- Tạp Chí Da Màu – Văn chương không biên giới - https://damau.org -

mấy sông cũng lội… (kỳ 1)

Feature photo for DM

Chương 1

Lá thư ngắn ngủn. Vỏn vẹn có năm dòng. Thu Trang đếm đi đếm lại nhiều lần rồi. Và cô thuộc làu từng dấu phẩy, dấu chấm trong tờ giấy vàng ố. Mùi chua chua ngây ngấy phảng phất đâu đây. Thứ mùi chi lạ lùng. Như thể pha trộn mùi mồ hôi, mùi dầu mỡ, mùi của đồ đạc cũ mốc meo… Tất cả tẩm trên trang giấy. Lạ lùng mà gần gũi quá lắm. Thu Trang gục mặt vào tờ giấy học trò lờ mờ những đường kẻ xanh thẳng tắp. Cô ngồi im lìm như pho tượng trong xó góc tịnh yên của riêng mình. Một vệt nắng trải dài từ khe hở của tấm vách gỗ tới tận bàn chân cô. Vệt nắng cắt khoảng tối nhá nhem thành hai mảnh cũng tăm tối như nhau. Vệt nắng vạch lên chân cô một đường thẳng xanh xao, làm nổi rõ vài sợi gân máu ngoằn ngoèo. Cô hít cái mùi lạ lẫm mà quen thuộc của tờ thư vào đầy hai buồng phổi. Cái mùi quen thuộc lắm nhưng sao cô vẫn không nhận ra. Suy nghĩ loanh quanh với những hồi tưởng, vật vã hoài trong vùng ký ức đậm đặc, cô mới khám phá ra đó là mùi của mẹ cô; cái mùi lam lũ của một người đàn bà nghèo khó. Ngày xưa, cô hay vùi mặt vào tóc, vào lòng mẹ kêu rên, vòi vĩnh. Cái mùi thân quen cô đánh mất lâu nay.

Ngày xưa, mẹ có biết bố con là ai đâu. Vậy rồi cũng sống êm ấm với nhau suốt một đời. Con lớn rồi, cũng nên tìm một chỗ nương tựa. Bố mẹ thương con, cho con toàn quyền chọn lựa. Ai cũng được, chỉ cần thương nhau. Có tin vui nhớ cho bố mẹ biết ngay. Con vậy là tốt phước lắm đó. Ngày xưa mẹ, bà ngoại, bà nội, bà cố… tất cả mọi người đàn bà Việt Nam thời trước, chẳng ai được quyền chọn lựa như con. Bố mẹ ở đây vẫn bình yên. Mẹ.

          Chữ ký chạy ngoằn ngoèo phía dưới những dòng chữ. Chữ ký nhòe nhoẹt. Thu Trang mở rộng tờ giấy nhìn lại cho kỹ những dòng chữ của mẹ. Mẹ viết chữ đẹp nhưng dường như tay mẹ hơi run khi viết lá thư này. Cô gái phụng phịu một mình. Thư gì mà ngắn ngủn như cái điện tín, thấy ghét!

Có tiếng loa phóng thanh réo gọi tên cô. Cái loa cũ kỹ, ồn ào phát ra tiếng nói khao khao như nghẹt mũi, “Phạm Thu Trang, khu D26, phòng 2 lên gặp Cao ủy xã hội ngay bây giờ.”

Tim cô nhói lên cảm giác lo âu. Ở đây, mỗi khi bị nhắc đến tên, người nào cũng cuống lên như tử tội nghe kêu án. Gì nữa đây. Cầu trời cho đừng bị trả về. Đã đi thì đi cho đến nơi đến chốn. Trả về cái nơi chôn nhau cắt rún ngặt nghèo ấy thì làm sao mà sống được. Cao ủy xã-hội. Cô cuống quýt xếp tờ thư làm tư, làm tám, cẩn thận nhét vào túi áo ngực. Cao ủy xã-hội. Cô cố hình dung khuôn mặt của người đàn bà ngoại quốc làm việc trên phòng xã-hội. Ban xã-hội. Chắc không có gì đáng lo. Bị gọi lên trình diện phái đoàn, ban giám thị trại hay ban an ninh thì mới đáng sợ, ngoài ra…

“Phạm Thu Trang, D26, phòng 2, lên phòng xã-hội ngay bây giờ.” Lại tiếng loa réo gọi, thôi thúc. Tiếng loa như tiếng thét gào của con quái vật đói khát, tàn bạo. Con quái vật vô hình.

Cô cuống cuồng đứng dậy, vuốt sơ lại áo, quần cho thẳng thớm, vội vã xỏ chân vào đôi dép có một chiếc quai buộc bằng dây vải, và bước vội về phía chỗ nằm của mình, lục lọi trong đống quần áo cũ, moi ra một miếng gương trầy trụa, nhỏ bằng ba ngón tay khép lại. Cô nhìn vội mình trong gương. Đôi mắt của người con gái trong gương mở lớn, ngẩn ngơ, tội nghiệp. Đôi mắt có hai cái quầng như hai mảnh trăng lưỡi liềm màu tím viền quanh. Chiếc mũi có hai cánh mũi tròn tròn, thon gọn; có sóng cao và thẳng. Đôi môi màu hồng lợt lạt lúc nào cũng như đang vội giấu một nụ cười. Cô vuốt lại mái tóc lệch đường ngôi. Vài sợi tóc rụng theo những ngón tay gầy. Sao mà tóc rụng quá thế này! Cô thở than một mình. Mẹ ở tận bên kia, dễ dầu gì biết được con sợ một ngày nào đó sẽ không còn sợi tóc nào trên cái đầu tròn tròn bướng bỉnh này.

