Trang chính » Sáng Tác, Tiểu thuyết Email bài này

trung-việt việt-trung (phần 19)

0 bình luận ♦ 8.10.2015

 

III.

Cùng đồng bào và chiến sĩ,

Sau sự kiện giàn khoan HD-981, đất nước phải gánh chịu không ít thiệt hại để đối phó mà chỉ riêng về kinh tế đã mất khoảng 1% GDP; song nhìn chung chúng ta đã giành thắng lợi bước đầu về Biển Đông. Với các giải quyết căng thẳng 3 tháng qua, Đại Việt đã tạo cơ sở để đấu tranh tiếp tục về ngoại giao, về luật pháp, về thực lực, kết hợp nhiều biện pháp đạt kết quả khi phía Trung rút giàn khoan để tình hình tạm thời hòa dịu. Nhưng, hơn ai hết chúng ta hiểu đó chỉ là phần nổi rất nhỏ của một núi băng chìm: Kế hoạch 50 năm với 3 giai đoạn thống trị châu Á và thế giới của Trung đã gần xong giai đoạn thứ nhất về mưu đồ!

Tới tận ngày hôm qua, các bình luận gia quân sự quốc tế đều nghĩ,

rằng tập đoàn Tập Cần Bính sẽ tiếp tục giữ mức căng thẳng nào đó ở Biển Đông, vừa đủ để Mỹ chưa phải can thiệp sâu nhưng cũng vẫn đủ để lãnh đạo Trung đạt đích ngắn hạn và dài hạn;

rằng đây là kiểu chiến tranh đặc biệt về phương cách tác chiến, vũ khí sử dụng, thời gian và không gian;

rằng đó là chỉ hành động dọa Đại Việt khi mà những nước láng giềng của Trung không dễ bị dọa;

rằng Trung sẽ không đánh Đại Việt, chỉ cần xâm chiếm chủ quyền hữu hình và vô hình (trong đó có ‘nhân nhượng’ của Đại Việt?!);

rằng Trung làm vậy cốt cho dân Việt không tin vào nhà nước, từ đó bắt nạt, tạo khó khăn về kinh tế.

Nay tình thế đã khác hẳn!

Những gì tập đoàn bành trướng Trung đã và đang làm khác rất xa những gì chính quyền Trung nói.

Bằng cái gọi là ‘Lệnh phát động chiến tranh trên đại dương Nam Hải’ (với ngôn từ sai trái, thô thiển và ngạo mạn ‘để dạy cho tiểu bá quyền Đại Việt bài học thứ hai’?!), lần đầu tiên trong lịch sử gây hấn thiên hạ, nhà cầm quyền Trung đang công khai thách thức thế giới bằng thực chất lộ liễu của Đại Hán tộc chủ nghĩa.

Hơn ai hết, người Việt càng nhận thức rõ rằng mình đang ở vị trí mong manh nhất, cô độc nhất và bất lợi nhất. Đó là bàn cờ Tạo hóa sắp sẵn tự ngàn xưa, mà tới đầu thế kỷ 21 khi tiến trình toàn cầu hóa sang cung bậc cao thì vị thế Đại Việt càng trở thành mũi tiền tiêu trên bước đường bành trướng của chủ nghĩa Đại hán; và do đó người Việt sẽ bị là nạn nhân đầu tiên cho tham vọng bá chủ hoàn cầu của Bắc Kinh.

Chúng ta không thay đổi được địa lý tự nhiên, nhưng chúng ta có thể thay đổi được địa-chính trị. Chúng ta phải thay đổi được địa-chính trị! Trong đó có cả các sai lầm về địa-chính trị của một thời vì lý do lịch sử.

