó ra, làm cô lập nó lại. Các tình tiết mà cả dãy đã làm nên đối tượng của tiểu thuyết, tiểu thuyết đã làm ngưng kết chúng, nối chúng lại với nhau. Tiểu thuyết tiến hành thông qua các triển khai, còn truyện ngắn thông qua sự tập trung. Truyện ngắn là độc tấu. Tiểu thuyết là giao hưởng. (..) Trước hết đấy là quan hệ giữa cô đọng và mở rộng.”
+ Một so sánh 3Đ: đẹp, đúng, đủ! Kim chỉ nam cho mọi nhà văn, nhất là khi muốn đong đưa liếc bút từ truyện ngắn qua tiểu thuyết, và ngược lại. Té ra cách xử lý tình tiết lại phụ thuộc vào nghệ thuật tự sự ở từng thể loại: gọn và nhanh, truyện ngắn dùng văn tường thuật (tập trung tình tiết); dông dài lang bang, tiểu thuyết thì miêu tả (triển khai tình tiết). Nói cho oách, đó là sự khác nhau về nguyên tắc tái-hiện-hiện-thực.
– “Nếu mỗi nhân vật của tiểu thuyết là một thế giới thì mỗi nhân vật của truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới ấy. Có nghĩa truyện ngắn thường không nhắm tới việc khắc họa những tính cách điển hình đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội…”
+ Vâng, xin nhường câu chót để bạn đọc tự bình luận về việc xây dựng nhân vật trong Mối tình đầu.
*
Kết
Cùng bạn đọc,
Bằng một bài tùy luận[32] với tổng số 17.191 từ (thân bài 12.047, chú thích 5.144), trên 27 trang vi tính, theo 5 đề tài chính, ở nhiều bút pháp xen kẽ – từ nghiên cứu đến phóng tác, từ so sánh đến phân tích, từ bàn thảo đến phản biện, từ phê bình hàn lâm đến còm công dân mạng, từ trích dẫn khô khan đến khôi hài phóng túng, từ dàn cảnh bán hư cấu đến đối thoại đùa thật thật đùa[33] – qua trường hợp truyện ngắn Đỗ Ngọc Thạch, chúng ta vừa nhìn lại, nhận về một số cái khó trong văn học.
Văn vẻ cơ khổ vậy sao? Có thế. Chứ viết văn không khó, không bất cập bất toàn thì đi… bổ củi cho rồi![34]
Vancouver, 14/8 – 20/10 (tu sửa 28/12/2015)
Đỗ Quyên
Chú thích:
[1] Cũng na ná phương châm “Sách, hễ thích thì viết” – câu đầu tiên dẫn vào pho sách 7 tập của Võ Phiến – Văn học miền Nam, Nxb Văn Nghệ, 1987-1999, California. (Dẫn từ Phần “Tổng quan – 1. Lời nói đầu”, tienve.org 1/2005).
[2] “Nói về thi pháp Nguyễn Bính tức là nói về một dòng thơ không thi pháp.” (Thụy Khuê; rfi.fr 13/12/2008).
[3] Chúng tôi từng có dịp phân biệt, một cách tương đối, bốn bậc thang thơ Việt (chủ nghĩa/khuynh hướng; thi pháp/cách tân; bút pháp/đổi mới; phong cách/thủ pháp. (Đỗ Quyên; “Thi pháp Nguyễn Quang Thiều: Nhìn từ dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị”, Tham luận hội thảo Thơ Việt Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều, Viện Văn học, Hà Nội, 2012; Phần “Đóng góp của thơ Nguyễn Quang Thiều”, nhavantphcm.com.vn 24/6/2012).
[4] Một so sánh đùa mà thật: “Điểm G” với thần Sáng tác chính là khuynh hướng/trường phái/chủ nghĩa khi các Nữ thần làm thơ viết văn. Mà trên thực tế, ở phần lớn các Nữ thần Muse cũng… chẳng thể tìm thấy điểm G! Giống như ở người trần chúng ta vậy. Hihi…
[5] Và cũng như quan hệ nội dung – hình thức khó có thể tách biệt rõ ràng, mô típ hình thức và mô típ nội dung cũng có thể chồng lấn lên nhau trong nhiều trường hợp.
[6] Nhớ tên tập thơ “Chế tạo thơ ca 99-04” của Phan Nhiên Hạo, Nxb Văn, San Jose, 2004.
