CHƯƠNG 28
“Chào cô Trang!”
Thu Trang giật mình, ngước lên nhìn người đàn bà. Và buột miệng chào thím theo phản xạ.
Một khuôn mặt nhăn nheo, treo trên chiếc cổ phù thủy dài ngoằng, có cái miệng đầy những vết nhăn ở khóe, đang mỉm cười với Thu Trang.
“Phải đúng cô là cô Trang không?”
Thu Trang nghi ngại gật đầu.
Người đàn bà lắm lét nhìn quanh phòng. Thu Trang liếc nhìn cái gói dúm dó người đàn bà ôm trên tay. Mầu vải xám xanh quen thuộc.
“Cô là bạn của cậu Vĩnh phải không?”
Thu Trang lại gật đầu.
“Tôi muốn nhờ cô một chuyện.”
Thu Trang hồi hộp ngồi xích qua một bên trên cạnh giường. Người đàn bà khom lưng, ngồi xuống cạnh chiếc giường phía đối diện. Hai tay vẫn ôm chằm chặp cái bọc vải ép sát trong lòng. “Tôi ở cùng phòng với cậu Vĩnh. Cô nhớ tôi không?”
“Dạ…” Thu Trang ngập ngừng. Trong trí nhớ cùn mằn của cô, hình ảnh người đàn bà mờ nhạt như một chiếc bóng, lẩn khuất giữa muôn ngàn chiếc bóng nhấp nhô mờ ảo.
“Cậu Vĩnh nói là cậu ấy thương cô lắm.”
Thu Trang nghe lòng nhói lên như kim chích. Cô nhìn xuống chiếc vai thuôn, mỏng mảnh, xuôi rạp xuống của người đàn bà, để tránh cái nhìn ái ngại đang dính cứng trên mặt cô. Người đàn bà có dáng ngồi an phận, buông xuôi. Như một phó mặc cho số phận, cho cuộc đời.
“Cậu Vĩnh nói là cô rất hiền thục, và rộng lượng…” Người đàn bà chợt dừng lại, che miệng ho. Cơn ho vật vã, ngặt nghèo.
Thu Trang ái ngại, ngơ ngác. Cô nhìn đôi mắt người đàn bà dàn dụa nước. Một tay người đàn bà che miệng, cố nén cơn ho xé ruột, tay kia vẫn ôm cứng cái bọc vải nhăn nhúm. Thu Trang nhớ tới những người bị uống thuốc phổi. Người đàn bà ốm yếu này có thể bị bệnh phổi. Cô chợt thấy nổi gai trên sống lưng.
Dứt cơn ho, người đàn bà đưa tay quệt nước mắt, tiếp tục nói bằng giọng khản đục. “Cậu Vĩnh gửi nhờ tôi gửi… à, nhắn lại với cô…”
“Vâng?” Thu Trang nôn nóng.
“Cậu ấy giờ này chắc về tới Việt Nam rồi.” Người đàn bà rề rà.
“Tới lâu rồi. Cả tuần nay rồi.” Giọng Thu Trang chua chát. “Vĩnh nhắn gì với thím?”
“Cậu Vĩnh nhắn là cô cứ yên tâm.”
“Sao nữa?” Thu Trang khẽ hất hàm, như một mụ bán hàng nóng tính ngoài chợ.
“Cô cứ việc nộp đơn đi định cư.”
“Tôi biết.”
”Nước nào cũng được.”
“Ừ, rồi sao?”
Người đàn bà bối rối nhìn xuống nền nhà. “À, mà cô đã có lít đi định cư chưa?”
“Có rồi.” Thu Trang trả lời không cần suy nghĩ. Cô nhìn người đàn bà săm soi. Đôi mắt bà ta từ từ rộng mở. Tròng trắng, rồi tròng đen nở ra cái nhìn u tối.
“Cô may mắn quá. Vợ chồng tôi thì không được như vậy.”
Thu Trang nhìn sâu vào đôi mắt có những đường gân máu đỏ của người đàn bà. “Thím bị xù à?”
“Không. Tụi tôi phải về Việt Nam.”
“À,” Thu Trang áy náy. “Chừng nào có chuyến?”
“Làm sao mà biết trước được. Người ta làm như chuyển tù.”
“Ừ nhỉ.” Thu Trang chợt nhớ. Vĩnh cũng bị như vậy. Thông báo hôm trước, hôm sau khăn gói hồi hương. Nhanh chóng, giản tiện.
Cô chờ đợi người đàn bà sẽ nói ra cho cô điều nhắn gửi, dặn dò của Vĩnh. Nhưng người đàn bà cứ thong thả, như cố kéo dài những phút giây vô vị của sự chờ đợi. Hai bàn tay nhăn nheo mầy mò cái bọc vải màu xanh xám nhăn nhúm nằm gọn trong lòng.
Thu Trang buột miệng, “Anh Vĩnh có gửi gì với thím không vậy?”
“À, cậu ấy,” người đàn bà vuốt ve cái gói vải trong lòng, ngập ngừng. “Cậu ấy nhờ tôi trao lại cho cô cái áo khoác này.”
Người đàn bà cúi đầu, nhìn xuống cái túm vải màu xám. Hai tay mân mê mép vải đã có vài đường chỉ sứt mối. Thu Trang chờ người đàn bà trao chiếc áo cho mình. Nhưng bà ta vẫn ngồi đó, đầu cúi gầm, tia mắt dán cứng vào từng thớ vải thô của chiếc áo dúm dó.
Một lát, bà ta ngước lên nhìn Thu Trang. Nét cầu khẩn nặng trĩu cả tia nhìn.
“Cô sắp đi định cư…” Cái giọng rầu rĩ xoáy vào lòng Thu Trang. “Chắc cô không cần cái áo cũ này, thành ra tôi muốn…”
Người đàn bà buông lửng câu nói.
Vừa bối rối vừa nôn nóng, Thu Trang không biết phải làm sao. Người đàn bà ngồi lặng ra đó, như chờ cho Thu Trang thấm thía những buồn khổ của vợ chồng bà.
Một lát, bà ta lại rì rầm, “Chồng tôi yếu lắm rồi. Ông ấy bị phổi…”
“Vậy à?” Thu Trang cố thấm chút thương cảm vào giọng nói.
“Về Việt Nam chắc cũng không tránh được tù đày. Có cái áo này…”
Thu Trang chìa bàn tay ra phía người đàn bà. Trong một thoáng, cô có cảm tưởng toàn thân người đàn bà co rúm lại, như con vật co mình trước ngọn roi của chủ. Cái nhìn dáo dác trên cặp con ngươi màu nâu tối. Những ngón tay níu chặt lấy mép vải chiếc áo choàng.
Cô trấn an, “Thím cho coi cái áo chút thôi.”
Người đàn bà xớn xác nhìn Thu Trang, “Rồi cô cho tôi nghe!”
“Ừ.” Thu Trang gật đầu môt cách mạnh bạo, khoan dung. Cô đỡ lấy chiếc áo trên tay người đàn bà. Cô nhận ra chiếc áo thỉnh thoảng vẫn thấy Vĩnh mặc; nhất là những hôm trời lạnh, hoặc những buổi đưa nhau đi dạo trên bãi biển, thuở còn ở Bidong.