Chúng ta, theo tư tưởng đó, đang và sẽ duy trì đường lối chiến lược ‘3 không’: không liên minh quân sự; không dùng quan hệ song phương chống nước thứ ba; không cho đặt căn cứ quân sự nước ngoài trên lãnh thổ. Song song với phương châm chiến thuật ‘4 tránh’: tránh xung đột quân sự; tránh bị cô lập kinh tế; tránh bị cô lập ngoại giao; tránh bị lệ thuộc chính trị; và tinh thần chỉ đạo ‘8k’: kiên quyết; kiên trì; khôn khéo; kiềm chế; không khiêu khích; không mắc mưu khiêu khích; không để nước ngoài lấn chiếm; không đụng độ.

Chúng ta có kinh nghiệm minh triết Việt và những lời truyền đời Việt làm cơ sở hành động: ‘Dĩ bất biến ứng vạn biến’, chủ quyền độc lập dân tộc là bất biến, những đường lối, chính sách là vạn biến; ‘Một thước núi, một tấc sông của ta, lẽ nào lại nên vất bỏ? Ngươi phải kiên quyết tranh biện, chớ cho họ lấn dần. Nếu ngươi dám đem một thước, một tấc đất của Thái Tổ làm mồi cho giặc, thì tội phải tru di.’; v.v…

*

Đất Nam biển Việt đang thật sự ở vào giai đoạn hiểm nguy mà mỗi người dân Việt phải sáng suốt, can đảm và quyết liệt để lựa chọn sinh tử lộ cho Tổ quốc.

Trong thời tiền hiện đại, tư tưởng Đại Hán cực đoan xem Trung như là nền văn minh duy nhất của loài người; các quốc gia nước ngoài hoặc các nhóm tộc khác chỉ như ‘rợ’ ở các trình độ khác nhau. Sang thời hiện đại, chủ nghĩa hẹp hòi Đại Hán coi tầm quan trọng của Trung là tối cao so với các quốc gia khác, và nó cũng bị chính các quốc gia nổi tiếng về chủ nghĩa dân tộc chỉ trích thậm tệ vì thói xâm lược quá lố.

Hơn ai hết, người Việt hiểu chủ nghĩa bành trướng Đại Hán ở nền tảng triết lý cội nguồn:

Đó là kết hợp giữa hai hệ tư tưởng Nho gia (đề cao nhân nghĩa) và Pháp gia (sùng bái bạo lực, cổ vũ chiến tranh) để theo đuổi chính sách bành trướng của thiên triều;

Đó là mô hình hoàng đế – thiên tử chuyên chế, hà khắc với thần dân và thường xuyên đe dọa xâm lược lân bang;

Đó là phương thức dùng xâm lăng nước láng giềng, trước là chiếm lãnh thổ và quyền lợi, nhưng sau hậu là để tăng thêm uy thế với nội tình;

Đó là dùng chiến tranh như nguyên cớ tỏ uy thế đối nội và đối ngoại, đe dọa trừng phạt kẻ đối kháng, với mục đích cứu vớt thể chế tránh suy sụp, trong sách lược ‘hoàng đế lấy ngoài yên trong’.

Hơn ai hết, người Việt hiểu chủ nghĩa bành trướng Đại Hán ở các đặc tính cơ bản và cụ thể:

Đó là hiếu chiến, hống hách và hoang tưởng. Tưởng mình lớn mạnh, nắm lẽ phải, cư xử hách dịch, ít nhìn toàn thể, manh động phiêu lưu.

Đó là ngụy thiện, ngụy trang thói tàn bạo qua lời lẽ đạo lý, nhân từ, qua thói lừa dối với thủ đoạn thâm hiểm ‘ăn thịt người’.

Đó là trọng danh hơn trọng thực, sống bằng uy tín chính trị, xâm lược để bảo vệ danh hơn giành lợi thực, suy tính về danh vọng hơn tính toán về thực tế; thường là nguyên nhân gây ra hành động mạo hiểm.

Các quy luật ngàn đời trên đã đúng với bản chất của các vương triều phong kiến Trung, và đang đúng về thực chất của nước Trung hiện nay với tập đoàn bành trướng hiện đại Trung Nam Hải.

