- Tạp Chí Da Màu – Văn chương không biên giới - https://damau.org -

mấy sông cũng lội… (kỳ 4)

Feature photo for DM


CHƯƠNG 11

Vậy là Thu Trang lấy chồng. Dễ dàng, đơn giản như người ta mua một món đồ rẻ tiền ngoài căng-tin. Thu Trang lấy chồng âm thầm, lặng lẽ. Chỉ mình Thu Trang với Cao ủy và cô thông dịch biết chuyện cưới hỏi của Thu Trang. Má Năm, dượng Ba cũng như những người ở D26, phòng 2 không hề hay biết. Cả Vĩnh cũng không hay. Mà làm sao có thể cho Vĩnh hay được. Chàng là kẻ bị bỏ lại trên sân ga tình cảm. Chuyến tàu đã khởi hành. Vĩnh thiếu một tấm vé tàu. Vĩnh bị bỏ lại là chuyện tự nhiên. Vĩnh vẫn ngây ngô ở sân ga, chờ đợi một hẹn hò không có thật. Không ai biết Thu Trang sắp có chồng.

          Chính Thu Trang cũng không hề biết mình sắp lấy chồng, cho đến khi có loa gọi cô lên văn phòng cao ủy. Ba tuần lễ lo âu, ba tuần lễ khắc khoải đợi chờ. Ba tuần lễ kể từ khi Thu Trang trao tấm hình cho bà Cao ủy Xã-hội. Con bé Thu Trang xanh xao đói khó còn ở đây, bên trong vòng rào kẽm gai dày, chắc; như hàng trăm hàng ngàn những con bé Thu Trang khác bên trong những vòng rào kẽm gai, bên trong những bờ tường cao vời vợi ở Thái Lan, Hồng Kông, Nam Dương, Mã Lai, Phi Luật Tân, Tân Gia Ba, Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản. Những con bé Thu Trang tù nhân ốm o gầy mòn, trong mơ ước không có gì lớn lao hơn hai chữ định cư. Con bé Thu Trang bằng xương bằng thịt còn ở lại trên miệng núi lửa vùng đất cao, ngoại ô Kuala Lumpur. Con bé Thu Trang nghèo hèn trong bọc hành lý chỉ có hai chiếc áo, hai cái quần bốn mùa thay đổi. Con bé Thu Trang tÿ nạn vẫn còn cư trú bất hợp pháp trên đất Mã Lai, trong khi con bé Thu Trang óng ả, gọi mời, trơ trụi đã đi hết một nửa vòng trái đất. Con bé Thu Trang có đôi mắt mở lớn hớt hơ hớt hãi, có hai trái ngực căng căng, hồng hồng đo đỏ, có cặp chân dài một chống một quỳ, kín hở hoang mang. Con bé Thu Trang ấy bây giờ đang ở đâu đó tận Bắc Mỹ. Con bé Thu Trang ấy bây giờ đang ở trong túi áo ngực, trên bàn làm việc hay trong khung kính treo trên tường phòng ngủ một người đàn ông Việt Nam giàu lòng nhân ái ở tận đất nước Canada xứ lạnh tình nồng.

           Thu Trang ngồi đờ như cái xác ướp khô, trầm ngâm trong phòng đọc sách của trại tỵ nạn. Sách báo bây giờ bị tịch thu, bị hạn chế đến mức tối đa. Những sách báo tiếng Việt biến dần đi, chỉ còn lại sách vở, báo chí tiếng Anh và tiếng Mã Lai.

           Thu Trang lật vẩn vơ vài trang giấy cũ của một tờ báo Mã Lai. Chữ nghĩa nhảy múa chập chờn trước mắt cô. Chữ Anh, chữ Tàu, chữ Ả Rập, chữ Mã Lai đan díu vào nhau rối mù. Thu Trang nhìn những bức hình phụ nữ Tàu, phụ nữ Mã Lai, phụ nữ Ấn Độ trên những trang quảng cáo đồ trang sức, quần áo, đồ dùng trong bếp, băng vệ sinh… Xứ sở tự do có nhiều điều kỳ cục, Thu Trang thầm nghĩ. Ai đời băng vệ sinh phụ nữ mà cũng đăng quảng cáo hình màu trên báo. Cô nhìn kỹ bức hình người thiếu nữ trong khung quảng cáo băng vệ sinh. Người đẹp mà trơ trẽn thấy mồ tổ. Cô gái có nụ cười tươi như bông hồng nở hết cỡ. Đôi môi cô nàng tô son đỏ thắm. Không biết quảng cáo thế này có tiền không mà cô gái chịu cho người ta chụp hình đang cầm miếng băng vệ sinh trong tay một cách trang trọng. Thu Trang nghĩ chắc phải có tiền, người thiếu nữ mới chịu cho chụp tấm hình ấy đăng báo. Bao nhiêu là người xem. Xấu hổ chết người. Gặp trường hợp cô chắc cô sẽ không bao giờ chịu cho chụp hình đăng báo như thế. Thu Trang nghĩ ngợi lẩn thẩn mãi trước tấm hình quảng cáo băng vệ sinh. Người đâu mà trơ trẽn. Cô sực nhớ tới bức hình cô chụp cách đây ba tuần. Ờ thì mình chụp hình để bổ túc hồ sơ bảo lãnh của người thân ở Canada. Bức hình chụp có lý do chính đáng, chứ ai lại như con bé người Hoa này đi cầm tấm băng vệ sinh chụp hình mà đăng lên báo cho cả nước xem thế này. Vô duyên! Câu nói từ trong đầu bật ra ngoài cửa miệng. Thu Trang hoảng hồn, lấm lét nhìn quanh. Người đàn ông ngồi cách một chiếc ghế phía đối diện cô, nhìn lên, ngơ ngác. Thu Trang bối rối cúi đầu nhìn xuống trang báo, tay lật sang trang khác một cách vu vơ. Làm gì mà cuống quýt lên thế hở, Thu Trang thầm trách mình. Mấy bữa nữa Thu Trang sẽ là gái có chồng. Lớn rồi, phải dạn dĩ lên. Cũng những câu nhắc nhở, dạy dỗ của mẹ thuở trước. Đừng rụt rè quá như vậy chứ. Mẹ vẫn bảo khi ra đời nếu mình rụt rè yếu đuối thì sẽ luôn bị người đời ăn hiếp. Phải cứng rắn với mình, với đời bằng không sẽ thua thiệt đủ điều. Mấy ngày nữa thôi, Thu Trang sẽ có chồng. Mà cũng đâu đến mấy ngày. Hai hôm nữa là cùng. Hôm nay thứ Bảy. Sáng thứ Hai mình sẽ đi với người đàn ông ấy ra Kuala Lumpur làm thủ tục giấy tờ. Mình sẽ đứng trước mặt viên chức hành chánh của Mã Lai, thề hứa sẽ thương yêu người đàn ông lạ mặt ấy đến khi đầu bạc răng long. Và người ấy cũng sẽ đeo chiếc nhẫn cưới vàng mười tám (mười tám hay hai mươi bốn nhỉ, hay vàng tây? chẳng biết bên Canada người ta có dùng loại vàng giống bên Việt Nam mình không,) vào ngón tay áp út của mình. Người ấy sẽ thề hứa yêu thương mình cho đến cuối đời. Có chồng. Có chồng. Thu Trang muốn hét lên vang động cả phòng đọc sách, muốn gào lên trên máy phát thanh của ban thông tin, muốn rống lên từ trên sườn đồi cao ngoại ô Kuala Lumpur để tiếng cô luồn vào muôn lớp gió trùng trùng gửi đến cả thế gian này một thông điệp không buồn không vui. Thu Trang sắp có chồng. Thu Trang sẽ làm đám cưới hai hôm nữa. Thu Trang sẽ đứng bên người sẽ sống với cô suốt phần đời còn lại, ở bên ngoài vòng rào kẽm gai trại tỵ nạn, ở trên mảnh đất tự do. Rồi Thu Trang sẽ có con với người ấy. Những đứa con sẽ có đôi-mắt-đẹp-Huyền-Trân-Công-chúa của cô, sẽ có một tấm lòng bao dung cao cả của ba chúng nó. Huyền Trân Công Chúa. Ai nói với Thu Trang về Huyền Trân Công Chúa nhỉ? Vĩnh. Phải rồi. Chính Vĩnh đã nói với Thu Trang về Huyền Trân Công Chúa. Thu Trang sắp lấy chồng, Vĩnh ơi. Thu Trang lấy chồng nhưng sao Thu Trang cứ nhớ, cứ thương Vĩnh hoài thế này. Ba tuần lễ nay không gặp Vĩnh. Kể từ hôm bỏ Vĩnh lại với đám biểu tình chống cưỡng bức hồi hương. Thu Trang thử trốn Vĩnh, xem xét lòng mình. Cô không đi nhà thờ mỗi sáng Chúa nhật, không lại phòng đọc sách nơi Vĩnh thường lai vãng, không lảng vảng ở khu nhà Vĩnh ở. Thu Trang trốn lánh người tình. Nhưng Vĩnh ở khắp nơi. Vĩnh bước vào được cả trong những giấc mơ của Thu Trang. Vĩnh cười cười, nói nói. Vĩnh diễu cợt, khôi hài chọc cười Thu Trang. Vĩnh vày vò, dày xéo trái tim Thu Trang như người ta vắt nước một tấm khăn ướt cho khô, trước khi phơi lên sợi dây thép căng ngang hai đầu cọc gỗ. Trốn lánh người yêu nhưng không lúc nào cô không tự hỏi giờ này Vĩnh đang làm gì; chắc Vĩnh cũng nhớ cô ghê gớm. Nhưng tại sao Vĩnh lại không đến tìm Thu Trang ở khu D26. Vĩnh có đoán biết là Thu Trang sắp lấy chồng không. Phải làm sao bây giờ. Hở Trời!