Cô dang tay giũ rộng chiếc áo. Một mùi thịt da quen thuộc, lẫn với mùi quần áo cũ thoảng ra bao phủ quanh cô. Vĩnh đó. Mùi của Vĩnh đó. Quen ơi là quen! Cô nghe cay cay ở khóe mắt. Cô muốn vùi mặt vào chiếc áo của người tình. Nhưng cô ngại người đàn bà trước mặt. Những ngón tay cô run run, bám ghì lấy những mép vải thô cứng.
“Đi định cư chắc khỏi cần cái áo này…” Người đàn bà nhắc nhở. Những giọt nước mắt đọng quanh khóe mi. “Hơn nữa… áo đàn ông, chắc cô không mặc được…”
Hai tay Thu Trang buông rũ xuống lòng. Chiếc áo chợt nặng như tảng kim khí lạ lùng. Cô thẫn thờ, “Anh Vĩnh còn gửi gì khác không?”
“Có lá thư…”
“Thím còn giữ không?”
“Còn. Mà cô cho tôi cái áo này nghe.”
Thu Trang nghĩ ngợi vài giây, rồi lặng lẽ gật đầu. Cô cầm chiếc áo lên, trao cho người đàn bà xa lạ. Người đàn bà đỡ vội lấy chiếc áo, cuống quýt như đứa bé sợ sẽ lỡ mất phần quà nếu không nhanh tay. Thôi nhé Vĩnh. Em nhớ anh trong lòng được rồi. Chiếc áo này, có người đang cần. Anh vẫn nói về sự bao dung, bác ái… Phải không?
“Thím cho tôi xin cái thư đi.” Thu Trang nhắc.
Người đàn bà hí hửng moi túi áo, lôi ra một cái bao thư cũ mèm, nhăn nhúm. Hai chân quơ tìm đôi dép, và hấp tấp đứng dậy. “Thôi tôi về. Cám ơn cô Trang nhiều lắm.” Vừa nói, bà vừa vội vã gấp chiếc áo của Vĩnh lại làm tư, làm tám và ôm sát vào ngực, quay lưng bước ra cửa. “Chào cô.”
“Dạ, chào thím. Cám ơn thím…”
Chờ cho người đàn bà khuất bóng, Thu Trang mở vội tờ thư của Vĩnh. Bao thư đã bóc sẵn. Vết dán bị xờn rách. Có người tò mò đọc trước. Thu Trang cau mày bực bội. Thôi kệ. Chấp nhất làm gì chuyện nhỏ nhặt ấy. Có thư là mừng rồi.
Nét chữ quen thuộc của Vĩnh. Trang ơi, lúc Trang đọc thư này, không biết Vĩnh đã làm xong tờ khai lý lịch thứ mấy rồi. Thu Trang cắn môi cho khỏi bật ra tiếng khóc. Những tức tưởi hãy nén chặt, dồn cứng trong lòng. Vĩnh đi rồi. Ở đây chẳng còn ai dỗ dành, thăm hỏi nữa đâu. Nói vậy thôi, chứ đừng lo cho Vĩnh. Rồi cũng sẽ đâu vào đó thôi. Hận thù nào rồi cũng phải phai đi. Tới một lúc nào đó, sự thù hận sẽ trở thành lố bịch. Có ai lúc này còn cố rêu rao danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh, hay cố khơi nguồn căm hận của cái thời nam bắc phân tranh mà không làm trò hề cho thiên hạ? Vĩnh vẫn cố tin tưởng vào sự khoan dung, giữa những người cùng chung dòng máu, cùng chung một lịch sử…
Thu Trang cắn môi, cau mày suy nghĩ. Vĩnh viết gì đâu đâu! Chàng văn chương khó hiểu. Tại sao chàng không viết ra những điều mà Thu Trang mong đợi. Rằng chàng sẽ yêu Thu Trang mãi mãi; rằng chàng sẽ tìm cách khác để vượt biên; rằng chàng sẽ tìm gặp Thu Trang bằng mọi giá? Có còn yêu em không hở Vĩnh? Vĩnh có biết rằng đêm nào em cũng cố gắng tưởng tượng đến anh lúc dỗ giấc ngủ, để hy vọng đứa con em đang mang trong bụng, sẽ có phần nào cái nét của anh. Người ta vẫn nói thế. Má Năm cũng bảo em thế. Má Năm còn xúi em ra căng tin, mua cuốn lịch tàu có hình chụp tài tử Hồng Kông, về treo ở đầu giường, mỗi tối trước khi đi ngủ, chỉ cần nhìn người tài tử khôi ngô tuấn tú trong hình, mà mong đứa con đầu lòng sẽ đẹp trai, như ngôi sao màn bạc. Em đâu có cần như vậy. Em đã có Vĩnh trong lòng. Cho dù Vĩnh ốm o gầy mòn, hom hem như ông cụ.
Vĩnh chẳng có gì cho Trang làm kỷ niệm, thôi thì Trang cầm đỡ chiếc áo lạnh này vậy. Qua tới xứ người, những lúc lạnh giá chắc cũng xài tạm được. Đêm ngủ, đắp cái áo cũ ấy lên người, cho Vĩnh được ôm Trang trong tay, như ngày nào ôm Trang trên ghe vượt biên. Chiếc áo sẽ thay mặt Vĩnh, che chở cho Trang đến cuối đời. Yêu Trang vô cùng, Trang biết không? Thèm có một đứa con có đôi mắt của Trang vô cùng, Trang biết không? Vĩnh khao khát được có Trang làm vợ, Trang biết không? Vĩnh ghen với tất cả những người đàn ông ở cái xứ sở mà Trang sẽ qua định cư, Trang biết không? Vĩnh muốn chiếm lấy Trang một lần, để không bao giờ Trang thuộc về ai khác được nữa, Trang biết không? Nhưng rồi mỗi lần nhìn vào mắt Trang, Vĩnh lại đành xuôi tay. Trang hiền quá. Trang tội nghiệp quá. Trang ngây thơ như con bé quàng khăn đỏ trong truyện cổ tích. Trang tội tình như công chúa Huyền Trân bị đày đi xứ lạ. Và Vĩnh nghĩ tới tương lai Trang; nghĩ tới những trường lớp Trang sắp phải bước vào, Vĩnh chợt thương Trang như thương người em gái nhỏ. Thôi thì mình giữ cho nhau. Còn cả một đời để sống cho nhau, phải không Trang? Nếu có gánh nặng, ai nỡ để người mình yêu một mình gánh chịu phải không Trang. Thành ra bao nhiêu lần toan tính chiếm lấy Trang cho bằng được, mà vẫn không thành. Dù sao đi nữa, Trang vẫn là của Vĩnh; cũng như Vĩnh đã là của Trang từ kiếp trước. Nhớ giữ sức khỏe, và rán học cho đến nơi, đến chốn. Đừng vội đi làm lo bảo lãnh cho Vĩnh gấp quá. Đi học trước đã. Sắp cãi lời Vĩnh đấy phải không? Vợ thì phải nghe lời chồng, nghe không Miss Thu Trang. Yêu em.