Trận Hải chiến Biển Đông với ‘ngụy cớ văn học’ cực kỳ vô duyên và vô lý đã nằm trong mớ bòng bong ‘lấy ngoài yên trong’ của thể chế Trung hiện hành.

Chưa bao giờ tộc người Việt phải đối mặt với họa diệt vong gay cấn như hiện nay, nếu như không ngăn chặn thảm họa đang tới cửa ngõ Biển Đông. Bài học diệt chủng Miên còn đang ứa máu trong các tháng ngày này với cuộc xét xử kéo dài đối với kẻ đồ tể mà máu quân đội tình nguyện Đại Việt dự phần trong đó! Không ai khác, chính kẻ đang mang hải quân xâm phạm Biển Đông hôm nay cũng là kẻ từng mưu tính chiếm nước ta không biết bao lần trong chính sách ‘giết sạch dân bản xứ, di dân từ chính quốc’ mà trong áo bào mang tên Chủ nghĩa thực dân còn thêm lý do giải quyết nạn nhân mãn!

Nhưng, chúng ta phân biệt rõ nhân dân Trung với giới lãnh đạo Trung qua các thế lực có mưu đồ bành trướng, xâm chiếm Biển Đông. Luôn thủy chung với mình và với láng giềng, chúng ta mong muốn và thực hiện bang giao bằng hữu, hòa bình với 1,3 tỷ nhân dân Trung.

Chúng ta đã từng và mãi mãi mong muốn Đại Việt và Trung hợp tác cùng phát triển. Chúng ta chân thành thực thi thực chất của tinh thần ‘16 chữ và 4 tốt’ sao cho ích lợi với cả hai nước. Trong tình hình phức hợp gần đây, chúng ta đã thêm phương châm ‘Vừa hợp tác, vừa đấu tranh’ trong đối ngoại giữa hai nước. Mà thật ra ‘Vừa hợp tác, vừa đấu tranh’ là bản chất của quan hệ Việt-Trung vốn nhiều thăng giáng trong suốt chiều dài lịch sử.

Ngay như tập tài liệu nội bộ ‘Về cuộc gặp cấp cao tại Thành Đô năm 1990’ do Ban Tuyên giáo Trung ương soạn thảo và phân phát đến tận các cơ sở đảng cũng nêu rõ rằng, đến tháng ngày này Đại Việt vẫn kiên trì quan hệ hợp tác hữu nghị với nhân dân Trung; rằng trong thời điểm hiện tại Đại Việt vẫn khẳng định mối quan hệ láng giềng hữu nghị với Trung là chủ trương đối ngoại quan trọng.

Tưởng cũng cần nhắc lại tại đây về kết quả Hội nghị Thành Đô. Phần 3 của tài liệu khẳng định: ‘Trong các hội đàm, trao đổi chẳng những không hề có vấn đề phía Trung gây sức ép với ta về nhân sự, mà còn không hề có cái gọi là sự thỏa thuận ‘Đại Việt sẽ thành khu tự trị thuộc Trung, giống như Nội Mông, Tân Cương và Quảng Tây vào năm 2010’, như một số trang mạng, blog đã đưa tin. Đây là một luận điệu bịa tạc với mưu đồ kích động, tạo bức xúc trong cán bộ, đảng viên cùng các tầng lớp nhân dân’. Với tâm địa xấu, chính Tân Hoa Xã, cơ quan thông tấn chính thức của Trung đã dự phần truyền bá tin tức thất thiệt đó.

Về việc Trung đưa giàn khoan HD-981 cùng tàu chiến xâm phạm vùng biển Đại Việt, tài liệu nội bộ quan trọng đó cũng nhấn mạnh: ‘Chuyến đi thăm Trung của Đặc phái viên Tổng bí thư đã đạt kết quả quan trọng, tạm thời làm dịu tình hình căng thẳng Trung-Việt, thúc đẩy Trung vào đàm phán giải quyết tranh chấp bằng đối thoại hòa bình, khôi phục quan hệ giữa hai nước, kiểm soát tình hình để duy trì hòa bình và ổn định trên Biển Đông.’