           “Cô xé rách cuốn báo của người ta rồi!”

           Tiếng nói của một người xa lạ, ngồi cùng băng ghế dài với cô. Một người đàn bà không quen biết. Thu Trang vuốt vội vàng trang báo bị vò nhàu trong cơn loạn tưởng.

           “Ô, xin lỗi. Xin lỗi…”

           Cô xếp vội cuốn báo lại, để ngay ngắn trước mặt, đứng dậy, tất tả bước ra ngoài. Chắc người đàn bà nhìn theo cô vì Thu Trang thấy vương vướng ở lưng áo. Nhằm nhò gì. Đầu óc đang muốn điên lên đây. Bây giờ mà có ai lằng nhằng, Thu Trang dám nhào vô đánh lộn ngay chứ chẳng phải chơi.

           Cô đi như chạy về phía nhà thờ Công giáo. Chúa ở trong đó đó. Chạy lại đó van xin chút bình yên. Khắp trong cõi sống này, chỉ còn nơi đó là có chút bình yên. Nắng ném chiếc bóng ngắn ngủn của cô xuống nền đất lồi lõm. Chiếc bóng lướt đi vùn vụt trên đá sỏi, trên những nhúm cỏ hoang héo quay héo quắt. Cô bước ào qua khung cửa giáo đường. Tiếng dép cô loẹt xoẹt trên nền xi măng khô cứng. Ánh sáng khuyếch tán bên trong giáo đường mờ ảo. Thu Trang đứng nhắm mắt vài giây cho quen với cái thứ ánh sáng loãng ấy. Lúc mở mắt ra, cô thấy Vĩnh ở đó, phía trước mắt cô. Vĩnh quỳ trên bục ghế gỗ. Đầu cúi thấp trên hai cánh tay khoanh tròn trên chiếc bệ của ghế quỳ. Vĩnh đang thì thầm gì đó với Chúa. Lòng Thu Trang nhói lên. Cô cảm thấy chóng mặt. Những chiếc ghế gỗ trong nhà thờ quay quay chung quanh. Cây thánh giá đu đưa như vướng trên một cành cây không màu sắc. Cô đưa hai tay ôm lấy mặt. Hai bàn tay lạnh như ướp đá. Lòng cô xốn xang. Vậy là hết. Không còn một nơi nào bình yên trên mặt đất khốn khổ này nữa.


CHƯƠNG 12

Người đàn ông tên Phú. Lê văn Phú. Cái tên đơn giản như muôn ngàn tên gọi trên cõi đời. Cái tên nếu nằm trong danh sách dân tỵ nạn, chắc sẽ lọt thỏm vào vực thẳm đen ngòm của khối người lúc nhúc, tranh dành nhau chút khí trời thoáng mát bên ngoài khung kẽm gai. Lê văn Phú. Cái tên đứng ngoài mọi danh sách; cái tên không chịu sự chi phối của Cao ủy, của giám thị trại, của ban an ninh trật tự, của ban thư tín, của nhà thờ Tin lành, của nhà thờ Công giáo, của chùa Phật giáo… Cái tên cứu rỗi.

          “Chồng sắp cưới của cô tên Lê văn Phú.”

          “Dạ…”

          Thu Trang mân mê hai vạt áo ngắn ngủn, hụt hẫng.

          “Cô sẽ làm thủ tục giấy tờ.”

          “Dạ…”

          “Sao lấy chồng mà cô buồn thiu vậy?”

          “Dạ.. có buồn gì đâu.”

          Những ngón tay Thu Trang thôi mân mê vạt áo.

          “Nếu cô không thích…” Giọng nói của cô thông dịch vẫn ngậm đầy chất đe dọa.