          Vùi mảnh gương soi vào chỗ cũ xong, cô chạy vội ra ngoài. Nắng ấm choàng ôm lấy cô. Những sợi nắng vỡ tan trên hai má xanh xao. Bên ngoài, người đâu mà đông thế không biết. Lao xao như bầy ong vỡ tổ. Những người dân biệt xứ, trong khoảng vuông của hàng rào trại, cười khóc lao xao. Thứ tiếng động nhàm chán bao lấy cô. Ở đây riết rồi cô không còn nghe được lời buồn phiền hay phẫn nộ nào của những người chung quanh. Hôm trước có người mổ bụng để phản đối chuyện cưỡng bức hồi hương. Cô thấy tận mắt cuộc tự sát. Nhưng rồi cũng không cảm thấy gì ngoài chút kinh hoàng tê dại.

          Lưỡi dao cùn rỉ sét. Khoảng ngực gầy nhom, như cái lồng có những song sắt, được vắt bên ngoài bởi một khung vải mỏng hằn rõ những khung sắt tròn vênh vẹo. Cái bụng teo tóp xám ngoắt. Lỗ rốn đen xỉn phồng phồng theo nhịp thở. Người thanh niên đứng trước một văn phòng chức sắc. Thanh thản như kẻ bộ hành rong chơi trên đường phố. Tấm bảng các-tông treo trên ngực ngoằn ngoèo những chữ viết bằng hai thứ tiếng. Tiếng Việt thiếu ăn, ốm đói, và tiếng Anh; ngôn ngữ mà có lẽ hơn hai phần ba nhân loại hiểu được. Bàn tay hằn những đường gân máu tím ngắt nắm chắc cán dao, đặt vào khoảng dưới chỗ giáp nhau của hai bệ xương sườn. Tay kia thong thả nhập cuộc. Hai tay nhấn mạnh cán dao. Dòng máu ứa ra. Ban đầu như con rắn nhỏ bò chậm rãi xuống thành bụng. Sau đó máu trào ra như dòng suối, dòng sông trong cơn lũ lụt. Một tia máu lẻ loi phun ra. Tia máu làm ăn cá thể trong cơn lụt phù sa đỏ quạnh. Thân người rũ xuống. Tiếng la hét náo động không gian. Hai con mắt thất thần cố ném tia nhìn thật sâu vào cái khoảng âm u của văn phòng trại. Thân người gẫy đổ. Tiếng động chắc nịch lẫn vào tiếng gào thét của những người chứng kiến cuộc hành quyết. Tự do hay là chết. Liberty or Death. Chữ “Chết” được viết hoa trên tấm bảng các-tông. Nhân viên an ninh trại cuống cuồng bu quanh cái xác người, máu me loe loét.

“Bà ấy hỏi cô có khỏe không sao cô không trả lời?”

Tiếng người thông dịch viên kéo Thu Trang về với thực tại. Người thông dịch viên quyền năng màu nhiệm có đôi lông mày cạo sạch và được vẽ bằng vệt bút chì đen thẳng tắp. Đôi môi tô son tím cùng màu với chiếc váy đầm. Chiếc váy ngắn để hở ra một khoảng đùi trắng bệch, và hai cái đầu gối tròn nhúc nhích bên cạnh chiếc bàn làm việc cao ủy.

          “Trả lời đi chứ!”

          Đôi môi tím ném ra những lời thô và lạnh như sống dao cùn. Thu Trang hoảng hốt xua đuổi hình ảnh máu me của người thanh niên mổ bụng ra khỏi trí nhớ.

          “I am fine,” cô bập bẹ câu trả lời bằng thứ tiếng Anh học được lúc còn ở bên nhà. “Thank you.”

          “Cứ việc nói bằng tiếng Việt, tôi sẽ dịch cho. Đừng bày đặt!”

          “Dạ. Khỏe.”

          Người đàn bà ngoại quốc nhìn cô, mỉm cười, hỏi bằng tiếng Anh, người thông dịch viên vắn tắt dịch lại cho cô nghe rằng cô đã được phái đoàn nào phỏng vấn chưa, cô có muốn sớm được đi định cư ở quốc gia thứ ba không, cô có sợ bị trả về Việt Nam không, nếu bị trả về Việt Nam thì cô sẽ bị những khó khăn gì, cô còn thân nhân ở Việt Nam không, tại sao cô lại đi vượt biên, tại sao đất nước cô bây giờ đổi mới rồi mà cô lại sợ trở về, đồng bào cô ở nước ngoài về thăm quê hương nườm nượp có ai bị bắt bớ gì đâu, và theo như bà ta thấy thì cô chẳng có hy vọng gì sẽ được công nhận là tÿ nạn, cô biết chữ Convention Refugee không, chữ đó dùng để chỉ những người đã được công nhận là tị nạn. Cô chưa được công nhận là tị nạn. Cô chưa phải là convention refugee, cô biết điều đó không? Mà dù cho có may được công nhận là tị nạn đi nữa thì cũng chả có phái đoàn nào nhận cô. Bây giờ trại tị nạn lại đóng cửa…

          Thu Trang khóc như mưa gió trong văn phòng Cao ủy. Hình ảnh người Cao ủy xã-hội và cô thông dịch viên nhòe đi trước mắt cô. Hai cặp mắt vô hồn méo mó ném cho cô những cái nhìn ái ngại; những cái nhìn bọc thép cứng, những cái nhìn dao găm, lựu đạn. Cô chẳng nói được một lời nào. Cổ họng cô tắc nghẹn cảm xúc. Bây giờ biết về đâu đây. Cô nhắm nghiền hai mắt, vắt cho sạch dòng nước mắt mặn chát. Hình ảnh những vòng rào kẽm gai sáng lên trong trí tưởng. Đi đâu cũng thấy những vòng rào kẽm gai.

          Để mặc cho Thu Trang khóc một lúc, hai người đàn bà trao đổi cho nhau những cái nhìn đầy ngụ ý. Thu Trang đưa tay áo quệt nước mắt, hai người đàn bà hiện ra rõ rệt hơn trước mặt cô. Hai vòng son một tím một đỏ thẫm. Bốn con mắt có những chiếc lông mi dài cong vút. Hai con mắt xanh lơ và hai con mắt nâu đen. Họ là người ngoại quốc, họ hiểu gì về Việt Nam nhỉ. Cô thầm nghĩ. Mình năn nỉ thế nào họ cũng chẳng bao giờ hiểu được. Cả cô thông dịch này nữa. Cô ta là người nước ngoài, về làm việc tại trại tị nạn. Người nước ngoài; nước ngoài, nghe cao sang lạ lùng.