Là nạn nhân thảm thiết của hàng chục cuộc chiến tranh lớn vào bậc nhất thế giới cổ kim, mà cuộc chiến Mỹ-Việt 1955-1975 còn chưa hết ám ảnh và di chứng, người Việt đã, đang và sẽ nói ‘Không’ với bất kỳ kiểu loại chiến tranh nào. Nhưng, cũng vì thế, người Việt sẵn sàng hy sinh trong trận hải chiến sắp tới để chặn đường tiến sâu vào nội địa Đại Việt vì sự nghiệp vệ quốc thiêng liêng và chính nghĩa. Cũng vì thế, người Việt phải chấp nhận chiến tranh để ngăn chặn, giảm thiểu, rút ngắn chiến tranh. Hơn ai hết chúng ta hiểu câu nói lịch sử: ‘Một dân tộc né tránh chiến tranh bằng cái giá của sự nhục nhã, cuối cùng sẽ nhận được cả nhục nhã lẫn chiến tranh’. Đây đang là thời điểm quyết định vận mệnh dân tộc Việt!

Trung mới chỉ xuất hiện tại Biển Đông khi lợi dụng bóng tối của lịch sử vào các thập niên 1970-1980 để thực hiện các mua bán chính trị trên lưng người Việt đúng lúc Tổ quốc của chúng ta bị chia cắt, để cướp đoạt một số đảo trên vùng biển này.

Hiển nhiên, ngay cả về pháp lý quốc tế, tuyệt chưa có quốc gia nào thừa nhận chủ quyền của Trung trên các biển, đảo cưỡng chiếm bằng vũ lực và phi pháp đó. Trung luôn tự nhận Hoàng Sa, Trường Sa là của mình mà không đủ chứng cớ. Đại Việt đầy đủ bằng chứng lịch sử, hiện trạng và pháp lý khẳng định chủ quyền đối với hai quần đảo này. Với Hoàng Sa, trên thực tế Trung đang chiếm giữ qua 2 lần đánh chiếm, mà lần gần nhất là năm 1974 nhờ có thỏa thuận ngầm của Mỹ khi Tổ quốc ta chưa thống nhất. Chúng ta tiếp tục khẳng định chủ quyền, đấu tranh để lấy lại Hoàng Sa; đời này không xong đời sau tiếp tục.

*

Chúng ta không hề mong muốn xung đột, chiến tranh nhưng đã và đang phải chuẩn bị tất cả mọi phản ứng cần thiết mà Hải chiến Biển Đông này là biểu hiện cao nhất. Chúng ta từng đặt ra trước dư luận 2 khả năng: hoặc họ nói họ phải từ bỏ ‘đường lưỡi bò đứt khúc 11 đoạn’, hoặc chúng ta từ bỏ chủ quyền mà điều này nhất quyết không người dân Việt nào chấp nhận.

Chúng ta hiểu rằng muốn giữ yên Biển Đông bằng phương pháp hòa bình thì nội bộ đất nước phải rất ổn định. Nhân dân phải tin vào quân đội; quân đội phải tin vào Ban lãnh đạo; Ban lãnh đạo phải tin vào nhân dân. Đó là cơ sở, là điều kiện cần. Và, sự lãnh đạo Quân đội Đại Việt tuyệt đối không thể phân chia cho bất kỳ một cá nhân nào. Đó là một tư tưởng có tính truyền thống.

Chúng ta cần nhìn nhận vấn nạn Biển Đông với sự tỉnh táo, với cách giải quyết từng bước và với lòng khoan dung. Ba điều đó làm nên niềm tin về mục đích và kết quả của cuộc đấu tranh giữ biển.

Mục đích tối thượng của Đại Việt là gìn giữ, bảo vệ chủ quyền lãnh hải bằng hoà bình, không để xảy ra xung đột và duy trì quan hệ ổn định với đối phương láng giềng Trung.