Thu Trang ngắt lời, “Dạ, thích chứ.”

           “Cô im nghe tôi nói đã.” Cô thông dịch trợn tròn hai mắt. Hai mắt có hai vệt lông mày kẻ bằng bút chì đặm như hai vệt lá trúc mỏng. “Cao ủy không muốn ép buộc ai. Đây là đất tự do.”

           “Vâng, em biết.”

           “Cái trò khóc lóc lúc lấy chồng nó xưa lắm rồi.”

           “Dạ…”

           “Cô nào, bà nào cũng tức ta tức tưởi, nhưng về tới nhà chồng thì bám dính lấy nó như sam…” Cô thông dịch ngừng nói với Thu Trang và xoay qua truyện trò với người Cao ủy. Thu Trang mím chặt môi, cố nén một tiếng thở dài. Cô thông dịch nói cũng phải chứ. Người con gái nào cũng khóc lóc trong đám cưới của mình. Chuyện đó xưa lắm rồi. Ngày xưa người ta không được chọn lựa nên người ta buồn; bây giờ Thu Trang được toàn quyền lựa chọn. Cô chỉ cần nói “không” một tiếng là xong. Lê văn Phú nào có thể làm khó dễ cô được. Anh ấy chọn mình thật đấy nhưng mình cũng chọn anh ấy nữa chứ bộ. Mình cứ thử nói “không” xem, anh ấy làm sao lấy mình được. Mình có phúc hơn mẹ, hơn bà ngoại, bà nội, bà cố, bà dì… hơn bất cứ người đàn bà Việt Nam nào thời trước.

           “Cô nhớ tên chồng cô chưa?” Cô thông dịch chợt hỏi.

           “Dạ, nhớ chứ.”

           Người Cao ủy nói gì đó, và cô thông dịch mỉm cười, rồi quay qua dịch lại cho Thu Trang, “Hai giờ chiều nay cô ra Kuala Lumpur làm thủ tục.”

           “Chiều nay?” Thu Trang xớn xác.

           “Ừ, hai giờ.”

           “Em phải làm gì ngoài đó.”

           “Làm gì mà cuống cuồng lên thế.”

           “Dạ… đâu có gì…”

           “Chiều nay, có người đến đón cô ra Kuala Lumpur làm giấy hôn thú.”

           Thu Trang cảm thấy như vừa nghe đọc xong bản án đời mình. Và cô sắp phải ra trước cán cân công lý để ký nhận án phạt. Phố xá thênh thang hiện ra trong óc cô. Những con đường xe chạy bên trái, khác lạ, kỳ cục. Những con đường rực rỡ vòm cong những đền thờ Hồi giáo, những mảnh trăng lưỡi liềm vắt ngang vòm trời xanh ngăn ngắt. Những cây dừa xanh đu đưa trong gió nhẹ hiu hiu. Kuala Lumpur ngoài đó là một thế giới khác. Nhớ, lần đầu thấy sự phồn vinh xứ người, nước mắt Thu Trang đã ứa ra dàn dụa. Những vòng kẽm gai sẽ nới lỏng dần và con chim lồng Thu Trang sẽ cất cánh tung bay vào cõi nắng ấm thênh thang lúc hai giờ chiều hôm nay, để thề hứa sẽ yêu và sống với một người đàn ông xa lạ cho đến cuối đời.

           “Cô nhớ sửa soạn và sẵn sàng trước hai giờ chiều.”

           “Dạ…”

           “Đừng trễ giờ.”

           “Dạ.”

           “Đến đây lúc một giờ rưỡi.”

           “Dạ. Em có phải mang theo gì không?”

           “Thẻ tỵ nạn. Thẻ sức khỏe…”

           “Dạ.”

           “Cô muốn hỏi gì nữa không?”

           “Dạ…” Thu Trang ngần ngừ. “Em muốn chờ tới chừng nào qua Canada rồi làm lễ cưới, không biết có được không.”

           Cô thông dịch lắc đầu ngao ngán, rồi mới quay qua dịch câu hỏi cho người Cao ủy. Bà Cao ủy mỉm cười, rồi lấy ngay lại vẻ nghiêm trang, trả lời Thu Trang bằng giọng chắc nịch. Từng chữ dịch lại của cô thông dịch cắn sâu vào thịt da Thu Trang.

           “Muốn theo chồng thì phải chịu lấy chồng trước đã. Tiền trao cháo múc. Cô hiểu không?”

           “Dạ, hiểu.”

           “Vậy thì ngưng hỏi vớ vẩn đi.”

           “Dạ.”

           “Về sửa soạn được rồi.”

           “Dạ…”

           Thu Trang lầm lũi bước ra, quên cả cảm ơn hai người đàn bà. Đầu óc cô quay cuồng. Biết là sớm muộn gì cũng tới ngày hôm nay, nhưng sao thời gian trôi mau quá. Thu Trang nửa muốn kết thúc cho xong những ngày tháng đày ải, nửa muốn kéo dài mãi giây phút gần gũi người con trai đã chia xẻ với cô những ngày tháng ngặt nghèo nhất của đời người.

           Cô thất thểu đi trong cái nắng hanh hoi của buổi trưa hong lửa. Bóng cô ngắn ngủi lùi lũi trôi đi trên sân đất đỏ; chiếc bóng tròn quay như trái dưa leo ngắn ngủn. Chiều nay Thu Trang có chồng. Chiều nay, chàng sẽ đến. Lê văn Phú, người đàn ông có trái tim của sông của biển sẽ đứng bên cạnh Thu Trang để chính thức nói cho cô nghe những lời thề non hẹn biển trên giấy tờ của văn phòng hộ tịch.