[7] Vừa hay, tân khôi nguyên Nobel Văn chương 2015 – tiểu thuyết gia người Bạch Nga Svetlana Alexievich nhắc: “Dostoïevski nói rằng suốt đời ông, ông đi tìm chất người ở trong con người.” (Theo “Người viết bộ ‘Bách khoa về con người Xô viết’”; Nguyên Ngọc dịch, vanviet.info 11/10/2015).
[8] Ngoài dáng vẻ cồng kềnh và nội hàm có phần sượng sượng so với kết cấu toàn truyện, đa số các trường đoạn như thế có “đồng tác giả” là Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. Vấn đề bản quyền được đặt ra? Trong các sáng tác hậu hiện đại (ví dụ truyện ngắn, tiểu thuyết của Đặng Thân) thường nêu rõ hoặc hé lộ nguồn và ít nhiều biến tướng, nhái nhại (liên văn bản) nội dung.
[9] Nhận định của Nguyễn Thị Thanh Xuân (25 năm – một vùng tiểu thuyết, nhiều tác giả, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002; theo viet-studies.info 7/10/2015) về truyện của Nhật Tuấn – một nhà văn từng ghi đậm ấn dấu trong phong cách văn xuôi cùng văn cách người cầm bút ở Việt Nam sau 1975 (và cũng vừa qua đời khi những hàng chữ này được viết ra).
[10] Lại Nguyên Ân; e-book Trong thoáng xuân Hà Nội (thư từ, ghi chép, 1986-1991); theo Kỳ 19, vanviet.info 7/8/2015.
[11] Văn Công Hùng; “Chuyện bên lề một Hội thảo khoa học quốc gia”, vanconghung.com 4/10/2015.
[12] X. Chú thích 45.
[13] Nt.
[14] Phạm Viêm Phương; “Về truyện ngắn và cấu trúc”, trong Truyện ngắn dẫn giải, Nxb Văn nghệ TP.HCM, 2004; theo tapchivan.com 16/3/2012.
[15] X. Chú thích 45.
[16] Huy Tưởng; “Thơ ca: tấm gương của ngôn ngữ”, damau.org 4/9/2015.
[17] Dương Tử Thành/Phan Huyền Thư; “Giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2015: Tròn trịa và đẳng cấp”, vannghequandoi.com.vn 10/10/2015.
[18] Lê Lưu Oanh; “Triết lí dân gian trong sáng tác Nguyễn Huy Thiệp – sự mở rộng những “kinh nghiệm nguyên thủy”, leluuoanh.wordpress.com 13/5/2011.
[19] X. Chú thích 45.
[20] Tiếu lâm thời Bao cấp: Sau chuyến đi công tác nước bạn, vị trưởng phòng nọ mua được chiếc xe đạp Đi-a-măng của Đức. Thời đó cực quý và hiếm! Các nhân viên nữ thích mượn để đi lòng vòng (bây giờ gọi là “giải quyết khâu oai”) và thường đi lâu, làm lỡ công việc. Nghỉ trưa hôm đó, cô thủ kho năn nỉ: “Nào, thủ trưởng cho em lần này nữa thôi. Bắt thăm trúng cá tươi, em tranh thủ phóng vèo về nhà một tí.” – “Thôi, thôi! Bây giờ thì tôi biết rõ cái tí của các bà các cô rồi!”, thủ trưởng xua tay, nhăn mặt…
[21] Jonathan London; “TPP: Thực tốt cho Việt Nam?”, xinloiong.jonathanlondon.net 10/10/2015.
[22] tuoitre.vn 6/10/2015.
[23] thanhnien.com.vn 10/10/2015.
[24] vannghequandoi.com.vn 15/9/2015. Một số trích lược (với “chức năng giải trí” nên, xin lỗi, sẽ hơi dài một tí); các nhấn mạnh là của chúng tôi:
“Văn học nghệ thuật, từ lâu được mặc định có ba chức năng chủ yếu: nhận thức, giáo dục và thẩm mĩ. Cách định vị đó hoàn toàn có cơ sở nếu căn cứ vào vai trò, sứ mệnh của văn học nghệ thuật, vào mối quan hệ mật thiết, sống còn giữa nó với các hình thái ý thức xã hội khác thuộc thượng tầng kiến trúc. (…) Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể cào bằng những biểu hiện của chức năng giải trí giữa các loại hình nghệ thuật mà phải căn cứ vào tính đặc thù của mỗi loại hình.”