Chữ ký của Vĩnh dài ngoằng cuối trang thư nhàu nát. Vợ của anh khóc nữa rồi, Vĩnh ơi. Vợ của anh không buồn chùi nước mắt, để cho nhòe nhoẹt hết cả không gian, để cho keo đặc hết cả thời gian. Vợ của anh không thèm che giấu nỗi buồn thê thiết nữa. Vợ của anh bất chấp mắt nhìn soi mói của những người chung phòng. Vợ của anh sụt sùi, nức nở. Vợ của anh bật khóc thành tiếng. Vợ của anh khóc như người đàn bà đưa xác chồng, lúc quan tài sắp hạ huyệt. Sao vậy Trang? Có sao không Trang? Bịnh hả Trang? Cần cạo gió không? Cần lên Sickbay liền không? Giờ này còn Cao ủy y tế… Thiên hạ xôn xao thăm hỏi. Những câu nói nhao nhao. Có tiếng đàn ông, đàn bà lẫn lộn. Những giọng nói quen thuộc của đám người chung phòng. Toàn những người quen. Quen thuộc hết cả mà. Chỉ thiếu có một người. Một người thôi. Và Thu Trang cứ khóc, khóc như sẽ không bao giờ còn được khóc nữa. Tội nghiệp con nhỏ. Sao tay nó lạnh ngắt thế này? Nó đang có thai đó. Dẫn nó lên bệnh viện đi. Có khi nào nó khùng không bà Năm? Những tiếng xì xào lọt vào tai Thu Trang. Vẫn toàn những người quen. Vẫn chỉ toàn những người quen ấy thôi.
“Mầy đi đâu vậy, Trang?”
Thu Trang tất tả bước xuống ngạch cửa. Tiếng gọi xớn xác ở sau lưng. Đi đâu kệ tôi. Mấy người hỏi làm chi. Cho dù có mọc thêm mười chân nữa, tôi cũng đâu ra khỏi ba bốn lớp hàng rào trại tÿ nạn này được.
“Trang!” Tiếng của má Năm.
Thu Trang ngoái cổ lại, trả lời đại bằng cái giọng ẩm ướt, “Đi… lên… chùa; lên… nhà thờ…”
Không ai đi theo Thu Trang hết. Cô thèm được ở một mình. Cô nhớ tiếng sóng ở Bidong. Cô nhớ những vũng biển khuất nẻo ở khu F. Ở đây, không có được một chỗ nào riêng tư. Cô chùi nước mắt, lầm lũi đi về phía nhà thờ Công giáo. Tờ thư bóp nát trong bàn tay ẩm ướt mồ hôi. Ngôi nhà nguyện nho nhỏ phía trước. Dáng thập giá chênh vênh, trơ trọi trên nền trời. Cô rẽ vào vùng cỏ mọc hoang rậm rì bên cạnh nhà nguyện. Cô đi về phía bức tường gạch dở dang phía gần hàng rào trại. Ở đó, có một lần Thu Trang đã sẵn sàng để yêu Vĩnh bằng thân xác xanh xao, gầy ốm. Ở đó, có một lần Thu Trang chụp tấm hình trâng tráo để van xin một ân huệ. Thu Trang ngồi xuống nền xi măng, khuất sau bờ cỏ hoang rậm rạp. Cô mở tờ thư của Vĩnh ra, đặt lên đùi, bằng hai bàn tay xanh xao, cho thẳng lại. Và cô lại đọc, lại khóc tấm tức một mình. Ánh nắng vàng vọt hắt lên người Thu Trang cái vệt ngang của bức tường gạch, trông như một vết cắt dã man chẻ đôi thân người. Nắng nhảy múa trên tờ giấy cũ nhàu. Lá thư đầu tiên, hay lá thư cuối cùng? Lời tỏ tình hay lời vĩnh biệt? Thu Trang khóc đến cạn khô cả nước mắt. Tiếng loa từ văn phòng trại vọng đến tai Thu Trang, nhưng chẳng còn làm Thu Trang chú ý. Cô khóc bằn bặt như đưa đám.
Khi hai mắt Thu Trang đã ráo hoảnh, cô ủ rũ đưa tay vuốt tóc, xoay đầu lại nhìn về phía ngôi nhà nguyện khuất nẻo phía sau, và cô bắt gặp một bóng người.
Người đàn ông vạm vỡ như thuyền chài, đứng đó tự bao giờ, phanh ngực áo, phơi ra những bắp thịt vai và ngực cuồn cuộn. Những vết thẹo dọc ngang trên mặt, những vết xâm trên ngực, trên cánh tay gã đập vào mắt Thu Trang. Cô hốt hoảng chống tay, lồm cồm đứng dậy. Thái chém! Tiếng hét kinh hoàng trong trí tưởng cô. Cái thằng người đầu trộm đuôi cướp, cái gã du côn chém người không gớm tay, cái kẻ làm tai sai cho cảnh sát Mã Lai áp bức dân tÿ nạn đấy chứ ai. Tên tù này được Mã Lai thả ra hồi nào vậy hả trời! Thu Trang cảm thấy ngộp thở. Tay chân cô rụng rời.
Gã đàn ông đứng khuỳnh hai đầu gối ra hai bên, trông như người xài chân giả. Gã cười nửa miệng với Thu Trang. Thu Trang luống cuống làm rớt tờ thư. Mảnh giấy chao bay trong gió nhẹ. Gã bước tới, khom người nhặt lấy tờ giấy, đưa lên ngang tầm mắt, tò mò đánh vần.
“Thư bồ hả cưng?”
Cái giọng ngả ngớn của gã làm Thu Trang rùng mình. Cô run rẩy, “Làm ơn cho xin lại…”
Gã cười hềnh hệch, đưa tờ giấy về phía Thu Trang. Cô rụt rè nhích từng bước lại phía gã đàn ông. Gã trao tờ giấy cho cô, và bất chợt nhào tới ôm lấy Thu Trang. Thu Trang cuống cuồng vùng vẫy. Tờ thư rách toạc trong tay cô. Một tay gã níu lấy vai áo cô, tay kia hung hãn tìm tòi. Thu Trang vùng vẫy, cào xé như con mèo bị dồn tới chân tường. Mùi đàn ông khét nồng lỗ mũi. Thu Trang la hét, cào xé như điên cuồng. Cô cắn một cú chí tử vào bàn tay quờ quạng trên mặt mình. Tiếng hét của gã trầm và đục. Thu Trang tuông chạy. Băng băng trong lớp cỏ cao dày. Gió lùa hai bên tai cô vùn vụt. Tiếng chửi thề của gã rớt lại phía sau. Bàn tay của gã như còn bám theo trên ngực Thu Trang sần sượng. Đồ cao bồi, du đãng! Mẹ ơi; Chúa, Phật ơi. Sao con khổ thế này. Những lời than thân trách phận nhập nhằng trong trí tưởng Thu Trang. Không còn chỗ nào yên ổn cho những người con gái Việt Nam như Thu Trang, trên mặt đất này nữa.
Thu Trang ôm siết lấy ngực, cuống cuồng chạy như ma đuổi. Cỏ dại quất lên những khoảng da trần, rát bỏng. Gió vù vù thổi hai bên mặt. Những con châu chấu hoảng kinh bay xòe đôi cánh tím than, lấp lánh trong nắng.