           Thu Trang dừng lại bên hàng rào trại, nhìn mông lung ra phía ngoài dốc đồi ngắt xanh cỏ dại. Con đường tráng nhựa rộng thênh thang bọc quanh chân đồi. Xe cộ dập dìu trên đó. Cửa kính xe phản chiếu ánh nắng loang loáng ném vào mắt nhìn của Thu Trang những chớp nhá như phát ra từ một ống kính của một nhiếp ảnh gia non tay nghề. Con đường ấy dẫn đến Kuala Lumpur. Chiều nay, cô sẽ đi trên con đường đó, ra Kuala Lumpur, làm giấy tờ hôn thú với Vĩnh. Tim Thu Trang ngừng vội lại mất vài giây. Trời ơi sao không phải là Vĩnh nhỉ. Vĩnh đã từng sống chết với Thu Trang trên chiếc ghe mắc nạn. Vĩnh đã từng nhịn khát, để dành ngụm nước nhỏ trong đáy chai nước nhựa móp méo, thấm từng giọt lên đầu lưỡi con bé Thu Trang mê sảng trên biển cả. Cái nắng ngày đó cũng tàn độc như cái nắng đang cào xé trầy trụa làn da khô mỏng cánh tay rám nắng của Thu Trang. Hôm đó Vĩnh cũng gục xuống bên cạnh một Thu Trang rách nát, rã rượi và mềm nhũn như con cá ươn ướt đẫm mồ hôi trên sàn chiếc ghe nhỏ giữa thế giới âm u của những thân người hấp hối. Biển lúc đó lặng thinh như chực chờ, lắng nghe từng tiếng thở hắt ra của đám người liều lĩnh. Vĩnh ấy đã bảo bọc che chở Thu Trang trong những phút giây cùng khốn, bây giờ Thu Trang lòng nào nỡ bỏ người nghĩa người ân. Nước mắt Thu Trang trào ra, lăn dài xuống má. Tại anh cả, Vĩnh à! lỗi tại anh đã không được công nhận quyền tỵ nạn. Lỗi ở anh mọi bề. Anh bị trả về Việt Nam, em làm sao chờ được. Nghe tiếng chân người bước lại gần và tiếng nói chuyện lao xao, cô vội đưa tay gạt nước mắt. Không sao Vĩnh ơi. Đừng lo. Qua tới Canada rồi em sẽ làm thủ tục bảo lãnh anh ngay. Bữa nay em đi Kuala Lumpur làm giấy tờ cho đúng thủ tục vậy mà. Cũng như xin giấy đi đường bên Việt Nam mình vậy. Em vẫn nhớ tới anh. Nhớ ngày, nhớ đêm. Qua tới Canada rồi, em sẽ làm đơn bảo lãnh anh ngay. Em sẽ kể chuyện anh cứu em trên biển cả. Xứ Canada giàu có, người Canada rộng lòng nhân đạo, dám đứng ra bảo trợ cho anh qua không biết chừng. Như vậy hồ sơ của anh sẽ được xét mau lắm, và mình sẽ gặp lại nhau một cách dễ dàng. Em sẽ lựa lời nói phải quấy với anh Phú, (người chồng trên giấy tờ của em ấy mà!) anh ấy rộng lượng lắm. Một người đã dám chịu tốn kém để bảo lãnh em, thì chắc cũng đủ lòng tốt để hiểu và thông cảm cho hai đứa mình. Thấy không. Đơn giản vậy mà không nghĩ ra. Thu Trang mỉm cười một mình.

           Những cặp tình nhân đứng quanh quất bên cô. Họ níu lấy nhau bằng một tay, tay kia bám vào hàng rào kẽm gai, và cùng đăm đăm nhìn ra ngoài dốc đồi ngắt xanh cỏ dại. Tất cả hẳn cùng đang mơ tưởng một tương lai rạng rỡ.

           Thu Trang mỉm cười với Vĩnh trong trí tưởng. Thấy không Vĩnh, đơn giản vậy mà cả em lẫn anh cùng nghĩ không ra.


CHƯƠNG 13

Một giờ rưỡi, tiếng loa rộn ràng gọi Thu Trang lên văn phòng trại. “Không chấp nhận mọi chậm trễ hay vắng mặt.” Vẫn câu nói quen thuộc ở cuối mỗi lệnh gọi. Thu Trang đã lảng vảng sẵn ở khoảng sân phía trước văn phòng Cao ủy như một hồn ma chưa siêu thoát. Cô không muốn ở trong phòng, để nghe những người chung phòng réo gọi, kèm theo những thắc mắc khó giải đáp. Bản thông báo vừa dứt, cô đã lấp ló trước cửa văn phòng làm việc của Cao ủy. Người thanh niên trong ban trật tự chặn cô lại như thường lệ.

           “Đi đâu vậy?”

           “Cao ủy gọi tôi.”

           “À, phải cô Thu Trang không?”

           “Dạ phải.”

           Người thanh niên liếc vào phía trong trước khi ra dấu cho Thu Trang bước vào. Cô thông dịch cười với Thu Trang trước. Lâu lắm Thu Trang mới thấy cô ta cười một cách tự nhiên. Thu Trang gật đầu và lí nhí một câu chào bằng tiếng Việt. Bà Cao ủy đang chăm chú dán mắt vào tập hồ sơ dầy cộm.     

           Thu Trang rón rén ngồi xuống chiếc ghế dựa bằng sắt có miếng nệm bằng da mỏng. Chiếc nệm ghế mát rượi.

           Vài giây sau, bà Cao ủy ngửng đầu lên, nhìn Thu Trang và buông ra một lời khen đon đả.

           Cô thông dịch gật gù, “Bà ấy khen cô mặc chiếc áo đầm đẹp như hoa hậu.”

           Nỗi chua chát tạt a-xít vào da mặt Thu Trang rát bỏng. Cô ngập ngừng, “Dạ, áo của ban xã-hội cấp.”

           “Năm phút nữa cô sẽ ra Kuala Lumpur làm thủ tục.”

           “Chị có đi với em không?” Thu Trang băn khoăn hỏi.

           “Sao không! Thiếu tôi,làm sao cô điền giấy tờ.”

           “Dạ, cám ơn chị.”

           Cô thông dịch viên lại cười, “Không có chi, mang giấy tờ đầy đủ chưa?”

           “Dạ rồi.”

           “Không có lỡ bị đi lạc là tàn đời.”

           “Dạ.”

           Bà Cao ủy loay hoay sắp xếp giấy tờ một lát, xong ngửng lên nhìn Thu Trang, tươi cười, “Let’s go!

           “Mình đi,” cô thông dịch viên nhắc lại.

           Thu Trang đẩy ghế đứng dậy, lầm lũi bước theo hai người đàn bà ra ngoài sân trại. Gió vuốt những sợi tóc xõa xuống trán của Thu Trang. Lá cờ Mã Lai phần phật bay trên cột cờ của sân trại. Ba người đi ra khỏi khung cổng hẹp. Người lính gác cổng xét thẻ tÿ nạn của Thu Trang. Anh ta nhìn chăm chú cái hình, và ngước lên so lại với nét mặt của Thu Trang. Cái nhìn của người lính đi lạc xuống khoảng ngực đầy của cô gái, và dừng lại ở đó vài giây. Thu Trang hồi hộp như lúc sắp bước xuống ghe vượt biên. Sau cùng người lính gật đầu, ra dấu cho Thu Trang đi ra ngoài. Hai người đàn bà đợi cô bên cạnh chiếc xe của hội Trăng lưỡi liềm đỏ Mã Lai, loại xe nhỏ như xe du lịch dùng chở Cao ủy vào trại làm việc. Lần đầu tiên trong đời, Thu Trang được ngồi trong một chiếc xe hơi mới. Tiếng động cơ rù rù như tiếng gió, nệm ghế êm ái như lót bông gòn. Màu sơn trắng gợi lên cảm giác của sự tinh khiết. Và đường phố vùn vụt trôi lại phía sau qua khung cửa hình chữ nhật. Người tài xế Mã Lai và bà Cao ủy ngồi phía trước, Thu Trang với cô thông dịch ngồi băng sau. Đường tráng nhựa êm ái. Xe chạy như lướt đi trên chiếc nệm không khí mỏng.