          “Chị làm ơn nói với bà ấy giùm em.”

          “Nói gì bây giờ?”

          “Gì cũng được, miễn sao em được đi định cư. Em sẽ mang ơn suốt đời.”

          “Cô làm như chuyện trẻ con.”

          “Chị cứ nói giùm em… em mang ơn suốt đời…”

          “Mang ơn,” người thông dịch cười gằn. “Mang ơn thì béo bổ gì cho tôi mà mang cho mệt…”

          Thu Trang lại khóc sụt sùi. Khóc hoài rồi cũng chán. Nhưng không khóc thì biết làm gì bây giờ.

          “Cô im lặng nghe bà Cao ủy nói kìa.”

          Thu Trang vội nín thở. Im lặng vài giây rồi khe khẽ thở ra bằng miệng. Cô sợ tiếng thở của mình sẽ làm tắt đi niềm hy vọng mỏng như sương khói.

          “Nếu có người bảo lãnh đi, cô có chịu đi không?”

          Câu hỏi vang lên như tiếng súng nổ trong không gian tĩnh lặng tâm trí cô.

          “Dạ chịu.” Thu Trang chết sửng vài giây, rồi cuống quýt. “Em sẽ mang ơn người ấy tới chết.”

          “Cô bao nhiêu tuổi rồi?”

          “Dạ, mười bảy.”

          “Cô còn nhỏ quá!”

          Cái cau mày của người cao ủy truyền qua vừng trán của cô thông dịch. Hai cái cau mày nối tiếp nhau làm Thu Trang rụng rời tâm trí. Niềm hy vọng vừa nhá trong đêm tối, như ánh đèn hiệu nháy lên từ chiếc ghe lớn đậu chờ ngoài cửa biển, trong đêm đen keo đặc năm nào.

          “Dạ không, tuổi thật em hơn mười chín.” Thu Trang nói dối thật mau, thật ngọt. “Trong giấy tờ thì em cũng gần mười tám tuổi rồi. Mười tám tuổi được không cô?”

          Cô hỏi và nôn nao chờ người thông dịch chuyển qua tiếng Anh câu hỏi của cô, rồi kiên nhẫn đợi câu tiếng Việt, lưu loát phát ra từ vòng son tím ngắt.

          “Cũng được. Tuổi cô lập gia đình được rồi.”

          Thu Trang ngơ ngác. Môi cô trễ xuống chờ một lời giải thích từ hai người đàn bà. Nhưng cả hai dường như cùng không thèm để ý đến cô. Họ quay qua nói với nhau bằng tiếng Anh. Cô chỉ nghe được loáng thoáng hai chữ: Việt Nam, Woman… Cô đoán họ đang nói về việc lập gia đình của đàn bà Việt Nam. Cô chợt nhớ tới tờ thư của mẹ. Con lớn rồi, cũng nên tìm một chỗ nương tựa.

          “Nếu chịu lập gia đình, cô có thể được hưởng quyền tị nạn, rồi đi định cư ở Canada.”

          “Dạ.”

           Mẹ ơi! như vậy là con đậu thanh lọc. Chỉ cần lập gia đình; chỉ cần lấy chồng nữa là xong. Mà lấy ai bây giờ? Còn ai ngoài Vĩnh nữa đâu, hở mẹ. Trái tim Thu Trang reo vui trong lồng ngực. Hình ảnh Vĩnh sáng lên trong đầu cô. Khuôn mặt rám nắng. Mái tóc dài phủ xuống trước trán. Chiếc áo sơ mi ngắn tay đưa ra hai cánh tay học trò có những gân máu xanh ở lưng bàn tay. Chao ơi Vĩnh. Chao ơi, nước Canada. Xứ sở có mùa đông ngập tuyết trắng, thường thấy trong sách vở, báo chí. Một mái gia đình ấm cúng. Người ta vẫn nói Canada xứ lạnh tình nồng. Mẹ bảo: Con lớn rồi, cũng nên tìm một chỗ nương tựa. Vâng, chắc cũng chả đến nỗi nào!

           “Có người muốn bảo lãnh cô…”

           Ngực Thu Trang hơi thắt lại. Cô cố nuốt chút nước miếng tưởng tượng xuống cái cổ họng khô đắng. Giọng cô đầy nghi ngại, “Ơ, dạ thưa… ai ạ?”

           “Một người có lòng nhân đạo,” cô thông dịch ngắt lời Thu Trang trước cái nhìn bao dung của người cao ủy. “Cô không thích sao?”

           “Dạ thích chứ.” Thu Trang hoảng hốt. “Vâng, cám ơn… cám ơn người ấy; cám ơn cao ủy, cám ơn chị…”

           “Cô im lặng nghe cao ủy nói, làm gì mà cuống lên thế…”

           “Ô… em xin lỗi…”

           “Nhưng phải có giấy hôn thú, ông ấy mới bảo lãnh cô được.”

           “Ồ…”

           Bàn tay Thu Trang bóp chặt lấy cạnh chiếc bàn làm việc vuông vắn. Cạnh bàn sắc như lưỡi dao của người thanh niên mổ bụng hôm nào. Cô suy nghĩ vội vàng. Sao lại có người tốt như thế nhỉ. Ừ thì làm đại tờ hôn thú cho đúng thủ tục. Qua tới Canada rồi, mình sẽ trả ơn cho người ấy. Mình sẽ ở đợ cho người ấy vài ba năm trả ơn. Vài ba năm làm đầy tớ ở một xứ sở tự do còn hơn phải sống một đời trong lo âu khắc khoải. Hình ảnh Vĩnh mờ đi trong trí cô như ngọn đèn chao đi trước gió. Vĩnh hẹn hò, Vĩnh đong đưa, Vĩnh ân cần, chăm sóc. Biết làm sao bây giờ. Cô chỉ việc đồng ý. Đơn giản quá chừng. Nhưng còn Vĩnh thì sao. Yêu nhau thì phải hy sinh cho nhau chứ. Chắc Vĩnh cũng chẳng nỡ phiền trách cô. Yêu nhau là hy sinh cho nhau; là mong cho nhau hạnh phúc. Vĩnh vẫn thường thường nói với cô hoài như thế.