Ra khỏi vùng cỏ hoang, cô đuối sức muốn gục. Cái bao tử cuồn cuộn cảm giác nôn nao. Và cô ôm bụng nôn khan. Nước miếng trào ra đầy miệng. Không khí bị vắt kiệt khỏi lồng ngực. Nước mắt đầm đìa hai má, cô ngoái lại phía sau, tìm kiếm.
Gã du đãng vẫn đứng đó, bên bức tường gạch vỡ. Hình như gã đang cười hềnh hệch. Gã không buồn đuổi theo Thu Trang. Chẳng phải vì gã đã bỏ cuộc. Gã chả bao giờ bỏ cuộc. Gã muốn người nào ở trong cái trại này, trước sau gì gã cũng được. Đã có luật pháp của giám thị trại che chở cho gã. Gã không thèm đuổi theo đứa con gái có đôi mắt tròn như hai hạt nhãn ấy, vì gã đã đoạt chiến lợi phẩm từ cuộc đột kích bất ngờ, man rợ: Hai mảnh ngực căng cứng, và một tờ thư có những lời dặn dò vô vọng.
CHƯƠNG 29
Phái đoàn Canada vào trại. Một danh sách ngắn ngủn được đọc trên loa. Thu Trang hồi hộp, bồn chồn như ngồi trên bãi rác có lũ chuột lăng xăng đào bới, lục lọi. Người ta gọi tên cô. Vậy là có tin vui. Cái bào thai chợt gồ lên phía bụng trái. Thằng bé (hay con bé) này coi bộ ham chạy nhẩy. Thu Trang đã lướt qua được những cơn ói mửa nôn nao buổi sáng. Nhưng những cơn thèm ăn gở quái ác vẫn còn dính cứng lấy cô, như một thói quen không thể nào bỏ được. Thu Trang thèm xoài, thèm me dầm, thèm xí muội. Tất cả những đồ ăn chua đều làm cô thèm chảy nước miếng. Đứa bé hẳn là háu ăn-Thu Trang thường hay lẩn thẩn nghĩ một mình-và dĩ nhiên là giống bố. Hai người đàn ông: Vĩnh và Phú; mỗi người góp một phần trong việc tạo hình đứa con đầu lòng của Thu Trang.
Cô nhét tấm thẻ tị nạn vào túi áo, hấp tấp bước ra khỏi phòng. Những tiếng dặn dò vói theo, vồn vã. Mở pác-ti được rồi Trang ơi. Con nhỏ xui đó rồi lại hên ngay đó. Con nhỏ này số hên…
Thu Trang chạy ì ạch trên đá sỏi. Tiếng bước chân cô rào rạo, thúc hối. Mừng quá thôi. Lần này không phải là cao ủy gọi lên, mà là chính phái đoàn Canada. Lâu lắm phái đoàn mới vào một lần. Mỗi lần vào, họ đều mang theo ít nhiều tin vui. Thu Trang đi chậm lại để thở. Cái bụng như lệch về một bên. Cô cúi xuống nhìn. Bụng cô vẫn thon gọn. Chưa có dấu vết gì của thai nghén. Thu Trang vẫn là con gái trong mắt những người ở trại Sungei Besi. Chỉ vài người chung phòng là đoán biết Thu Trang có thai. Và ai cũng đổ thừa cho Vĩnh. Thu Trang biết vậy, nhưng không thèm cải chính. Hơi đâu tốn công đi lo giải thích nọ kia với thiên hạ. Ai là cha đứa bé thì có ăn nhằm gì đến họ. Có ai mang cái bào thai dùm Thu Trang được lấy một ngày đâu.
Thu Trang trao thẻ tị nạn cho người thanh niên ban trật tự đứng chắn ở cửa phòng làm việc của phái đoàn. Cô nhìn vào văn phòng. Từ ngoài nắng nhìn vào, căn phòng tăm tối lố nhố bóng người.
“Cô chờ ở ngoài đi.” Người thanh niên nhắc nhở.
Thu Trang thụt lui lại phía sau, lẫn vào những người đang chờ đợi nôn nóng. Mỗi người đều có một chút gì của những tia hoan lạc trong ánh mắt. Tiếng nói chuyện xì xào của đám người, làm tăng thêm vẻ nghiêm trọng những cuộc tiếp kiến của phái đoàn.
Đến lượt Thu Trang, cô run rẩy bước vào phòng, lóng cóng vấp ở ngạch cửa suýt ngã. Người nhân viên phái đoàn chào cô một cách vội vã. Người thông dịch lạ mặt cũng có nét mặt nghiêm trọng, căng thẳng. Hình như anh ta là nhân viên thiện nguyện. Anh ta dịch một cách chững chạc, làm cho cuộc phỏng vấn trở nên cứng nhắc như một phiên tòa. Người nhân viên da trắng lật những tờ giấy có nhiều ô vuông và chi chít những chữ. Ông ta nói gì đó với người thông dịch, và anh ta dịch lại cho Thu Trang một cách trang trọng rằng đơn xin bảo lãnh do chồng cô làm, đã được chính phủ Canada chấp nhận. Canada là quốc gia nhân đạo, sẵn sàng chấp nhận cho đoàn tụ gia đình.
“Cô có gì thắc mắc không?”
“Dạ, chừng nào tôi sẽ được qua Canada?” Thu Trang run run hỏi.
“Chuyến bay sắp tới. Hai tuần nữa. Chồng cô đã đóng tiền vé máy bay rồi.”
Câu trả lời của người đàn ông Canada được dịch thật gẫy gọn cho Thu Trang, nhưng cô vẫn tưởng như mình đã nghe lầm. Cô hỏi lại, “Mấy tuần ạ?”
“Hai. Cô ký vào chỗ này, chỗ này, và chỗ này…”
Thu Trang nhắm mắt, ký vội vàng. Cô không dám dừng lại để thử tìm hiểu xem mình đang ký những gì. Chữ ký cô run run, quăn queo như con giun bị xéo. Ba chữ ký, không chữ nào giống chữ nào. Cô thấy lờ mờ hình ảnh một xứ sở đầy tuyết trắng ở trang giấy trải trên mặt bàn. Nụ cười của Phú rạng rỡ trong manh nắng thủy tinh trong vắt.
“Còn hỏi gì nữa không?”
“Dạ không.”
“Ông trưởng phái đoàn dặn cô rán học Anh văn.”
“Dạ, vâng.”
“Ông ấy chúc mừng cô.”
“Dạ…”
“Cô phải nói cảm ơn ông ấy chứ.”
“Ô, xin lỗi. Cảm ơn ông trưởng phái đoàn…”
Người đàn ông da trắng mỉm cười, chìa tay phải qua mặt bàn. Thu Trang rụt rè bắt lấy bàn tay rắn chắc của người đàn ông dị chủng. Đó là lần đầu tiên Thu Trang bắt tay một người đàn ông ngoại quốc. Cái bắt tay chặt chẽ, ấm áp và đầy sự tin tưởng lẫn nhau.
“Thôi, cô về được rồi!”
Thu Trang cúi đầu chào thêm lần nữa trước khi lui ra. Cô lọng cọng bước đi trên mảnh sân trải đá vụn. Tiếng rào rạo dưới chân. Lòng cô lâng lâng như đang thấm đầy men rượu. Cơn say váng vất làm Thu Trang thấy yêu đời, thấy nắng hiền hòa và thấy mọi người dễ thương, dễ mến.