           Họ đến văn phòng làm giấy tờ hộ tịch vào lúc hai giờ thiếu năm phút. Thu Trang co ro, o ép phía sau hai người đàn bà như chiếc bóng yếu đuối. Ba người bước lên những bậc thềm xi măng được lau chùi sạch sẽ. Thu Trang lo nỗi lo âu của một người sắp bước lên chiếc cầu duyên số. Chưa bao giờ cái câu trong nhờ đục chịu lại thấm thía lòng cô đến như vậy.

           Văn phòng hộ tịch (Thu Trang đoán vậy) có lối kiến trúc của một khách sạn hạng sang, với lối vào rộng thênh thang mở ra những hành lang dài hun hút. Thu Trang nghe tiếng chân mình kéo loẹt xoẹt trên nền xi măng sạch bóng. Những người Mã Lai nhìn cô soi mói. Một người cảnh sát Mã có hai con mắt đầy tròng trắng, thong thả đếm bước trên hành lang. Có lẽ anh ta đang thi hành nhiệm vụ. Một người gác dan đen thui loay hoay sổ sách bên chiếc bàn trực bên cạnh khung cửa một phòng làm việc. Người Cao ủy dừng lại hỏi thăm gì đó, và người gác dan chỉ ngón tay chuối mắn về phía một văn phòng ở khoảng cuối hành lang. Ba người rảo bước về phía đó. Tim Thu Trang đập muốn rách tan lồng ngực. Chân tay cô rụng rời. Trăm ngàn con kiến bò trên vành tai, trên mặt, trên những ngón tay ứ máu, trên hai mảnh ngực tê tê giật giật. Tòa án đây rồi. Người của trăm năm cũng ở đây. Mắt mũi Thu Trang bầm tím những lo âu. Họ bước vào phòng chờ đợi. Hai ba cặp thanh niên nam nữ đang ở đó. Thu Trang xớn xác nhìn quanh. Tất cả đều có đôi, có cặp. Không có ai lẻ loi ở trong phòng chờ đợi. Phú không có ở đây. Phú đến muộn hay Phú không bao giờ đến. Ba người ngơ ngác nhìn nhau và lủi thủi ngồi xuống ba chiếc ghế trống. Chờ đợi. Chân dung hoàng đế Mã Lai ngạo nghễ nhìn ba người đàn bà. Những chữ Mã viết bằng mẫu tự La tinh rải đều hai bên tường vôi trắng. Lá cờ Mã Lai với những ngôi sao, và những sọc dài xanh đỏ rủ xuống phía trên đầu viên chức Mã đang phỏng vấn một cặp thanh niên nam nữ.

           Bà Cao ủy đưa tay lên xem giờ và lặng lẽ lắc đầu. Cô thông dịch nhấp nhổm trên ghế ngồi. Lại trễ thế này thì ai mà đợi được. Thật tình mấy cái người Việt Nam này! Cô thông dịch cằn nhằn làm Thu Trang lo lắng như thể mình là thủ phạm của sự chậm trễ, đợi chờ này. Phòng đợi rộng thênh thang. Mọi tiếng động được truyền đi, dội lại, gây ra một thứ vọng âm rền rĩ làm tăng vẻ nghiêm trọng của văn phòng hộ tịch.

           Nửa tiếng sau, vẫn chưa thấy một người Việt Nam nào xuất hiện. Hai cặp vợ chồng đến trước Thu Trang đã làm xong giấy tờ hộ tịch và đã ra về, chỉ còn một cặp nữa là đến phiên Thu Trang, mà vẫn chưa thấy tăm hơi Phú đâu cả. Lòng Thu Trang hâm hấp lửa than. Phú giờ này ở đâu. Tại sao không là Vĩnh nhỉ. Nếu là Vĩnh, chàng đâu có chậm trễ như thế này.

           Bà Cao ủy tiến lại phía bàn giấy hỏi gì đó và đem về một mẫu đơn cho cô thông dịch. Cô thông dịch ngồi xà xuống bên cạnh Thu Trang, bắt đầu điền giấy tờ. Đầu óc Thu Trang lấp lửng đâu đâu. Cô không thể tập trung để theo dõi những dòng chữ cứng và bay bướm của cô thông dịch. Hình ảnh Vĩnh và người chồng sắp cưới nhòa nhập vào nhau trong trí tưởng. Thu Trang nhấp nhổm như ngồi trên cục nước đá lạnh buốt. Thẻ tÿ nạn của cô đâu. Dạ đây. Họ và tên cha, tên mẹ. Địa chỉ hiện tại. Tên chồng cô là Lê Văn Phú phải không.

           “Dạ… phải…” Thu Trang trả lời gượng gạo. Chồng tôi đấy. Chỉ một lát nữa thôi, tôi sẽ là con gái có chồng. Gái có chồng như gông đóng cổ. Gái không chồng như phản gỗ long đanh. Ca dao tục ngữ bảo thế đấy. Tôi sắp có chồng. Tôi sắp như ván đóng thuyền như người ta thường ví von. Một khi ván đã đóng thuyền rồi thì anh còn làm gì được nữa hở Vĩnh?

           Tờ giấy điền xong hết rồi mà chồng tôi chưa đến. Phải như đó là Vĩnh thì tôi đâu có phải ngồi chờ dài cổ ra mà nghe người ta cằn nhằn, trách móc. Vĩnh bao giờ cũng đúng giờ. Vĩnh thường bảo phải tập thích ứng với đời sống mới cho quen. Anh đã bị mất quyền tỵ nạn, tập làm chi hở Vĩnh. Sớm muộn gì rồi người ta cũng trả anh về Việt Nam.

           Chợt người Cao ủy đứng bật dậy, đi về phía bàn tiếp khách, nói gì đó và hí hửng trở về chỗ, chìa tờ đơn cho Thu Trang và cô thông dịch ký. Sau cùng tới phiên bà ta ký vào một ô trống và ngửng lên nói gì đó với Thu Trang.