“Với chức năng giải trí, vẫn cùng những câu hỏi về mục đích sáng tác như các chức năng nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ nhưng cái khác là ở sự tiếp cận các bình diện thẩm mĩ. (…) các chức năng giáo dục, nhận thức thiên về cái cao cả, cái anh hùng, cái trác tuyệt, chức năng thẩm mĩ thiên về cái đẹp; trong khi đó (…) chức năng giải trí lại là cái hài. Cũng cần phải nhấn mạnh thêm về tính giao thoa, sự lồng ghép ‘2 trong 1’ của chức năng thẩm mĩ…”
“(…) việc vận dụng lí thuyết chức năng, cụ thể là chức năng giải trí có nguy cơ rơi vào phiến diện, cứng nhắc nếu thiếu đi sự hiểu biết về đặc trưng loại hình (…) nghệ thuật khác nhau: văn học, âm nhạc, điện ảnh, hội họa, sân khấu…”
“Văn hoá dân gian trong đó có văn học nghệ thuật là nơi lưu giữ nhiều dấu tích của hoạt động vui chơi, giải trí của con người ở vào một thời kì được coi là ‘ấu thơ’ của nhân loại. Những trò chơi dân gian vui nhộn, các bài ca lao động cầu ngư, cầu mùa màng tốt tươi, những điệu nhảy hồn nhiên, khoẻ khoắn… đều mang đến cho người lao động cảm giác thư thái, vui vẻ. (…) truyện dân gian, thơ ca dân gian cũng là một món nghệ thuật luôn gợi về hình bóng những người ‘bình dân thông thái”’. (…) Văn học trung đại, với tính chất trang nghiêm, mực thước, tính giải trí, do đó, không thể hiện bằng những hình thức ồn ào, sôi động mà nghiêng về phần trầm lắng, yên ả. Các bậc tao nhân mặc khách tìm đến thú vui tao nhã với bầu rượu túi thơ.”
“Văn học nghệ thuật chiến tranh cách mạng ‘vắt’ qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ với âm hưởng sử thi hào hùng, bi tráng đã phần nào ‘mờ hoá’ chức năng giải trí của văn nghệ. (…) Và từ 1986 trở đi (…) Công bằng xem xét, từ góc độ giải trí, văn học ‘lép vế’ hơn các phương tiện nghe nhìn. (…) Tuy nhiên, ‘sự tăng trưởng’ đó của các hình thức giải trí không phải khi nào cũng đi đôi với chất lượng nghệ thuật. Một vài chủ đề phim được lặp đi lặp lại đến nhàm chán, thêm vào đó là sự lạm dụng yếu tố bạo lực, sex.”
“Chức năng giải trí, cũng như các chức năng khác của văn học nghệ thuật, là một yếu tố động, luôn thay đổi, phát triển để tìm đến môi trường thích ứng. (…) Việc hướng tới nhu cầu giải trí cần phải được xem xét thoả đáng và phải trở thành chiến lược chung của định hướng văn nghệ là xây dựng một nền văn học nghệ thuật tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc. Và, như một mặc định, muốn làm được điều đó, các chức năng của văn học nghệ thuật, đặc biệt là chức năng giải trí, phải luôn được đặt dưới tầm kiểm soát, bộ lọc của các hằng số văn hoá.”
[25] Bốn điều cần “chua”:
Một, “chàng” và “lão” là trong tương quan thể loại văn học thế giới. Chứ ở ta, xét theo lối viết hiện đại Tây phương, cả truyện ngắn lẫn tiểu thuyết đều là “chàng”, xuân xanh chừng độ trăm tuổi lẻ tính từ sau hai sáng tác đầu tiên. [Truyện ngắn: Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn, 1918; Tiểu thuyết: theo các tài liệu giáo khoa và hàn lâm, lâu nay vẫn tạm coi đó là cuốn Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách xuất bản năm 1925, bên cạnh không ít tiểu thuyết khác ra đời trước đấy mà về mặt nào đó chưa hợp tiêu chuẩn thể loại, sớm nhất là Truyện thầy Lazaro Phiền xuất bản năm 1887 của Nguyễn Trọng Quản, quen thuộc nhất là Ai làm được ra lò năm 1922 của Hồ Biểu Chánh, và thông tin cập nhật là Hà Hương phong nguyệt truyện của Lê Hoằng Mưu đăng báo năm 1912 và in thành sách năm 1914 (X. “Tiểu thuyết quốc ngữ diễm tình đầu tiên của Việt Nam”; Võ Văn Nhơn, tienphong.vn 19/4/2015)].