Cái thai lại bất ngờ gò lên thật mạnh trong bụng Thu Trang, làm cô đứng sựng lại, lo lắng. Thằng bé này lớn lên chắc làm cầu thủ đá banh quá! Cô thầm nghĩ. Chưa gì mà con đã quẫy đạp làm mẹ nhói cả ruột gan. Cái ý nghĩ mới mẻ chạy vòng quanh trong trí cô. Làm vợ, làm mẹ. Chao ơi, những điều lạ lẫm không thể tưởng tượng được. Cái ý nghĩ làm Thu Trang xôn xao, bối rối và ngượng ngùng, như cô gái lần đầu tiên có người lại nhà coi mắt. Thu Trang chợt nghĩ tới mẹ. Ừ, đã lâu lắm không nhận được thư mẹ. Không biết bây giờ mẹ với bố như thế nào rồi. Nếu tin đồn Mỹ bỏ cấm vận là sự thực, không biết cuộc sống của bố mẹ và mấy đứa em có khá hơn được chút nào không. Chuyện chính trị làm Thu Trang rối mù đầu óc. Cô chỉ biết mơ ước những điều tốt đẹp nhất, cho những người còn ở lại quê nhà.
Cái thai lại đạp mạnh qua phía bên bụng trái. Thu Trang nhăn mặt ôm bụng. Không biết có gì nguy hiểm không. Dám cũng phải lấy phiếu lên phòng y tế xin khám thai cho bảo đảm. Cô nghĩ ngợi quẩn quanh.
Khám thai. Cô thấy ngại ngùng làm sao đó. Người bác sĩ đàn ông. Cái bàn khám bệnh có chân bằng kim loại sáng loáng và lạnh băng. Hai miếng gác chân hai bên. Thu Trang xấu hổ muốn độn thổ. Cái thai khỏe lắm. Cô cứ yên tâm. Lần khám thai trước, cả ông bác sĩ Việt Nam già nua, lẫn người bác sĩ Thụy Điển trẻ măng cùng nói như vậy. Chắc khỏi cần xin khám thai. Chờ tới khi nào qua Canada khám luôn thể. Chỉ còn hai tuần lễ nữa thôi. Hai tuần phù du.
“Người con gái Việt Nam da vàng!”
Tiếng đàn ông gọi giật giọng ở phía sau. Thu Trang giật mình quay lại. Một khuôn mặt gầy thỏn bù xù râu tóc đang nhìn cô bằng cái nhìn van xin, thê thiết.
Thu Trang hốt hoảng, mở trừng trừng hai mắt. Chân tay cô bủn rủn.
“Làm ơn cho tôi hỏi…” Âm thanh khàn đục lọt ra từ khoảng râu tóc rậm rạp. “Tôi chỉ hỏi một câu thôi.”
Cái cổ Thu Trang ngọ ngoạy. Cô không biết mình vừa gật đầu hay lắc đầu.
“Tại sao nó không tự tử?” Đôi mắt người thanh niên rực lửa, nhưng giọng nói anh ta lạnh băng.
“Ông nói ai?” Thu Trang run run hỏi lại.
“Cô trả lời dùm tôi một câu đó thôi.”
“…”
“Tại sao?” Người đàn ông gắt lên, nóng nảy.
Thu Trang nhúc nhích đôi chân, nghĩ cách nào bỏ đi cho lịch sự. Người đàn ông khạc và nhổ nước miếng xuống đất một cách khinh miệt.”Tại sao nó không tự tử?”
“Ông nói ai?” Thu Trang bất giác đưa tay sờ lên tấm thẻ tị nạn cứng cạnh nằm trong túi áo.
Người đàn ông hằn học, “Tại sao nó nằm đờ ra đó mà hưởng, tại sao nó uốn éo bàn chân, tại sao nó nắn bóp hai vai thằng Thái Lan? Tại sao? Lẽ ra nó phải cắn lưỡi tự tử chứ… Tại sao? Tại sao. Hả trời?”
Thu Trang ù té chạy. Người thanh niên lừ đừ bước theo, như một con quỷ nhập tràng. Thiên hạ túa ra, bao quanh gã. Thu Trang chạy cuống cuồng về phía khu nhà hộp của cô. Người điên! Người điên! Có ai làm ơn dẫn anh ta lên phòng cấp cứu dùm đi! Mau đi kẻo anh ta lên cơn giết người bây giờ. Bữa trước nó xé áo một cô gái rồi. Anh ta sắp lên cơn… Anh ta sắp lên cơn. Tiếng nói chuyện xôn xao trong đám người.
Thu Trang ngoái cổ lại nhìn đám đông. Người thanh niên vẫn lừ đừ rải nhũng bước nặng nề-của một xác chết vừa đội mồ sống dậy-trên khoảng sân rực nắng.
CHƯƠNG 30
Túi hành lý nhẹ tênh. Vài bộ quần áo cũ, chiếc khăn mặt, cái bàn chải răng. Và những tờ thư. Thư của bố mẹ, thư của Phú, của má Năm và những người chung phòng, nhờ đem qua Canada gửi đi dùm. Bao nhiêu lời dặn dò. Thu Trang rán nhét vào đầu, nhưng những lời dặn dò, nhắn gửi không ở lâu được trong trí nhớ. Cô chỉ nhớ mỗi một thứ; nhớ từng dấu chấm, dấu phẩy: cái địa chỉ của Vĩnh ở Việt Nam. Ba số đầu là số con hẻm. Một cái gạch chéo. Hai con số sau cùng là số căn nhà mẹ con Vĩnh ở. Chắc hẳn phải là một con hẻm nhỏ. Có lẽ lầy lội về mùa mưa. Tối tăm khi đêm xuống. Vĩnh con nhà nghèo. Chàng vất vả với miếng cơm manh áo. Chàng vừa lo học hành vừa lo chạy chọt, mua bán tiếp tay với mẹ chàng. Chắc là như vậy. Vĩnh chưa bao giờ kể cho Thu Trang nghe về gia đình chàng, nhưng Thu Trang đoán được qua những cái chớp mắt ngại ngần, những tiếng thở dài xa vắng, những cái nhìn ném vào khoảng không trống trải. Vĩnh sẽ nên người vì chàng nghèo, vì chàng có trái tim của con người đích thực, vì chàng có ý chí tự lập. Nhưng về lại Việt Nam, chàng sẽ làm gì để sống? Chàng có nhiệt huyết; chàng yêu cái mảnh đất khốn khổ ấy, nhưng người ta có để cho chàng góp sức mà xây dựng quê hương không?
Đầu óc Thu Trang trôi như những cụm mây bông gòn, lênh đênh trên bầu trời cuối hạ Kuala Lumpur. Cô không biết mình đang buồn hay vui. Lần xếp hàng cuối cùng ở trại tÿ nạn. Những mặt người rạng rỡ niềm vui. Tiếng cười nói xôn xao trong đoàn người chờ lên xe, ra phi trường. Hai mươi mấy người. Thu Trang thầm đếm. Hai mươi mấy kiểu cười. Và biết bao nhiêu là nước mắt.