           Cô thông dịch chuyển qua tiếng Việt cho Thu Trang hay rằng họ phải đi, vì có hẹn. Họ đã ký vào ô dành cho người làm chứng. Thu Trang cũng ký vào ô dành cho người vợ. Coi như đã xong một nửa thủ tục cưới hỏi. Thu Trang cứ ở đây chờ. Chồng Thu Trang rành tiếng Anh. Lát nữa anh ấy tới, sẽ ký vào ô dành cho người chồng. Thế nào anh ấy cũng tới. Chắc kẹt đường, trễ xe gì đó thôi. Làm giấy tờ hôn thú xong xuôi, Thu Trang được phép đi chơi Kuala Lumpur với chồng của Thu Trang hai mươi bốn tiếng. Vậy là nhân đạo lắm rồi. Ở các trại tÿ nạn khác không có cái chuyện cho đi ra ngoài lâu như vậy đâu. Chiều mai nói chồng Thu Trang mướn tắc-xi đưa về trại tỵ nạn. Cao ủy đã xin phép giám thị trại xong xuôi cả rồi. Cứ yên tâm. Chỉ cần đừng về trễ quá. Xong giấy tờ hôn thú, anh ấy sẽ bảo lãnh Thu Trang chính thức theo diện vợ chồng, ưu tiên một. Cứ yên tâm đi.

           Cô thông dịch kết luận bằng cái lắc đầu, “Người Việt mình vậy đó. Đã sống ở Canada biết bao lâu mà cũng vẫn cái tật giờ cao su…”

          Tự nhiên Thu Trang cảm thấy như bị xúc phạm. Ừ dù gì thì Phú cũng sắp là chồng của cô. Cô thông dịch nói vậy là quá đáng. Cô ấy cũng là người Việt Nam. Thu Trang muốn cãi nhưng nỗi lo âu lấn lướt chất bướng bỉnh trong đầu cô. Cô đã bao giờ ở ngoài Kuala Lumpur một mình như thế này đâu. Xứ lạ. Tất cả đều gợi cho cô sự hãi hùng, tất cả đều hù dọa, đe nẹt cô tận tình. Bà Cao ủy đặt tay lên vai cô, mỉm cười trấn an, “Have fun!” Đó là tất cả những gì Thu Trang nghe được. Thu Trang còn đang cố đoán xem bà Cao ủy muốn nói gì thì cô thông dịch đã dịch lại cho Thu Trang là cứ vui chơi thỏa thích. Chả mấy khi có dịp đi Kuala Lumpur như vậy. Mai mốt qua Canada, tay bồng tay bế, làm gì có dịp đi chơi nữa. Nghe. Bai-bai. Cô ta vẫy tay và quầy quả bước đi theo bà Cao ủy. Thu Trang muốn nhào tới níu lấy hai người đàn bà lại mà không dám.

           Nhìn bóng họ khuất sau khúc quanh hành lang, Thu Trang thực sự thấy mình hoang mang như đứa bé ham chơi và quên mất lối về. Cô đưa tay nắn túi áo. Những giấy tờ quan trọng vẫn còn trong đó. Tờ giấy kết hôn nằm trên mặt ghế trống bên cạnh. Cặp vợ chồng người Tàu ngồi ở phía đối diện nhìn cô xoi mói. Thu Trang bối rối nhìn xuống nền nhà xi măng trắng đục. Những hạt sạn li ti trộn với xi măng trải đều trên mặt phẳng. Thu Trang nhìn xuống chiếc áo đầm màu hồng cô đang mặc. Chiếc áo đầm rộng thùng thình, nhăn nhúm phủ xuống tới hai cổ chân. Cô nhúc nhích hai chân. Những nếp nhăn trên thớ vải nhúc nhích theo. Thu Trang cảm thấy như mình là một người nào khác không có thật. Cô tách ra khỏi con bé Thu Trang ngồi co rúm trên băng ghế chờ đợi vì sợ hãi. Con bé Thu Trang nhìn chăm chú xuống nền xi măng như cố tìm kiếm một mất mát không hình thù, vóc dáng. Con bé Thu Trang bị người ta “đem con bỏ chợ” ngơ ngơ ngác ngác giữa chợ đời xứ lạ. Con bé Thu Trang không dám ngước nhìn những người dân bản xứ ngồi đối diện trong góc chờ đợi của văn phòng hộ tịch. Con bé Thu Trang lạc lõng như con cừu lạc giữa khu rừng rậm đầy dẫy cọp beo. Con bé Thu Trang mà trên tấm giấy tùy thân đề rõ là vô tổ quốc. Vô tổ quốc, chứ còn gì nữa. Chính thầy giáo dạy Anh văn trong trại đã dịch cho Thu Trang nghe chữ Stateless ghi trong giấy tờ của Thu Trang là vô tổ quốc mà. Thu Trang ngồi ngây người ra như tượng đá. Tới phiên Thu Trang, những người trong phòng đợi lao xao gọi, và chỉ trỏ về phía bàn làm việc của nhân viên. Cô cuống cuồng lắc đầu, tay chân chỉ trỏ vung vít như đứa bé ăn cắp bị bắt quả tang. “No, me. No… me.”

           Thu Trang sắp bật khóc thì người đàn ông ấy bỗng từ đâu đó lù lù đi lại. Người đàn ông Việt Nam, trời ạ. Thu Trang nín thở, nhìn chàng chăm chăm. Người đàn ông mặc áo vét, sang trọng như những Cao ủy giáo dục, Y-tế… thường đến trại làm việc. Bước đi của chàng thanh thoát như dáng đi của một người luật sư nước ngoài đến phỏng vấn tỵ nạn. Tay xách một chiếc cặp táp bằng da màu nâu, chàng nhìn lướt qua một lượt những người ngồi trong phòng đợi, và đôi mắt ấy – đôi mắt sáng như hai ngọn đèn đêm thường soi sáng vòng rào trại tỵ nạn – dừng lại ở Thu Trang, làm tay chân cô rụng rời.

           “Phải Thu Trang không?”

           “Dạ…”

Thu Trang muốn hét lên vì mừng rỡ. Cha mẹ ơi, chàng cũng đẹp trai có hạng chứ bộ. Đẹp trai hơn Vĩnh nhiều. Trời ơi ráng đừng nhớ tới Vĩnh chứ. Chàng đây rồi. Chồng… mình đây rồi. Chàng tên gì nhỉ. Sao lại có thể quên tên chàng như thế này được chứ. Người đàn ông cười căng hai má. (Chả như Vĩnh, hai má lúc nào cũng hóp lại như ông cụ.) Và vừng trán chàng cũng căng theo môi cười. Hàm răng chàng trắng bóng và đều đặn. Chắc chàng phải là dân đi du học từ trước. Chàng sang trọng, quý phái như Tây, như Mỹ. Dân Canada có khác. Thu Trang luống cuống lom khom nửa ngồi nửa đứng. Chân tay cô chả còn tuân theo lệnh lạc gì của đầu óc nữa. Chàng tiến lại sát bên Thu Trang, đặt chiếc cặp táp xuống nền nhà, đỡ lấy hai vai cô, nâng khẽ cho cô đứng dậy. Và – cha mẹ ơi – chàng ôm cứng lấy Thu Trang, dịu dàng đặt lên trán cô một nụ hôn, mềm như viền bằng tơ, bằng lụa. Thu Trang biến ngay thành tượng đá vô tri. Nỗi bàng hoàng, xấu hổ râm ran trên da thịt. Lớp da dày bì lên như lớp da thuộc căng trên mặt trống những sân trường tiểu học ở quê nhà bọc cứng lấy cô. Cô khô héo quắt queo vì xấu hổ.