          Cô nuốt nước miếng cái ực xuống chiếc cổ họng khô rang. Giọng cô sôi nổi, “Dạ được.”

          “Tốt!”

          Những nụ cười nở ra trên hai đôi môi thẫm màu son. Những nụ cười làm lòng cô gái rộn ràng niềm vui.

          “Thưa chị làm giấy hôn thú có lâu không?”

          “Mười lăm phút.”

          “Ồ!” Cô gái cười như mếu.

          “Chỉ cần ra Kuala Lumpur làm giấy tờ.”

          Bất chợt, Thu Trang nghĩ tới mẹ. Nụ cười của mẹ méo xệch trong trí cô. “Mẹ ơi, con đậu rồi!” Cô reo thầm.

          “Bà cao ủy nói là sẽ cố can thiệp cho cô ra Kuala Lumpur làm lễ cưới.” Làm lễ cưới? Tại sao phải làm lễ cưới? Thiên hạ vẫn khai là vợ chồng, qua tới nước thứ ba sẽ tính lại sau. Có ai cần đám cưới đám hỏi gì đâu. Cô thông dịch viên vẫn thong thả, “có thể cô còn được ở với chồng một đêm.”

          Tim Thu Trang thắt lại. Mặt cô bừng bừng nóng. Giọng cô run run, nghe khao khao như lời trăn trối của một người sắp tắt thở. “Là sao ạ?”

          “Vậy là may lắm đấy.” Cô thông dịch viên cười nhăn tít hai đuôi con mắt. “Nhiều người chỉ có chồng trên giấy tờ bao nhiêu năm trời.”

          “Nhưng mà…” Thu Trang băn khoăn.

          “Cô được cho ra động phòng còn muốn gì nữa.”

          Cô thông dịch nói lại với người cao ủy, và cả hai cùng cười rộn rã. Bàn tay người đàn bà lật lật xấp hồ sơ đặt trên mặt bàn. Tiếng giấy tờ loạt xoạt. Cô gái đờ ra như người mất hồn. Ngày xưa mẹ có biết bố con là ai đâu. Vậy rồi cũng sống êm ấm bên nhau suốt một đời… Bố mẹ thương con, cho con toàn quyền chọn lựa…

          “Thích không?” Người thông dịch hỏi trống.

           “Dạ…”

           “Nếu cô không thích thì cũng chẳng sao,” cô thông dịch lạnh lùng. “Tôi sẽ giúp cô điền đơn xin hồi hương.”

Vừa nói, cô ta vừa cắm cúi lục lọi trong xấp giấy trên mặt bàn.

           Thu Trang hoảng hốt chồm người ra phía trước, quơ tay như muốn chặn lấy bàn tay của người thông dịch. Nước mắt lăn xuống hai má buồn buồn. Cô mếu máo những lời chồng chập vào nhau đến vô nghĩa. Cặp lông mày người đàn bà ngoại quốc cau lại trên khuôn mặt trắng hồng đầy những nét đăm chiêu, ái ngại. Thu Trang đưa tay áo quẹt mũi, rên rỉ cuống cuồng bằng giọng đẫm nước mắt:

          “Dạ, em thích chứ. Em thích… lấy chồng lắm, cô biết không. Mẹ em nói, em cũng lớn rồi, mẹ cho em toàn quyền chọn lựa…”

          “Tốt. Chừng nào cô có thể…”

          “Dạ, chừng nào cũng được.” Thu Trang trả lời liều, lòng thầm mong người chồng sắp cưới của cô sẽ không đến nỗi nào. Hình ảnh người con trai lờ mờ trong trí tưởng tượng của cô. Thấp thoáng phía sau cái bóng gầy nhom của Vĩnh. Người con trai ấy cao ráo, hiền lành. Biết thương vợ, thương con. Thương vợ, thương con. Chao ơi tưởng tượng mình có con với người ấy. Những đứa con giống bố, giống mẹ. Có con với người đàn ông đã cứu mình khỏi ngục tù gian truân. Người Thu Trang nóng ran. Những vệt gai ốc nổi lên khắp người, nham nhám. Còn Vĩnh thì sao? Trời ơi, còn Vĩnh thì sao? Tiếng ai đó gào thét trong đầu cô.

          “Chúng tôi sẽ lo thủ tục giấy tờ, và sẽ thông báo cho cô biết sau.” Giọng người thông dịch lạnh tanh.

          “Vâng chị nói cám ơn bà ấy giùm em. Cám ơn chị nhiều lắm.”

          “Không có chi. Cô vậy là lucky lắm đó. Vừa khỏi bị đuổi về, lại vừa có được ông chồng giàu.”

          “Dạ…”

          “Thôi cô về được rồi.”

          “Dạ… Cám ơn…”


CHƯƠNG 2

“Trang!”

Tiếng gọi quen thuộc của người con trai làm Thu Trang giật mình. Cô cúi gầm đầu, nhìn xuống nền xi măng tróc lở.

“Trang!”

Người con trai lại gọi. Thu Trang khẽ ngọ nguậy cái đầu, và vẫn lặng thinh.

“Trang à. Anh nè. Trang đang làm gì vậy?”

Mặc cho cái giọng trầm buồn của người con trai ru ngọt bên tai, Thu Trang mím chặt đôi môi.

“Ủa, sao vậy? sao khóc vậy?”

“…”

“Nhớ nhà nữa rồi phải không?”