Vậy cho đến nay:

Đại Việt có giữ được thềm lục địa 200 hải lý không? Có!

Đại Việt có kiểm soát được thềm lục địa không? Có!

Đại Việt có giữ được những đảo, đá mà hiện đang đóng quân ở Trường Sa không? Có!

Đại Việt có từ bỏ tuyên bố chủ quyền Trường Sa và Hoàng Sa không? Tuyệt đối không!

Đến chết cũng không!

Thậm chí:

Đại Việt vẫn đang kiểm soát tốt hơn vùng thềm lục địa của mình. Khu vực biển Đông Nam Á vốn đầy nhóc cướp biển, thế nhưng vùng thềm lục địa Đại Việt tuyệt không có cướp biển. Thậm chí Đại Việt còn lùng bắt các nhóm cướp biển sừng sỏ đến xâm phạm từ vùng biển nước ngoài để giao trả cho nước liên quan;

Đại Việt vẫn đang điều hành hết sức bình thường các giàn khoan dầu khí, mọi hoạt động thăm dò, nghiên cứu trên biển cùng đối tác quốc tế.

Chúng ta đã, đang và sẽ hướng đến hòa bình Biển Đông, nhưng không thể là thứ hòa bình suông, hòa bình viển vông. Kế sách bảo vệ tổ quốc và phương pháp giải quyết tranh chấp biển của Đại Việt cần phải chứng minh được với toàn thế giới và cả láng giềng đối phương rằng những xung đột xảy ra là bất khả kháng; không phải lỗi từ Đại Việt. Người tự vệ không bao làm phạm nhân!

*

Hãy nói qua về Biển Đông trong cuộc chiến giành quyền lực ở châu Á, theo phân tích của các nhà quan sát phương Tây.

Tháng ngày này đang có 4 nan đề toàn cầu: Tham vọng bá quyền của Trung ở Biển Đông; Thay đổi khí hậu; Thánh chiến Trung Đông bởi IS; Chống bệnh Ebola.

Đe dọa vũ lực của Trung ở Biển Đông là không thể kiểm soát, và sự thận trọng của Mỹ qua quyết định của Tổng thống Obama đang bị thách đố, vì quyền lợi sống còn của siêu cường số 1 mà bị lôi kéo vào cuộc đối đầu khó tránh khỏi với Trung. Chỉ vài năm trước thôi, Biển Đông bề ngoài còn một cuộc tranh cãi giữa các quốc gia biển về nguồn thủy sản, dầu mỏ trong sự dửng dưng khó hiểu Trung. Nay mặt nạ đã bị vứt xuống và gươm đã tuốt chĩa về Đại Việt!

Rõ ràng Trung hoàn toàn không muốn đàm phán chủ quyền lãnh thổ với các nước liên đới theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS); họ chỉ nhăm nhăm nhìn vào miếng ăn của mình trên bàn tiệc chung mà Tạo hóa vốn đã bày ra cho loài người trên Biển Đông.

Rõ ràng Tòa Bạch Ốc đã phải trì hoãn giấc mơ về cái gọi là ‘quan hệ đối tác toàn cầu’ với siêu cường số 2 đang trỗi khi mà hiện tại và lịch sử đã chứng tỏ Biển Đông chính là địa chỉ tiên quyết trong tham muốn của Trung dẫn tới sự đối kháng với ý chí chiến lược trở về châu Á của Mỹ.

Rõ ràng Đông Nam Á là nơi mà Trung Nam Hải tự ban cho mình sứ mệnh khôi phục lại hình thức ‘chư hầu trung cổ’ và Tòa Bạch Ốc đáng lẽ phải vui vẻ nhường lại vị thế ‘Trời đã dành cho Trung’.