           “Anh đây… Phú… đây, Trang à.” Chàng hơi ngập ngừng lúc tự giới thiệu, nhưng sao cách gọi tên Trang của chàng giống Vĩnh thế không biết. Trang à, Trang ơi. Chả bao giờ trọn vẹn hai chữ “Thu Trang”. (Giờ này Vĩnh đang làm gì trong không khí oi bức của trại tỵ nạn vậy. Anh có đang viết thư thỉnh nguyện gửi thế giới tự do, biện hộ cho quyền có một nơi chốn nương thân của một con người nữa không?)

           Rồi Phú buông Thu Trang ra, ngồi ghé xuống bên cô, hai bàn tay ấp lấy bàn tay mềm nhũn của cô.

           “Chờ lâu không Trang, sao tay lạnh ngắt thế này? Anh đọc lộn tên đường, tắc-xi chở đi nhầm chỗ. Xin lỗi nghe, Trang.”

           “Không sao.” Thu Trang thều thào như con bệnh trong cơn suyễn.

           “Làm giấy tờ xong mình đi Kuala Lumpur chơi.”

           Phú vừa nói vừa bóp những ngón tay cứng như thép lên cổ tay Thu Trang. Chàng mạnh khỏe hơn Vĩnh nhiều quá. Cái sức mạnh thể chất ấy biểu lộ một nghị lực lớn lao. Chàng là người có thể trông cậy và nương nhờ được. Thu Trang thở ra dễ dàng hơn một chút. Chồng mình đây chứ ai! Ý nghĩ có tác dụng như liều thuốc, xịt vào cổ họng người đàn bà bị bệnh suyễn ở cùng dãy với Thu Trang trong trại, làm bệnh nhân thở được dễ dàng ngay. Lớp cảm xúc ngượng ngùng tê cứng thịt da cũng tan dần đi, như chất sáp nóng rũa mềm dưới ngọn lửa tin yêu. Cô ngước nhìn những người ngồi đối diện đã nhìn cô chăm chăm ban nãy, cô muốn trả thù một cách thầm lặng. Ừ, tôi đâu có lẻ loi, cô độc. Tôi cũng có cặp, có đôi như mấy người chứ bộ. Mấy người có tổ quốc, quê hương để nương nhờ, chở che, mấy người nhìn tôi xoi mói theo kiểu “chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”. Tôi cũng đâu có thua kém gì mấy người. Tôi cũng sắp có một quê hương để tin yêu, nương náu. Tôi cũng sắp có một người chồng để chiều chuộng, nâng niu. Chồng tôi là công dân Canada, sang hơn Mã Lai mấy người nhiều. Cô nhìn chăm chú từng mặt những người đối diện, nhưng chẳng còn ai để ý đến cô. Cô quay qua Phú.

           “Từ Canada qua đây lâu không?”

           “Bay mất cả ngày trời, chuyển máy bay hai lần.”

           “Xa nhỉ.”

           “Người ta bảo… yêu nhau… mấy núi cũng trèo, mấy sông cũng lội, mấy đèo cũng qua. Trang nhớ không?”

           Thu Trang cảm động muốn khóc.

           “Dạ, nhớ…”

           “Bên này nóng quá.”

           “Tại… anh chưa quen.”

           “Bên Canada mùa đông dài sáu tháng.”

           “Chắc lạnh lắm.”

           “Trừ hai chục độ.”

           Thu Trang không hình dung nổi trừ hai chục độ thì lạnh cỡ nào, nhưng cô sợ Phú cười nên không dám hỏi.

           “Chỗ anh ở nhiều tuyết không?”

           “Năm mười inches là thường.”

           Thu Trang lại ngớ ra, nhưng cô giấu ngay vẻ bối rối ấy. Chỉ còn mươi, mười lăm phút nữa, rán giấu kỹ những thua kém của mình nghe Trang. Mình chưa là vợ chính thức của chàng đâu. Chừng nào chàng đặt bút ký vào tờ giấy đang nằm trên cái bàn gỗ đen bóng ở đàng kia hẵng hay. Lúc này đừng làm chàng nản chí. Chàng nản chí là tiêu luôn hy vọng đi định cư.

           Có tiếng gọi lơ lớ tên chàng. Phú kéo Thu Trang đứng dậy. Người ta lập lại tên của hai người. Đúng rồi. Chàng cầm tay Thu Trang kéo đi về phía chiếc bàn làm việc của nhân viên hộ tịch. Tai Thu Trang ù đi vì xúc động, nhưng cô vẫn loáng thoáng nghe được tiếng Phú – chồng sắp cưới của cô – nói chuyện với nhân viên người Mã Lai. Trời ơi, tiếng Anh của chàng hay quá là hay. Vĩnh ơi, cứ yên tâm, mình vẫn còn là của nhau. Mai mốt qua tới Canada rồi, em sẽ nhờ hội nhà thờ bảo lãnh anh. Phải có một người đi trước mới mong kéo theo những người còn ở lại. Phải vậy không? Từ bao lâu nay, người Việt mình gia đình nào mà không có sự chia lìa?

           “Người ta hỏi Trang còn thật sự độc thân không kìa.” Tiếng Phú trầm ấm bên tai Thu Trang.

           “Dạ, còn…” Thu Trang trả lời không xuôi vì hình ảnh Vĩnh cứ vướng trong đầu cô. Cứ yên tâm đi Vĩnh à. Trang còn đây chứ có chết chóc gì đâu mà Vĩnh sợ.

           “Trang ăn trưa chưa?” Phú thì thào.

           Trang lặng lẽ lắc đầu. “Trang không đói.”

           “Lát nữa mình đi Kuala Lumpur chơi nghe?”

           Thu Trang bối rối nhìn xuống mặt bàn gỗ đen bóng phía trước mặt. Có nên đi không đây, hở Phú, hở Vĩnh, hở ba mẹ, hở má Năm? Trang có nên đi với Phú không hay là ráng chờ tới chừng nào qua Canada xong rồi hẵng hay. Chúa của Vĩnh, Phật của má Năm ở phương trời nào, làm ơn chỉ dùm cho con một lối đi không vướng nhiều gai góc và không làm nhiều người xót đau, khổ lụy.

           “Trang ký thêm vào chỗ này đi.”