Thu Trang khẽ lắc đầu.

“Không nhớ nhà sao lại khóc? Trang có sao không? Are you OK?”

Đôi vai Thu Trang khẽ rung vì tiếng nấc tắc nghẹn ở cổ họng. Cô nuốt nước mắt, bắt bẻ bằng giọng ướt mèm, “Nói tiếng Anh cái giọng tức cười!”

“Phải thực hành cho quen chứ.” Người con trai hăng hái ngồi xà xuống bên cô. “Mai mốt đi định cư nói không được còn bị thiên hạ cười dữ nữa. Miss Thu Trang, are you OK?

No…”

Why?”

Thu Trang sụt sùi, liếm những giọt nước mắt lăn xuống môi. Những giọt nước mắt mặn mòi.

“Lại khóc nữa. Don’t cry, Miss Thu Trang.” Người con trai xuống giọng năn nỉ, có chuyện gì nói cho Vĩnh nghe đi.”

Thu Trang lặng lẽ lắc đầu.

“Sao lắc đầu hoài vậy?”

“…”

“Nói chuyện không được phải không?” Người con trai rù rì như bắt đầu kể cho cô nghe một câu truyện cổ tích, “Vậy thì anh đặt câu hỏi đơn giản cho Trang trả lời yes hay no giống như Cao ủy vậy nhé.”

Thu Trang lặng thinh.

“Nào bắt đầu. Miss Thu Trang, phải cô nhớ nhà không?”

Cô vùng vằng lắc đầu.

“Không nhớ thì sao cô khóc?”

Đang buồn đến nhão cả người ra, Thu Trang cũng phải phì cười vì cách đặt câu hỏi của Vĩnh. Cô gắt lên, “Đặt câu hỏi sai bét rồi!”

“Ồ, I am sorry, Miss Thu Trang.” Người con trai làm bộ nghiêm trang. “Hỏi lại vậy. Miss Thu Trang, cô có muốn đi định cư ở Úc không?”

Thu Trang lắc đầu. Hai mắt cô nhìn đăm đăm xuống nền xi măng phủ đầy đất đỏ. Một con kiến đang tha một mảnh vụn bánh mì. Nước mắt cô làm hình ảnh con kiến nhập nhòe.

“Không thích đi Úc, thế thì cô có muốn đi Mỹ không?”

Cô lại lắc đầu, làm hai giọt nước mắt rụng xuống nền xi măng khô, thấm loang ra trên đất đỏ.

“Cũng không luôn? trước kia cô nói cô thích đi Mỹ lắm mà. Cô đổi ý nữa rồi. Cô thích đi Pháp không?”

Thu Trang lặng thinh.

“Không Úc, không Mỹ, không Pháp.” Giọng người con trai trở nên diễu cợt, “À, thế thì cô có muốn bị trả về Việt Nam không?”

Thu Trang khẽ gắt lên trong cổ họng. Âm thanh khục khặc vướng lại trong lồng ngực cô, làm người con trai cuống cuồng, “Ô, xin lỗi. Đừng nổi giận với phái đoàn chứ. I am sorry. Miss Thu Trang. Cô muốn đi nước nào? Hoà Lan chắc?”

Thu Trang làm như không nghe thấy gì.

“Hay là Thụy Điển?”

“…”

“Thế thì còn nước nào nữa nhỉ, à Canada. Canada xứ lạnh tình nồng. Cô thích đi Canada không?”

Thu Trang không nói gì, nhưng dường như cô có gật đầu; cái gật đầu nhẹ như một thoáng gió mùa hạ.

“Vậy sao. Cô chọn Canada?” Người con trai tíu tít. “Cô không sợ bị biến thành tảng băng lúc vừa mới bước ra đường sao?”

Nỗi buồn chợt ứ lên cổ họng làm Thu Trang muốn nghẹt thở. Cô khẽ ngúc ngắc cái đầu, như cố tìm một nguồn không khí loãng ở chung quanh.

“Sao cô không trả lời phái đoàn?” Người con trai vẫn cao hứng diễu cợt một cách vô tình. “Sao cô quay mặt đi, không thèm nhìn mặt Cao ủy. Miss Thu Trang, chúng tôi sẽ trả cô… Ơ kìa Trang, anh giỡn chơi mà. Anh xin lỗi; anh giỡn chơi. Trang. Trang… Có chuyện gì vậy? Trang à, Trang ơi…”

Tiếng gọi hoảng hốt của người con trai lắng xuống, lẫn trong tiếng khóc rưng rức của Thu Trang. Niềm tủi cực đắng nghét cổ họng Thu Trang.

Người con trai chợt đổi giọng, ân cần, “Anh giỡn chút cho đỡ buồn Trang à. Anh xin lỗi. Nếu như đậu được thanh lọc, thì anh cũng đã nộp đơn đi Canada rồi. Nước Canada dễ thương…”

Thu Trang để mặc những giọt nước mắt chan hòa hai má. Những giọt nước mắt mặn chát đầu môi. Giọng người con trai dịu dàng, như dỗ dành, như ru ngủ, “Tưởng tượng nhé. Đến Canada rồi. Đầu tiên anh sẽ xin việc làm, cho Trang đi học. Trang học cho xong hết phổ thông, thi vào đại học. Chọn ngành Dược như Trang vẫn mơ ước. Chừng nào ra trường, mở tiệm thuốc tây rồi, tới phiên anh trở lại trường. Lúc ấy Trang sẽ nuôi cho anh ăn học nên người…”

Nước mắt Thu Trang lại ứa ra.

“Trang nhớ bài Trăng sáng vườn chè không?” Người con trai vẫn thì thầm bên tai Thu Trang. “Lúc đó Trang sẽ ngày đêm nhắc nhở anh rằng Anh chưa thi đỗ thì chưa… phải không nào?”

Hàm răng Thu Trang cắn chặt lấy môi, như cố ngăn những lời chua cay, đắng chát.