Đám nhân viên Mã Lai tíu tít làm việc. Thôi, từ nay hết sợ giám thị trại, hết sợ Task Force nữa nhé. Tiếng nói chuyện lao xao chung quanh. Quay đầu một nửa vòng phía bên trái, Thu Trang bắt gặp những con mắt u ám, ganh tị và hằn học của đám người ở lại. Tiếng ho khậm khoặc của vài người đứng trong đám người đưa tiễn vang lên như những lời trách móc, thù hằn.
Má Năm đứng sát vào Thu Trang. Sụt sùi, ấm ức. “Mày có phước quá Trang à.” Người đàn bà cứ lập đi lập lại câu nói ấy, làm Thu Trang áy náy như kẻ vừa phạm một tội ác tày trời. “Qua tới Canada, nhớ gởi cái thư ấy đi dùm tao nghe Trang.”
Thu Trang lầm lì gật đầu.
“Ráng tìm coi có cái chùa từ thiện nào đó chịu bảo lãnh, nhờ họ bảo lãnh dùm tao. Tao sẽ ráng ăn chay, để vái…”
Má Năm thì thào vào tai Thu Trang làm cô thấy nhột nhạt. Cảm giác cong cớn trơ trẽn chợt thức dậy trong người Thu Trang.
Ngày xưa, Phú cũng đã thì thào vào tai Thu Trang như thế. Phú; chồng của tôi đấy. Chẳng biết anh ấy có ra phi trường đón tôi, như đã hứa đi hứa lại cả trăm lần không. Sao vẫn chưa quen được cái ý nghĩ xa lạ ấy. Chồng, vợ. Con cái. Mình sẽ là vợ của một người đàn ông. Có gì sai trái lắm đâu. Ai mà không phải có một lần lấy chồng, lấy vợ. Nhưng biết rồi Phú có thương mình, như Vĩnh đã từng thương không.
Hàng người nhích dần lên. Thu Trang chậm chạp bước tới. Những bọc hành lý được kiểm soát kỹ lưỡng. Giấy tờ cầm sẵn trong tay. Lòng chùng xuống như sợi dây cao su dãn vì bị căng quá lâu.
Má Năm lại níu áo Thu Trang.
“Nhớ nghe, Trang.”
“Dạ…”
“Qua tới Canada, nhớ kiếm dùm tao một cái hội từ thiện nào đó.”
“Nhớ mà, má Năm…”
“Còn mày, kiếm đỡ chỗ nào đó mà nương thân…”
Thu Trang không muốn những người đứng chung quanh nghe được chuyện của mình, cô át giọng má Năm, “Má đừng lo chuyện đó mà. Con sẽ rán đi học.”
“Lo cái thằng nhỏ trong bụng trước đã. Tao thấy…” Má Năm ngập ngừng, nhìn quanh.
Thu Trang thắc mắc hỏi, “Sao? Má thấy sao?”
“Kiếm đại…” Má Năm thì thào vào tai Thu Trang. “Kiếm đại thằng Tây nào đó, lấy nó, nó lo cho cả hai mẹ con. Tao nghe nói tụi Tây tụi Mỹ cưng vợ như cưng má nó.”
Lòng đã nát nhàu như trang giấy cũ, mà Thu Trang cũng phải bật cười. Cô nhìn đôi mắt nhòe nhoẹt nước mắt của má Năm.
“Má đừng lo.” Rồi cô bối rối nhìn xuống vũng nắng trải trên sân đất khô, xa vắng. “Mọi chuyện sẽ đâu vào đó…”
“Tao cũng mong như vậy.”
“Tới Canada, con sẽ gửi quà cho má liền.”
Giọng Thu Trang chắc nịch như đinh đóng cột.
“Được vậy, tao mang ơn. Nhưng mà…” Má Năm chợt ngập ngừng, “làm cách nào mà Canada nhận mày vậy Trang?”
Thu Trang chớp mắt.
“Ai biết đâu… Thì mình nộp đơn xin đi Canada, may thì nó nhận; không may thì bị xù… Má biết mà..”
“Nhưng mà tao không hiểu sao hồ sơ mày, Canada nó giải quyết mau quá… Chắc phải có quen biết gì…”
Má Năm vừa nói vừa nhìn xăm xoi vào mắt Thu Trang, tìm kiếm một câu trả lời ẩn khuất trong đó.
“Hên xui thôi mà!” Thu Trang lấp liếm.
Cô thấy hai giọt nước mắt khác chảy dài xuống má người đàn bà. “Mày có phước quá, Trang ơi!” Vẫn cái câu nói buồn rười rượi ấy thổi vào tai Thu Trang. “Còn tao, không biết phải uống thuốc phổi đến bao giờ!”
“Thì cũng vài tháng chứ mấy má Năm.” Thu Trang an ủi.
“Mười tháng trời, mày tưởng ít lắm hả? Uống thuốc xong thì Mã Lai đã dẹp xong trại tị nạn rồi… Tao biết đi đâu mà sống đây…”
Hàng người lại nhích lên. Chỉ còn một người nữa là đến phiên Thu Trang. Cô cuống cuồng như đứa bé sắp phải từ bỏ quê nhà, lên tỉnh theo học. Không. Cô như người con gái về nhà chồng, còn mang theo trong hành trang, một mối tình khốn khó. Cô nhìn quanh quất những bóng cây rậm lá, những vỉa hè sứt sẹo, những vách tường khô khốc. Vĩnh lảng vảng quanh đó. Dáng cao gầy. Chiếc cổ khẳng khiu. Hai bàn tay củi nỏ. Đôi mắt rực lửa tin yêu. Câu dỗ dành ngọt ngào. Những lời pha trò dí dỏm. Miss Thu Trang. Miss Thu Trang… Nói tiếng Anh dở ẹc. Miss Thu Trang, sao cô lại dám chê cao ủy…
Tới phiên mình, Thu Trang đưa túi hành lý cho người giám thị trại. Cô lơ đãng nhìn quanh. Tiếng phẹc-mơ-tuya kéo rèn rẹt. Tiếng vải cọ vào nhau loạt xoạt. Những tờ thư nhăn nhúm.
“Ô-kê.”
Người giám thị chỉ nói một chữ cụt ngủn. Cái nhìn cùn mằn của ông ta không vướng lại lâu trên mặt Thu Trang. Ông ta hất hàm, ra dấu cho Thu Trang bước tới. Cô cuống cuống quay lại nhìn má Năm. Người giám thị trại dúi cái túi xách vào tay cô. Mắt cô ướt nhòe.
“Má Năm đi… sau, nghe!” Cô ráng vẽ trên môi một nụ cười. “Chúc má Năm hạnh phúc với… dượng Ba.”
Cô cười; cô rán cười thật tươi, thật dễ thương. Và trong cái khung chóa nhòa của nước mắt và nắng vàng, cô thấy má Năm há hốc mồm ngơ ngác.
Vài giây sau, má mới nói vọng theo Thu Trang, trong lúc cô đang lết từng bước về phía cửa chiếc xe buýt dài, “Hạnh phúc mẹ gì. Tao thôi thằng chả rồi. Thằng chả sợ lây bịnh phổi!”
Nụ cười tắt ngấm trên môi Thu Trang. Cô thấy mặt mình cứng lại, thô kệch như chiếc mặt nạ bằng sáp bị biến dạng. Và trước khi lọt hẳn vào trong khung cửa chữ nhật của chiếc xe, cô còn nghe cái giọng lanh lảnh của má Năm, “Mà làm sao mày biết chuyện đó vậy, Trang?”