Rõ ràng vấn đề Biển Đông hiện tại với sự cố gắng thống trị của Trung giống như tình hình vùng biển Caribbean rộng lớn với sự thống trị của Hoa Kỳ hồi giữa thế kỷ 19 – đầu thế kỷ 20. Hải quân Trung đang dùng chiến lược tương tự như Mỹ ở Caribbean từng đẩy hải quân Anh, Pháp ra khỏi đó và trở thành quốc gia trị vì vùng Đông bán cầu.

Rõ ràng Biển Đông bắt đầu căng thẳng hơn từ năm 2008 là do những vấn đề suy yếu từ Hoa Kỳ và việc Trung tổ chức thành công Olympic 2008.

Rõ ràng Biển Đông kể từ năm 2010 đã lâm vào tình trạng tệ hại nhất ở tầm thế giới, với 3 đối tượng quyết định là Trung, Mỹ và Đại Việt. Mỹ trở thành một trong 3 tác nhân quan trọng khi tuyên bố ‘có quyền lợi quốc gia’ trong việc bảo đảm tự do hàng hải xuyên thấu Biển Đông. Và, đối lại, phía Trung bắt đầu coi Biển Đông là một trong những ‘quyền lợi cốt lõi’ của mình khi xếp nó ngang sánh với Đài Loan, Tây Tạng và Tân Cương.

Rõ ràng tại Biển Đông một triển vọng phát triển chung trong khu vực có thể nói là không sáng sủa, nhất là ở việc các quốc gia hợp tác khai thác dầu và khí đốt; nếu Trung không thay đổi thái độ và quan điểm. Tuy nhiên, trước hết các nước vẫn có thể hợp tác khai thác cá vốn là lãnh vực đã có trong nhiều thế kỷ tại các ngư trường truyền thống ngư dân các nước cùng đánh bắt chung. Từ chính thực tế không hay đó, các nước hãy cùng xây dựng lòng tin để tiến tới một giải pháp hòa bình.

Rõ ràng Biển Đông đang và sẽ là ‘Vịnh Ba Tư thứ hai’!

*

Trong mục đích tối hậu biến Biển Đông thành ao nhà của mình và áp chế trật tự mới theo kiểu Trung tại vùng đại dương trọng yếu này, chỉ trong 3 tháng qua nhà cầm quyền Bắc Kinh đã có 3 hành động phiêu lưu cụ thể:

Một, đặt giàn khoan dầu HD-981 hoàn toàn phi pháp trong vùng đặc quyền kinh tế của Đại Việt.

Hai, công bố bản đồ Trung mới nhất với ‘đường lưỡi bò đứt khúc 11 đoạn’, theo chiều dọc có ranh giới xâm lấn tới cả lãnh hải của Indonesia.

Ba, tăng tốc xây cất đảo nhân tạo tại đá Gạc Ma – vốn thuộc hải phận của Đại Việt bị họ dùng quân đội chiếm đóng trái phép – thành tiền đồn bất hợp pháp khống chế toàn bộ quần đảo Trường Sa của Đại Việt và hành lang Biển Đông, vi phạm chủ quyền của nhiều nước trong đó có Đại Việt. Hành động thứ ba này đã kéo dài lặng lẽ từ lâu như ấp ủ một cuộc hải chiến Việt-Trung tranh giành các đảo, đá trên Trường Sa mà hôm nay đang là hiện thực!

Chúng ta không thể để tái diễn cái ‘tam giác máu’ như từng trên biển đảo Cô Lin – Len Đao – Gạc Ma 26 năm trước, khi mà sự bội tín của kẻ thù láng giềng phương Bắc núp danh bằng hữu huynh đệ. Lịch sử này không được phép lặp lại!

Ngay trong dư luận Trung từ rất nhiều tháng qua cũng cho rằng, vì 5 lý do cốt tử Trung không thể thắng nếu gây chiến với Đại Việt:

Một là, xưa nay đem quân ra khỏi biên giới tạo chiến tranh tổng lực, chưa khi nào Trung chiến thắng.