“Sao khóc hoài vậy? Hay là mình đổi lại, anh đi học trước; học xong rồi tới phiên Trang đi học. Trang thấy sao?”

“Sao cũng được,” Thu Trang nghẹn ngào. “Có gì quan trọng nữa đâu!”

“Ừ thì… cũng đâu có gì quan trọng.” Người con trai khẽ thở dài. Tiếng thở dài cắt đứt từng khúc ruột Thu Trang. Giọng chàng trầm xuống, như bài hát lúc chuyển qua những nốt nhạc buồn, “À, hôm qua Cao ủy gọi Trang lên có chuyện gì vậy?”

“…”

“Hở Trang? Sao khóc hoài vậy? Không muốn cho anh biết phải không? Thì thôi vậy. Nhưng đừng khóc nữa. Khóc hai con mắt sưng kỳ cục lắm. Nghe Trang. Trang à. Trang…”


CHƯƠNG 3

Lại thêm một lá thư nữa. Mẹ kỳ cục quá. Thư gì mà toàn nói chuyện chồng con. Bố coi vậy mà “được” hơn. Bố chỉ nói xa xôi chuyện tương lai, chuyện đi định cư ở nước thứ ba, (mà biết chuyện định cư ở nước thứ ba có xảy ra được không nhỉ,) chuyện chuẩn bị cho tương lai, chuyện học Anh ngữ, học nghề… vậy thôi. Bố chẳng khi nào nhắc tới chuyện lập gia đình nọ kia. Còn mẹ thì… thật là nhức đầu. Nhớ mấy năm trước, khi Thu Trang mới gần mười ba tuổi; lúc mái tóc còn loe hoe những sợi thưa cứng như rễ tre, người còn mỏng teo như con khô mực, ngực mới dậy lên một chút căng căng xốn xang, trơ trẽn, mẹ đã ngày đêm nhắc nhở rằng phải thế này, phải thế nọ cho ra vẻ con nhà tử tế; con nhà có giáo dục, con nhà gia giáo. Mẹ thật rắc rối. Đời sống đã rối tung những hệ lụy. Phải không? Những chữ này, Thu Trang đọc được đâu đó từ một tờ báo cũ luân chuyển trong trại tị nạn lâu lắm rồi. Tờ báo mất bìa, có những trang giấy vàng ố, mềm nhũn như nhúm dưa cải muối, tẩm đẫm trăm thứ mùi khác nhau. Đời sống đã rối tung những hệ lụy! Câu thở than nghe là lạ, văn vẻ, vui tai lạ lùng. Thu Trang học thuộc câu văn ấy, dự tính sẽ dùng trong lá thư sắp viết về cho bố mẹ ở quê nhà. Thư cho bố mẹ, tháng nào Trang cũng viết, nhiều khi dồn đống lại, để chờ có tiền mua tem, gửi luôn một thể. Lần này cũng vậy.

          “Trang ơi. Bữa nay cá mòi nấu kiểu gì đây?”

          Giọng nói quen thuộc của một người quen vọng lại từ góc phòng.

          “Dạ, thì… sao cũng được, má.” Thu Trang ngập ngừng.

          “Mấy bữa nay mắc mớ gì mà mày lừng khừng vậy Trang?”

          Thu Trang lặng lẽ xếp tờ thư làm tư, nhét xuống dưới đống quần áo bó thành một đống làm chỗ gối đầu. Người đàn bà lướt đến bên Thu Trang như một chiếc bóng. Mùi gây gây của một thân thể lâu ngày không tắm tỏa ra quanh cô. Cái mùi quen thuộc từ ba năm mấy nay, ngửi riết rồi cũng quen. Hai bàn tay xương xẩu của người đàn bà đặt lên vai cô.

          “Nhớ nhà nữa hả?”

          Thu Trang gật đầu.

          “Nhớ ông bà già hả?”

          Thêm một cái gật đầu khô khốc làm rung nhẹ hai mảnh vai gầy guộc.

          “Rán đừng nhớ. Kẻo bị trả về Việt Nam xui lắm nghe con.”

Lại gật đầu. Những giọt nước mắt lăn xuống má, rụng xuống chiếc váy đầm có những bông hoa màu tím rộng thùng thình của cơ quan từ thiện cấp.

          “Thằng Vĩnh hồi này sao rồi, Trang?”

          “Cũng thường, má.”

          “Lâu quá tao hổng thấy mặt nó.”

          “Chắc tại anh ấy bận học…”

          “Trả về Việt Nam còn học làm mẹ gì nữa!”

          “Chứ biết làm sao bây giờ?”

          Người đàn bà chép miệng, thở dài. Hai bàn tay bóp chặt lấy bờ vai cô gái, như truyền vào đó chút cảm thông hiếm hoi, yếu ớt.

          “Tội nghiệp thằng nhỏ. Tao thấy nó cũng hiền…”

          Thu Trang nhìn vạch nắng dài, xuyên qua khe hở vách gỗ, cắt ngang cổ chân cô. Vệt nắng quen thân, ngày nào cũng thấy làm cô chợt nhớ những vệt nắng hình chữ nhật rạng rỡ bên trong khung cửa sổ phòng cô ở quê nhà.

          “Sao hai đứa bay không làm đăng ký kết hôn, biết đâu nó sẽ được tái thanh lọc?”

          “Khó lắm má à. Rớt hai lần rồi.”

          “Sao mà khó? Tụi bây chỉ cần làm giấy tờ cho đúng thủ tục còn cái chuyện kia thì chờ chừng nào đi định cư êm xuôi đã…”

          Thu Trang chợt thấy vương vướng ở cổ họng. Mặt cô hâm hấp nóng như sắp lên cơn sốt. Cái chuyện kia, nào có gấp gáp gì cho cam. Vậy mà có lần người con trai ấy đã vòi vĩnh cô. Chưa được đâu Vĩnh ơi. Đời mình còn dài, anh còn trẻ, cần lo tương lai. Có gì gấp gáp lắm đâu! Thu Trang nói đi nói lại hoài câu đó. Thu Trang tập nói dối. Có gì gấp gáp lắm đâu! Nói dối người tình. Và nói dối luôn cả chính mình. Tương lai ở đâu mới được chứ. Nhưng rồi Vĩnh cũng đã ngoan ngoãn dừng lại. Thu Trang nhớ những ngón tay vụng về của Vĩnh cái lần chàng bồi hồi gài cúc áo cho người yêu. ừ, có gì vội đâu, Trang nhỉ.