Thu Trang không trả lời. Nếu như còn thì giờ để trả lời, Thu Trang cũng không biết nói sao. Sự thực cuối cùng cô học được ở trại tị nạn Sungei Besi. Bài học mới mẻ về tình yêu của lứa tuổi xế bóng. Đời sống đầy những ngạc nhiên. Đời sống đầy những hứa hẹn không có thật.
Cô loay hoay tìm một chỗ ngồi trong lòng xe trống trải. Những mảnh nắng vuông lọt qua dãy khung cửa hẹp, vắt lên những lưng ghế bọc da trơn bóng. Cô ngồi đại xuống một ghế trống, chung hàng với một cặp vợ chồng trẻ. Những giọt nước mắt rụng xuống sàn xe. Những giọt nước mắt khác ứa ra trên má, ngià ngáy khó chịu. Thu Trang dời thêm một ghế, ngồi sát vào cửa sổ bên hông xe. Đầu óc cô tan hoang như khu vườn sau cơn giông tố. Vậy là má Năm chẳng còn ai trên đời này để thương, để nhớ, để chăm sóc, ân cần nữa. Sự linh cảm của Thu Trang vậy mà đúng boong. Ngay từ cái hôm má Năm phải lên phòng y tế thử đàm. Người đàn ông ấy đã ngồi đánh cờ, dửng dưng như một người xa lạ. Ấy mới chỉ là lên thử đàm thôi mà còn xa lạ đến như vậy, nói gì bây giờ má Năm đã bị gọi lên uống thuốc mỗi ngày. Thời gian gần đây, ngày nào Thu Trang cũng đi cùng với má Năm lên phòng y tế. Tên má nằm trong một cái danh sách dài. Má Năm chờ gọi tên, mang thẻ tị nạn vào trình diện. Người y tá đưa cho má mười mấy viên thuốc đủ màu. Má Năm phải mang theo ly nước để uống thuốc tại chỗ. Lần nào má cũng cầm vốc thuốc trên tay, ngậm ngùi nói với Thu Trang rằng nắm thuốc này đem về Việt Nam bán chợ trời, chắc phải đủ tiền ăn cho cả tuần lễ. Rồi má bỏ từng viên thuốc một vào miệng. Mỗi lần nuốt một viên thuốc, má hất mạnh cái đầu ra phía sau, như thêm đà cho viên thuốc trôi dễ dàng xuống cổ họng. Thu Trang nhớ những nếp nhăn đặm nét hai bên đuôi mắt người đàn bà, mỗi khi má nuốt xong một viên thuốc. Thu Trang rợn người đứng nhìn. Nỗi lo âu thỉnh thoảng lởn vởn trong óc cô. Biết đâu cứ sống chung như thế này, có ngày tới phiên Thu Trang phải uống thuốc như má Năm. Nghe nói những người có bệnh phổi, sẽ chẳng nước nào chịu nhận. Những băn khoăn ấy thổi vào lòng Thu Trang nỗi lo âu ngấm ngầm. Nhưng biết làm sao được. Sớm muộn gì ai cũng phải chết một lần. Thu Trang không sợ chết, cô chỉ sợ bị Canada “xù” và bị đuổi về Việt Nam. Tình đời, chả làm sao hiểu được. Vậy mà ông nội ấy dám cả gan chui vào giường má Năm. Không biết ngoài cái lần Thu Trang tình cờ bắt gặp ấy ra, dượng Ba còn chui vào mùng má Năm bao nhiêu lần khác nữa. Hèn gì má Năm phải ra Kuala Lumpur chữa bệnh. Mà má Năm cũng kỳ. Người thì thật là hiền lành, xởi lởi. Tâm hồn chất phác của má không hề biết hơn thua với ai. Con người lúc nào cũng tin tưởng ở Trời, Phật. Má Năm chẳng phải là một trong những người nòng cốt của chùa Phật giáo đó sao. Vậy mà… Thật không hiểu nổi trái tim của con người!
Thu Trang nhổm dậy, nhìn xuống sân. Những người cuối cùng đang được xét hành lý. Hình như đám người đứng xem đã đông hơn trước. Thu Trang nhìn lại thêm một lần, những mái nhà dốc thoai thoải sáng loáng ánh kim loại, cái cột cờ phất phới lá cờ Mã Lai. Lòng cô thắt lại với niềm tủi hận. Đã từ bao lâu rồi, Thu Trang không có được một biểu tượng của quê hương. Cô cố nhìn về phía nhà nguyện Thiên Chúa giáo, phía bức tường dở dang gần hàng rào trại… nhưng những thứ đó khuất sau khúc quanh cuối con đường dài lờ mờ bụi đỏ. Vậy là hết nhá. Từ giã Mã Lai. Từ giã Sungei Besi. Từ giã má Năm. Từ giã những người Việt Nam khốn khổ. Từ giã Vĩnh của những ngày tháng sống nhờ trên xứ lạ. Nước mắt Thu Trang lại ứa ra. Cô để mặc những giọt nước mắt lăn dài trên má. Người đàn ông. Những người đàn ông lầm lũi đứng nhìn đám người may mắn trên xe buýt. Những người đàn ông khoanh hai tay trước ngực, thản nhiên, lạnh lùng đến kinh khiếp. Những người đàn ông giống hệt Vĩnh, đang nhìn cô đăm đăm. Đừng đưa tiễn, Vĩnh ơi. Trang sợ lắm. Về đi. Về phòng đọc sách, đọc sách gì đi. Hồi này phòng thông tin toàn là sách của “mấy ổng” gửi qua thôi, có gì đâu mà đọc. Thì cứ đọc đại sách gì cũng được. Đừng đứng nhìn theo Trang như thế. Về đi, tới Canada, Trang sẽ lo bảo lãnh cho Vĩnh ngay. Trang có chồng, nhưng Trang vẫn bảo lãnh cho Vĩnh được như thường. Chồng của Trang có tấm lòng bao dung, cao cả. Chắc anh ấy không thắc mắc gì đâu. Mà nếu sợ anh ấy thắc mắc, Trang sẽ nói dối rằng Vĩnh là anh ruột của Trang. Được không? À quên nữa. Anh em ruột gì mà khác họ. Thôi, anh em cùng mẹ khác cha vậy. Hoặc là anh em bà con; con cô con cậu chẳng hạn. Phải không Vĩnh.
Thu Trang nói chuyện một mình. Lảm nhảm. U uất. Tiếng máy xe rú lên át cả tiếng nói chuyện của cô. Trong lòng xe vang lên những tiếng khóc tức tưởi. Thu Trang vẫn nói một mình, như một kẻ ngoan đạo thầm thĩ cầu kinh. Chả ai thèm chú ý đến Thu Trang. Xe lăn bánh. Thu Trang ngoái cổ nhìn lại phía sau. Vĩnh, sao vẫn đứng đó. Hai tay sao khoanh hoài trước ngực vậy. Về đi! Về phòng đi! Vĩnh ở phòng mấy, dãy nào của khu hồi hương vậy nhỉ, Trang quên mất tiêu rồi!