Hai là, bất cứ cuộc chiến không-thủy-lục nào, không kể bom nguyên tử, với vũ khí và phương tiện hiện đại như máy bay, tàu chiến, pháo binh, xe tăng thì bộ binh luôn quyết định cuối cùng của chiến trường. Mà bộ binh Đại Việt qua 70 năm thử thách với 4 cường quốc đã thể hiện chất lượng ưu việt trong lợi thế địa lý hiển nhiên trên đất nước của mình.

Ba là, các nhà chiến lược thế giới và Đại Việt đã nói đến khả năng dùng tên lửa tầm xa tấn công vào các đại đô thị trọng yếu ở phía Nam của Trung, nếu Trung tấn công quân sự Đại Việt bất kể đường biển hay đường bộ.

Bốn là, Trung đang phải đối diện với nan đề thù trong giặc ngoài. Trong tháng ngày này nội bộ lãnh đạo Trung chịu thách đố với chiến dịch chống tham nhũng như là cách triệt tiêu đối thủ chính trị ở cấp cao nhất của Đảng. Bạo loạn xảy ra ở khắp 5 khu tự trị, và nhất là trật tự an ninh ở đặc khu Hồng Kông đang bị đe dọa từng ngày. Bên ngoài, Trung luôn phải đối đầu với một vòng vây chữ C của các nước láng giềng. Khai chiến với Đại Việt, Trung hở sườn đông bắc Nhật sẽ chớp thời cơ kiểm soát toàn bộ quần đảo Điếu Ngư/ Senkaku; đồng thời Trung sẽ mất cơ hội kiềm chế Bắc Hàn vốn luôn căng thẳng với Nam Hàn và trong tháng qua bị rối loạn với tình hình sức khỏe của nhà lãnh đạo Kim Jong Un. Lại có dự đoán ngay khi Trung khai chiến với Đại Việt, Đài Loan sẽ tuyên bố độc lập liền tức thì. Chưa hết, Ấn Độ tất nhiên sẽ tái chiếm vùng tranh chấp nửa thế kỷ nay và thôn tính miền Nam Tây Tạng… Tức là, về mặt địa-chính trị Trung rất bất lợi cho một cuộc chiến tổng lực ngoài biên giới, nếu so với hai siêu cường quân sự Mỹ và Nga.

Năm là, điểm quan trọng nhất: trong cuộc chiến siêu điện tử, các chiến trường Afghanistan, Iraq là những vùng sa mạc, không quân Hoa Kỳ dễ dàng oanh tạc; hay Georgia là đồng bằng rất gần Nga nên lực lượng cơ giới Nga ngay lập tức đánh chiếm. Chiến địa Đại Việt hoàn toàn khác. Những điều trên không thể áp dụng cho chiến tranh hiện đại tại đây. Bài học xương máu cho một đội quân đông về số lượng nhưng kém tổ chức tại cuộc chiến 6 tỉnh biên giới bắc Đại Việt năm 1979 còn đó! Thiên nhiên đã ban cho Đại Việt đồi núi bao bọc như trong lời thơ: ‘Núi giăng thành lũy thép dày/ Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù.’ Pháp, Mỹ và cả Trung đã phải nhận thất bại thê thảm cũng bởi vậy. Lão luyện trong chiến tranh du kích, quân đội Đại Việt đã giảm thiểu khả năng sử dụng tên lửa, máy bay chiến đấu của đối phương trong chiến tranh hiện đại. Tại Đại Việt, đánh nhanh thắng nhanh không thể nào thực hiện được, dù bất kỳ kẻ thù nào với bất cứ vũ khí nào trên bất cứ loại chiến tranh nào. Mà một cuộc chiến tiêu hao và kéo dài đã không còn tồn tại trong thời hậu hiện đại.

Tóm lại, Trung không thể chiến thắng Đại Việt khi tự gây chiến; và những bài học từ các lực lượng hải quân và không quân hùng cường nhất thế giới bị Đại Việt đánh bại vẫn còn nguyên giá trị.

(Còn tiếp)

bài đã đăng của Đỗ Quyên

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2023 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)