          “Nhiều khi có một đứa con, tụi Liên hợp quốc nó sẽ phải cho đi nhân đạo.”

          “Dễ dầu gì!”

          “Sao không? Đứa nhỏ sanh ra tại Mã Lai thì đâu phải là công dân Việt Nam. Nó có quyền xin đi Mỹ, đi Tây chớ mầy.”

          “Không có đâu.” Thu Trang khịt mũi.

          “Tao nghe người ta nói vậy đó. Luật quốc tế mà mầy.”

          “Dễ gì. Lấy nhau xong, người ta đuổi luôn cả hai đứa về Việt Nam thì chết cứng…”

          “Ai biết đâu đó. Vậy rồi tụi bây tính sao?”

          “Sao là sao, má?”

          “Có tính ăn đời ở kiếp với nhau không?”

          Thu Trang im lặng, lắng nghe những tiếng động lao xao bên ngoài. Đời sống như ngưng lại phía bên trong khung cửa gỗ vênh vẹo của căn phòng trại. Giờ này Vĩnh đang làm việc thiện nguyện trong ban giáo dục. Vĩnh đang dạy đám trẻ con lau nhau trong một túp nhà lụp xụp dùng làm lớp học Việt ngữ. (Cái lớp học bị cấm lên cấm xuống ấy!) Vĩnh ơi, anh có tính ăn đời ở kiếp với em không?

          “Má hỏi sao không trả lời vậy?”

          “Ai biết trước được tương lai, má.”

          Người đàn bà bóp bóp bờ vai Thu Trang, thì thầm, “Nhưng ít ra mầy cũng biết mầy có thương nó không và nó có thương mầy không. Đúng chưa?”

          Thu Trang thở dài thườn thượt, “Biết cũng đâu làm gì được, má.”

          “Tụi bây nhiều chuyện. Nếu mầy là con ruột của tao, tao gả phứt cho thằng Vĩnh rồi hạ hồi phân giải. Gái không chồng như phản gỗ long đinh. Hồi đó đi học tao còn nhớ câu ca dao đó.”

          “Má nói chuyện tức cười.” Thu Trang đang rầu rĩ mà cũng phải bật cười.

          Người đàn bà buông vai cô ra, ngồi xuống mép chiếc giường sắt đen đúa, nhìn sâu vào mắt cô gái, gật gù, “Thấy tụi bây còn trẻ quá mà cũng phải chịu cực, tao tội nghiệp hớt sức.”

          “Tại số mạng…”

          “Ừa… số mạng…”

          Cả hai bỗng cùng trở nên tư lự. Má Năm đưa bàn tay vuốt vuốt những sợi tóc rủ xuống một bên vai Thu Trang. Thu Trang đăm đăm nhìn vệt nắng nhảy múa trên nền nhà lở lói. Cô nghe tiếng thở dài nặng nề của người má nuôi. Cái giọng buồn buồn, trầm lắng của người đàn bà lại cất lên, thê thiết, ”Phải như thằng Thanh còn sống, tao hỏi cưới mầy cho nó ngay.”

          “Thanh nào vậy, má?” Thu Trang xoay qua, nhìn má Năm.

          “Con trai tao.”

          Phải mất vài giây bẽn lẽn, Thu Trang mới nói lên được cái thắc mắc của mình bằng giọng xụi lơ, “Anh ấy… còn ở Việt Nam hở má?”

          “Ừa,” Giọng người đàn bà rớt xuống một âm vực trầm thống, xa xăm. “Nó chết rồi!”

          “Sao vậy?” Thu Trang thảng thốt.

          “Chết bên Miên…”

          “Ồ…”

          “…”

          “Tại vượt biên phải không má?”

          “Hổng phải.”

          “Vậy chứ qua Miên làm gì?” Thu Trang cố kéo câu chuyện sang một hướng khác. Cô đang buồn, chẳng muốn chìm sâu thêm vào cõi thảm sầu vô vọng.

          “Chiến tranh, mầy!”

          “À.” Thu Trang gật gù. Chiến tranh bao nhiêu đời kiếp rồi. Chiến tranh tại vì nhân dân ta anh hùng hay vì một nguyên do nào khác? Chiến tranh hoài!

          “Mầy với thằng Thanh cũng thiệt là đẹp đôi.”

          Thu Trang cố hình dung vóc dáng người con trai của má Năm nhưng hình ảnh nhập nhòa của người đàn ông hỏi cưới nàng từ Canada và hình ảnh Vĩnh cứ xoay vòng vòng, chồng chập lên nhau trong đầu cô. Má Năm có đôi mắt lá răm, (dù má đã già, đuôi mắt có nhiều vết nhăn,) hẳn con trai của má cũng có đôi mắt đa tình ấy. Má Năm thật thà, chất phác, hẳn con trai má cũng có những đức tính tốt ấy. Nhưng mà con trai má chết rồi. Chiến tranh. Sao nói hòa bình rồi mà cứ còn chiến tranh hoài.

          “Má Năm!”

          “Hả?”

          “Hồi đó,” Thu Trang ngập ngừng di di những ngón chân dưới vệt nắng đã bắt đầu co ngắn lại trên nền nhà. “Hồi đó má lấy chồng cách nào?”

          “Hỏi gì kỳ mầy. Tới tuổi lấy chồng thì lấy chồng chứ có cách nào…”

          Thu Trang cười, lắc lắc cái đầu.

          “Không phải vậy. Ý con muốn nói là má có lấy được người má… thương không?”