           Giọng Phú ngọt ngào lúc chàng đặt tấm đơn hình chữ nhật xuống trước mặt Thu Trang. Thu Trang vừa ký xong, Phú đưa tấm giấy lại cho nhân viên hộ tịch. Người công chức nói gì đó với chàng. Chàng loay hoay giải thích và móc trong chiếc cặp táp bằng da ra một tờ giấy đánh máy, có đóng những con dấu lạ lùng. Người công chức chăm chú đọc tờ giấy và gật gù trao lại cho Phú. Thu Trang nghe tiếng chàng thở phào như vừa trút xong gánh nặng.

           Chàng xoay qua Thu Trang với một nụ cười đằm thắm, “Xong rồi.”

           “Vậy là?” Giọng Thu Trang run run.

           “… Là… Thu Trang đã có chồng.” Phú thở phào.

           “Ô!”

           Lời tuyên án của vị phán quan nghiêm khắc đã phát ra, vang động trong trí tưởng Thu Trang. Ngực cô thắt lại vì xúc động. Cô níu lấy cạnh bàn bằng mười ngón tay thon dài trắng muốt. Nỗi nhọc nhằn đeo dính lấy não cân cô như những con đỉa đói. Vĩnh bây giờ đang làm gì nhỉ? Chỉ là thủ tục giấy tờ. Có giấy hôn thú người ta mới cho bảo lãnh. Qua tới Canada rồi sẽ tính sau. Chắc chắn em sẽ nhờ hội nhà thờ bảo lãnh anh, Vĩnh à. Đừng giận Trang nghe. Nếu em không ký giấy này thì làm sao vào được Canada. Mà nếu không vào được Canada thì làm cách nào bảo lãnh anh. Thấy không Vĩnh. Em tính cũng đúng lắm chứ bộ.

           “Em tôi nghĩ ngợi gì mà thẫn thờ ra như vậy nhỉ?”

           Phú chợt hỏi làm Thu Trang giật bắn người. Cô lắp bắp, “Đâu có… Vi… à… Phú, có nghĩ gì đâu.”

           Thu Trang thấy Phú cười với cô và đỡ cô đứng dậy. Chàng bắt tay nhân viên hộ tịch Mã Lai. Thu Trang lí nhí thank you rồi quấn quýu những bước chân theo Phú bước ra ngoài phòng hộ tịch.

           “Tưởng không xong rồi chứ.” Phú buột miệng.

           “Sao vậy?”

           “À… không có gì quan trọng. Mình đi ăn nghe Trang.” Thu Trang có cảm tưởng Phú đang giấu diếm cô điều gì. Hay là anh ấy nghi ngờ mình với Vĩnh. Thật tình, tự nhiên cứ nhắc nhớ tới Vĩnh làm chi không biết.

           “Đi đường này, Trang. Bãi đậu Tắc-xi ở bên này.”

           Phú kéo Thu Trang đi, cuồn cuộn, sôi nổi như mây trôi, gió cuốn. Thu Trang bần thần quay cuồng với những ý nghĩ mặn chát trong đầu. Đám cưới trong nhà thờ, hai người bước lên trước bàn thờ, trước cộng đoàn con chiên trong xứ đạo, và thề hứa yêu nhau cho đến mãn đời, trọn kiếp. Đám cưới trước bàn thờ gia tiên. Hai người vái chào tổ tiên và cúi đầu xin nhận cha mẹ, anh chị em người trăm năm như cha mẹ, anh chị em mình. Đám cưới ấy chưa thực sự xảy ra. Thu Trang tự nhủ. Mình mới chỉ có chồng trên giấy tờ. Mà giấy tờ ấy viết bằng tiếng Anh, mình cũng chẳng hiểu rõ người ta nói gì, viết gì trong tờ giấy hôn thú đơn giản đó. Chỉ có Phú, nhân viên hộ tịch và mình biết là con bé Thu Trang này đã có chồng. Mà nhân viên hộ tịch thì chắc chắn là không thèm bận tâm đến chuyện đó. Chỉ còn Phú và mình. Mai mốt đây, Phú sẽ về lại Canada, chỉ còn một mình mình. Mình sẽ là nhân chứng duy nhất của một đám cưới bán mua, nhân đạo. Thu Trang đờ đẫn như con búp bê bằng sứ, chiều theo sức đẩy của cánh tay người chồng mới cưới và trong lòng chiếc xe tắc-xi mà Phú vừa gọi lại bên lề phố. Chàng nói gì với người tài xế, và chiếc xe lướt đi vào dòng xe cộ nườm nượp trên đường phố thênh thang.

           “Em tôi có vẻ mệt mỏi quá.” Phú cười nửa miệng với Thu Trang.      

           “Đâu có.” Thu Trang vội vàng chối bay chối biến. “Tại chưa bao giờ ra Kuala Lumpur nên lạ…”

           “Tối nay mình đi xem Kuala Lumpur by Night.”

           Thu Trang nhíu mày suy nghĩ.

           “Về đêm, thành phố nào cũng rực rỡ,” chàng tiếp.

           Thu Trang nhìn đăm đăm con đường thẳng tăm tắp trước mặt. “Sợ lạc đường thấy mồ.”

           Phú nắm lấy bàn tay cô, bóp nhè nhẹ. Nụ cười nở trọn trên môi chàng.

           “Tay Trang lạnh như nước đá!”

           Thu Trang cố nén tiếng thở dài xớn xác. Cô mím môi ngăn một câu thở than mà cô nghĩ là không đúng lúc.

           “Trang định nói gì?” Phú ân cần.

           “Đâu có…”

           Thu Trang muốn hỏi Phú rằng tính đưa em đi đâu đây? Đừng đem em ra Kuala Lumpur rồi bỏ thí như Cao ủy xã-hội và cô thông dịch đã làm. Phú rành tiếng Anh, còn em thì ngập ngà ngập ngọng. Nhưng mà tính đưa em đi đâu đây. Em muốn về lại trại Sungei Besi, với những căn nhà tiền chế ép người như cá hộp, với chỗ thờ phượng Tin lành Công giáo chung một ngôi giáo đường nhỏ bé, với chùa Từ bi ngạt ngào khói hương, má Năm, với dượng Ba vọng cổ, với khu D26, phòng 2, với Vĩnh. Kuala Lumpur làm em sợ lạnh ngắt chân tay, rụng rời gân cốt. Hãy khoan là chồng vợ, Phú ơi. Em còn đây chứ có biến đi ngay đâu. Và Vĩnh nữa, hãy cứ yên tâm. Em vẫn còn đây. Em mới chỉ có chồng trên giấy tờ. Trang vẫn còn của Vĩnh, phải không nào. Bằng chứng là Trang đang nhớ đến Vĩnh đây, Vĩnh à.

            (Còn tiếp)

           Bạn có thể nghe tác giả đọc phân đoạn này trên YouTube

bài đã đăng của Hoàng Chính