Những bóng người chìm xuống dưới làn bụi mỏng. Nhỏ dần, xa dần. Lí tí như những con kiến ngẩn ngơ phía sau hàng rào kẽm gai. Một lớp kẽm gai, hai lớp kẽm gai. Xe đổi hướng. Thu Trang chỉ còn thấy những mái nhà thấp. Dốc đồi cỏ biếc xanh. Trại tị nạn ở trên cao. Thu Trang nhớ ai đó bảo trại tị nạn này ở trên cao nguyên, nơi có miệng núi lửa đã ngưng hoạt động. Tin đồn hay sự thật không biết nữa. Chiếc xe rú ga lướt đi trong nắng. Bụi đỏ tung lên, như làn khói phép phù của một tay phù thủy gian ác, che kín khung cảnh trại tị nạn ở phía sau.
Và khi xe cặp vào con đường tráng nhựa êm ái, Thu Trang quay đầu nhìn lại chỉ còn thấy một rừng cây xanh ngắt.
(Còn tiếp một kỳ)
Bạn có thể nghe tác giả đọc phân đoạn này trên YouTube
bài đã đăng của Hoàng Chính
- mòn mỏi chờ ai đó trở về - 04.11.2025
- mùa thu cuối cùng - 09.09.2025
- cái đồ vô tổ quốc!–the stateless - 26.05.2025
- mấy sông cũng lội… (kỳ 10) - 28.04.2025
- mấy sông cũng lội… (kỳ 8) - 21.04.2025
- mấy sông cũng lội… (kỳ 7) - 17.04.2025
- mấy sông cũng lội… (kỳ 6) - 14.04.2025
- mấy sông cũng lội… (kỳ 5) - 10.04.2025
- mấy sông cũng lội… (kỳ 4) - 07.04.2025
- mấy sông cũng lội… (kỳ 3) - 03.04.2025
- mấy sông cũng lội… (kỳ 2) - 31.03.2025
- mấy sông cũng lội… (kỳ 1) - 27.03.2025
- mấy sông cũng lội… nợ những người không may mắn như tôi - 24.03.2025
- “And I’m Guilty of That!” - 07.02.2025
- chì riêng phạm nhân hiểu được - 01.11.2024
- như thời tiết không thể nào đoán trước - 26.09.2024
- còn lại một mình giữa nhân gian - 10.07.2024
- có gì mà phải vội vã nữa đâu! - 21.05.2024
- mịt mờ dấu chân quen - 18.04.2024
- có những thứ cần phải đốt đi - 20.03.2024
- ngõ cụt - 04.03.2024
- những viên thuốc giả cho một cơn điên thật - 29.01.2024
- giáng sinh này, giáng sinh xưa - 25.12.2023
- di vật - 14.11.2023
- nét vẽ vô hình của thằng bé mồ côi - 16.10.2023
- lời nguyền ở thế giới bên kia (phần 8) - 09.10.2023
- lời nguyền ở thế giới bên kia (phần 7) - 03.10.2023
- lời nguyền ở thế giới bên kia (phần 6) - 27.09.2023
- lời nguyền ở thế giới bên kia (phần 5) - 20.09.2023
- lời nguyền ở thế giới bên kia (phần 4) - 13.09.2023
- lời nguyền ở thế giới bên kia (phần 3) - 06.09.2023
- lời nguyền ở thế giới bên kia (phần 2) - 30.08.2023
- lời nguyền ở thế giới bên kia (phần 1) - 23.08.2023
- ở một nơi có rất nhiều barbie - 15.08.2023
- gọi về chốn xưa - 13.06.2023
- trầm hương phố lạ - 17.05.2023
- qua vùng biển khác - 25.04.2023
- lửng lơ giữa dòng - 21.03.2023
- Có đi cả đời... - 14.03.2023
- Những Thiên Thần Còn Sót Lại Ở Trần Gian - 02.02.2023
- gói quà không bao giờ mở ra - 23.12.2022
- Người Đàn Bà Phía Sau Những Chấn Song - 03.10.2022
- Viên Gạch Vỡ Ở Bức Tường Bá Linh - 09.09.2022
- Khi Loài Chim Thôi Hót - 27.06.2022
- Khung Đời Treo Lệch - 08.06.2022
- “Cho Tôi Một Tô Chữ Xào Dòn!” - 10.05.2022
- Sinh Thiết - 24.02.2022
- Thư Cho Bà Nội Ở Thiên Đàng - 18.01.2022
- Con Trai Bác Thợ Mộc - 22.12.2021
- Tháo Rời Khung Dĩ Vãng - 10.11.2021
- Hoàng Chính: Bây giờ người ta không nói (mà ói), không viết (mà giết) tiếng Việt! - 02.11.2021
- Ông Tướng Đầu Hói - 22.09.2021
- chạy về phía bình yên - 24.08.2021
- một đoạn trong thánh kinh - 02.08.2021
- Có Một Thứ Ông Trời Không Cho Hắn - 06.07.2021
- Thiên Đường Cũng Tan Theo - 19.04.2021
- Em Bé Lên Mười Trong Trại Tập Trung - 22.03.2021
- Huyệt Đào Trên Mộ - 15.03.2021
- Chờ Xe Rác Đi Qua - 01.02.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 25 (kỳ cuối) - 20.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 24 - 19.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 23 - 18.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 22 - 15.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 21 - 14.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 20 - 13.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 19 - 12.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 18 - 11.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 17 - 08.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 16 - 07.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 15 - 06.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 14 - 05.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 13 - 04.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 12 - 01.01.2021
- thư tình viết muộn | kỳ 11 - 31.12.2020
- thư tình viết muộn | kỳ 10 - 30.12.2020
- thư tình viết muộn | kỳ 9 - 29.12.2020
- thư tình viết muộn | kỳ 8 - 28.12.2020
- thư tình viết muộn | kỳ 7 - 25.12.2020
- thư tình viết muộn | kỳ 6 - 24.12.2020
- thư tình viết muộn | kỳ 5 - 23.12.2020
- thư tình viết muộn | kỳ 4 - 22.12.2020
- thư tình viết muộn | kỳ 3 - 21.12.2020
- Thư Tình Viết Muộn | Kỳ 2 - 18.12.2020
- Thư Tình Viết Muộn | Kỳ 1 - 17.12.2020
- Thằng Mọi Đen Không Là Con Của Chúa! - 01.12.2020
- Độ Đường Vừa Lỡ - 15.09.2020
- Cái Radio Của Bố Tôi - 06.05.2020
- Lệch cán cân đời - 20.03.2020
- Mùa Giáng Sinh Xưa Tôi Đã Hứa - 24.12.2019
- “Hòa bình rồi sao Ngoại chết chi dzậy!” - 30.04.2019
- Tiểu Hổ Gian Truân - 07.02.2019
- Có một phạm nhân ở giữa chúng ta - 31.12.2018
- Nỗi Khát Khao Trong Lòng Tên Thảo Khấu - 16.10.2018
- Cái vẫy tay thường thấy ở sân ga - 10.09.2018
- Ruồi - 19.09.2017
- Trôi theo cơn lũ - 21.11.2016
- Thư Tình Viết Muộn - truyện dài Hoàng Chính - 06.09.2012
- nàng tiên cá - 17.02.2012
- tấm hình chưa chụp - 03.01.2012
- người đàn bà ở đường Dupont - 16.11.2011