          “Dễ dầu gì. Cái thời của tao, lấy chồng là do cha mẹ lựa chọn, đặt đâu ngồi đó. Ở đó mà chọn với lựa. Ông bà già kêu chịu là phải chịu. Kêu cưới là cưới…”

          “Lỡ hai người không thương nhau thì sao má?”

          “Ở với nhau riết rồi cũng phải thương chứ mầy.”

          “Sao thấy kỳ kỳ sao đó,” Thu Trang ngập ngừng. “Nói chuyện với đàn ông con trai lạ là thấy kỳ cục lắm rồi, đàng này còn… ăn ở với nhau. Kỳ chết được…”

          “Hổng biết nhau trước vậy mà tuyệt lắm nghe mầy. Nó hồi hộp, nó ly kỳ rùng rợn lạ lùng lắm kìa, chứ hổng phải như tụi bây bây giờ, hẹn hò nhau đi mòn hàng chục đôi guốc, thì còn gì là…”

          “Vậy là má cũng không được chọn lựa?”       

          “Dễ dầu gì!”

          “Rồi cũng… thương nhau được như thường?”

          “Ừa, rồi sao?”

          “Không sao hết.”

          “Con nhỏ này bữa nay hỏi toàn những câu kỳ cục!”

          Có tiếng lao xao bên ngoài. Cả hai cùng lặng thinh để lắng nghe. Không có gì mới. Bản danh sách những người được gọi lên phỏng vấn thanh lọc. Ngày nào mà không có những người được gọi lên cái phòng phán xét ấy. Cái phòng làm việc lạnh lẽo như phòng điều tra tội phạm. Bốn bức tường làm bằng ván ép. Không một bức tranh nhỏ, không một cuốn lịch treo trên tường. Bốn bức vách trần trụi như thân thể lỏa lồ của con người tiền sử. Căn phòng giống hệt nhà xác ở một bệnh viện tỉnh nghèo nàn. Hình ảnh căn phòng đó in sâu vào tâm trí mọi người tị nạn. Chưa hết đâu. Còn đám cao ủy lạnh lùng, khô khan như đá cục; lũ nhân viên di trú người Hoa, người Mã, người Ấn không có trái tim; bọn thông dịch máy móc đến từ nước ngoài, thiếu vắng cả một linh hồn sống của con người.

          “Rán nghe coi có tên tao không, Trang.”

          “Không có đâu má.”

          “Còn mầy thì sao?”

          “Biết làm sao được, má.”

          Giọng má Năm ngậm ngùi, “Tao già rồi, có trả về Việt Nam thì cũng ở tù là cùng. Mầy còn trẻ, phải ráng tìm đường…”

          “Đường nào bây giờ?” Thu Trang rầu rĩ, xoay qua hỏi. Má Năm chần chừ một lát, lơ đãng ngó mông ra khoảng nắng vuông bên ngoài khung cửa hẹp, ngập ngừng, “Lấy đại thằng cha nào đó ở nước ngoài để khỏi phải về Việt Nam, rồi sẽ tính tiếp.”

          Thu Trang có cảm tưởng Má Năm biết hết chuyện của mình. Cô kín đáo liếc nhìn người đàn bà. Một nhúm tóc bạc như cước lấp lánh trong khung sáng lờ mờ của căn nhà lụp sụp. Những vết nhăn đặm dần hai đuôi mắt và đầu khóe mỗi nụ cười. Má Năm già rồi.

          “Nếu có ai chịu bảo lãnh má… làm vợ, má đi không?”

          “Đi ngay.”

          “Chừng qua bên đó, phải ở với người ta suốt đời, má chịu không?”

          “Chịu luôn.”

          “Lỡ gặp người không thương mình, chỉ biết nhậu nhẹt tối ngày, rồi về đánh đập mình, má tính sao?”

          “Thì…” Má Năm gãi cằm, suy nghĩ. Những vệt nhăn đặm nét ở cuối chân mày. “Mình đã cực khổ nhiều rồi, hổng lẽ ông trời còn đọa đày mình hoài sao mầy.”

          “Biết đâu đó.”

          “Mà dù có gặp thằng chồng như vậy đi nữa thì cũng vẫn đỡ hơn phải hồi hương… Mẹ kiếp! Hồi hương gì lãng xẹt.”

          Má Năm đứng dậy vươn vai, bẻ xương sống lụp cụp.

          Thu Trang còn muốn thăm dò thêm ý kiến của người đàn bà, để tìm hiểu xem mình nên quyết định như thế nào về phần đời còn lại, nhưng má Năm đã thở dài, “Ối, hơi sức đâu mà lo ba cái chuyện lăng nhăng. Tới đâu hay tới đó.” Ngập ngừng, một lát, người đàn bà nói giọng chắc nịch, “bây giờ mà có thằng già dịch nào đó chịu hỏi cưới tao, rồi lãnh tao qua Tây, qua Mỹ là tao đi ngay lập tức. Ban đầu hổng thương, ở với nhau riết rồi dứt hổng ra. Ở đó mà lo.”

          “Má nói chuyện… kỳ cục!”

          “Thôi dẹp ba cái chuyện đó đi, càng nói càng rầu thúi ruột. Lo kiếm chỗ nấu nướng kìa. Lẹ, không thôi tụi giám thị trại lại cấm đốt lửa nấu nướng nữa là khỏi ăn. Tao đói bụng rồi đó.”

          Thu Trang nhìn cái dáng nóng nảy, đi tới đi lui của má Năm, thấy buồn cười hết sức. Nhưng vừa nghĩ tới người đàn ông có lòng nhân đạo hỏi cuới và bảo lãnh cô sang Canada, lòng cô chùng ngay xuống. Những khóe cười biến đi trên đôi môi hồng lợt lạt, cô thở dài. “Con cũng đói thấy mồ!”

           Bạn có thể nghe tác giả đọc phân đoạn truyện này trên YouTube.

           (Còn tiếp)

bài đã đăng của Hoàng Chính