Hai, nói “toàn cầu hóa” là về giá trị thực của tác phẩm, chưa kể khả năng truyền bá, gây ảnh hưởng tới cộng đồng văn học ngoại quốc mà vốn dĩ nước Nam ta triền miên í ẹ. (Đến như cá tôm lúa gạo nhiều và ngon nức danh cõi trời Đông vẫn không ẵm nổi thương hiệu quốc tế chỉ tại cái khâu bao bì đóng hộp?!) Chán, chả buồn nói nữa.
Ba, đang nói về mọi loại tác phẩm văn học bằng tiếng Việt, đủ xuất xứ từ A đến Z: chính thống – phi chính thống; trong nước – ngoài nước; xuất bản in giấy – treo trên mạng; v.v…
Bốn, nhấn mạnh mới vào điều không mới: sinh ra bởi tác động nội tâm, Nàng Thơ không thích hợp để phổ cập tới môi trường khác tiếng nói và chữ viết, kiểu như toàn cầu hóa ở khá nhiều loại hình văn học – nghệ thuật khác, ít nhất như ở truyện ngắn và tiểu thuyết. Mỗi dân tộc một thi ca. Nàng Thơ nước ai, nước ấy hưởng. Khó chia sẻ được. Chẳng so sánh được. Càng không thi thố được. (Đứng trước con gái nhà người ta “Rõ màu trong ngọc trắng ngà/ Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên” ông không “cảm” nổi thì ông “động” cái gì? Kể cả “động trời” nhất là giải Nobel Văn học!) Và, không vì thế không xảy ra mọi sự chuyển dịch, quảng bá thơ giữa các dân tộc, quốc gia. Có điều, mọi sự ấy là ngoài-thơ; ngoài ý muốn của Nàng Thơ. Khác với Chàng Truyện ngắn và Lão Tiểu thuyết được hình thành từ tác động ngoại cảnh (thế giới bên ngoài chủ thể sáng tạo).
[26] Ở Việt Nam cho đến nay dường như chỉ còn Khoa Viết văn – Báo chí (tiền thân là Trường Viết văn Nguyễn Du) thuộc Trường Đại học Văn hóa Hà Nội là nơi chính thức và đều đặn “dạy viết truyện ngắn”?
[27] Văn Giá; “Chiêu sinh lớp Sáng tác và thẩm bình truyện ngắn”, vietvan.vn.
[28] Bản dịch tiếng Việt của Lê Ngọc Thảo từ nguyên tác; trangchunhat.org 18/10/2015.
[29] “William Somerset Maugham”; Wikipedia tiếng Việt, cập nhật 6/8/2015.
[30] Chẳng hạn, một số truyện ngắn trong tập Manet của Đặng Thân.
[31] Thơ Hàn Mặc Tử (Đây thôn Vĩ Dạ).
[32] “Bởi vì essai [tiểu luận] đích thị là thể loại xô các thể loại nhập vào nhau. Bạn cho rằng tri thức thì ắt phải triệt loại cảm xúc? Rằng suy nghiệm là không thể dung hợp với văn phong? Vậy thì, essai sẽ khiến bạn tỉnh ngộ ra, thiên chức của nó chính là gìn giữ vai trò của văn học trên cảnh trí của tri thức, nhất là từ khi có sự bừng trội của các khoa học nhân văn.” (Jean Birnbaum; “Svetlana Alexievich, chính trị của văn học”, Le Monde 15/10/2015, Nguyên Ngọc dịch, vanviet.info 20/10/2015; ĐQ nhấn mạnh).
[33] Thế nên dễ sơ sểnh những điều quá lố, sai quấy ngoài thiện ý người viết. Mong Quý vị phết cho hai chữ đại xá, trong tình “Vui thôi mà” của Trung niên thi sĩ năm xưa, đặng cùng góp phần chiêu tuyết cho chức năng giải trí ở lãnh vực phê bình văn học hôm nay.
[34] Mượn ý trong giai thoại Tản Đà.