Ngô Kha là thầy dạy Việt Văn năm Đệ Thất (lớp 6) của tôi tại trường Hàm Nghi. Quan hệ thầy trò này, về sau, trở thành quan hệ thân hữu. Tuy nhiên, tôi vẫn luôn luôn kính trọng ông trong tình thầy trò. Chúng tôi gặp nhau luôn, thường là ở các quán cà phê, thỉnh thoảng ở nhà người bạn tôi, cũng có lúc tại nhà ông ở đường Bạch Đằng. Giọng ông sang sảng, đã nói là nói say sưa, khi lên lúc xuống đầy nhiệt tình, không những khi giảng bài hay khi rượu đã ngà ngà, mà cả những trong những lúc uống cà phê với bạn bè và học trò. Ông lập gia đình với em ruột Trịnh Công Sơn, Trịnh Vĩnh Thụy, nhưng chỉ sau một thời gian chung sống, hai người chia tay, vì một lý do tế nhị nào đó, chẳng bao giờ nghe ông nói ra. Sự tan vỡ này chắc để lại cho ông nhiều nỗi đau, nên thỉnh thoảng, ông có những biểu hiện bất thường: đột ngột cầm cả ly rượu đập xuống bàn vỡ nát hay đứng lên lớn tiếng nói huyên thuyên một điều gì đó, y như đang diễn thuyết…
Lúc đầu, khi được biệt phái về dạy học lại, dù có xu hướng “tả khuynh”, nhưng quan điểm ông nói chung, khá ôn hòa. Càng về sau, ông càng cực đoan, nhất là khi ông trực tiếp tham gia vào phong trào tranh đấu Phật Giáo (vụ “Biến động miền Trung”) năm 1966. Dẫu vậy, tôi cho rằng “típ” nghệ sĩ như ông không phải là cộng sản, nên vẫn không ngại gặp gỡ ông, bàn cãi đủ thứ chuyện trên đời. Hơn nữa, tôi vốn thích thơ ông. Trong không khí văn chương thời bấy giờ, so với nhiều tác giả khác, thơ ông mới mẻ về nhiều mặt: tinh tế và mới lạ trong ngôn ngữ, phong phú và ẩn mật trong hình ảnh, đa dạng và sáng tạo trong cấu trúc, trừu tượng nhưng không bí hiểm, lại chan chứa nỗi lòng. Thơ Ngô Kha có chất trí thức của Thanh Tâm Tuyền, mang không khí siêu hình của Tô Thùy Yên và nét quyến rũ của Nguyên Sa. Có điều khá lạ là, thơ ông không mấy khi xuất hiện trên các báo văn học nổi tiếng ở Sài Gòn (Văn, Bách Khoa, Vấn Đề, Khởi Hành, Văn Học, Nghệ Thuật…) như hầu hết những nhà thơ, nhà văn tên tuổi thời đó. Ông xem thường các tạp chí văn học, không muốn gửi đăng, hay các tạp chí đó “dị ứng” với ông và thơ ông, tôi không rõ. Sau này, nhà văn Trần Hoài Thư tìm ra một bài thơ của Ngô Kha đi trên báo Mai, một trong những tờ báo văn học nổi tiếng ở Sài Gòn do Hoàng Minh Tuynh sáng lập, nơi khởi nghiệp văn chương của những tên tuổi nổi đình nổi đám sau này của văn học miền Nam: Phạm Công Thiện, Bửu Ý, Du Tử Lê, Nguyễn Đức Sơn…Theo Trần Hoài Thư, “Qua những bài thơ chúng tôi sưu tầm được từ thư viện đại học Cornell, chúng tôi nhận thấy thơ ông thay đổi theo hai giai đoạn rõ rệt. Giai đoạn 1: Thời quân Mỹ chưa có mặt tại miền Nam. Ngô Kha bị động viên khóa 16 Trừ bị Thủ Đức, nhập học tháng 6 năm 1963 và ra trường vào năm 1964 lúc chiến tranh bắt đầu sôi động. Và Ngô Kha đã làm bài thơ “Mặt Trời Mọc” để tặng các bạn sinh viên đồng khóa. Bài thơ này được đăng trên tạp chí Mai, số 40 xuất bản vào năm 1964. Giai đoạn hai: Thời kỳ quân đội Mỹ có mặt. Giai đoạn này, thơ ông hầu hết xuất hiện rất nhiều trên Trình Bày, Đất Nước. Nội dung viết về một xã hội tan rã về mọi mặt, bởi sự có mặt của quân đội đồng minh.” [1]
Đây là một trích đoạn từ bài thơ “Mặt trời mọc”:
Cho tôi ở lại bộ binh để làm nữ hoàng của chiến trận
buổi mai thức dậy thấy ánh nắng vô tư diễn hành trên các đọt cây
doanh trại đẹp như những vần thơ
Tôi nhớ đến rượu hoàng hoa
mà tủi thương người lính thú
cho tôi làm người lính gác giặc
những chiều đóng quân nghe âm thanh cao vút của rừng thông
lặng chờ tiếng gọi âm thầm tự trong lòng đất huyền bí
hỡi những người lính Tàu, lính Nhật, lính Mỹ, lính Pháp
những người Cộng Sản
cát bụi công bình mà thương cho số phận tất cả
bởi ai đã chối bỏ chìa khóa mở cửa chốn địa đàng này
nên bây giờ có những lũ người đi vào bằng bạo lực
Bị chính quyền bắt mấy lần, nhưng khi được tha về, tiếp tục đi dạy, tính ông vẫn thế, cực đoan, sôi nổi. Gặp nhau là ông say sưa nói, đôi khi chẳng cần biết người nghe là ai và chẳng húy kỵ điều gì. Tôi cho rằng chính tính tình, chứ không phải lập trường của ông, hại ông. Ngay sau ngày Hiệp Định Paris ký kết đầu năm 1973, gặp ông tại quán cà phê Tôn, giữa đám bạn bè đủ loại, ông hào hứng nói chuyện hòa bình và rồi, sang sảng đọc “Trường ca hòa bình”. Tôi nói nhỏ với ông, “Nói nhiều không tốt, anh nên cẩn thận giữ mình.” Ngô Kha cười ha hả, bảo “Ông đúng là vẩn vơ, hòa bình rồi, làm gì có chuyện bắt bớ tù đày mà sợ.” Có lẽ ông thành thật tin như vậy. Nhưng chỉ ít ngày sau đó, ông bị bắt và không bao giờ về nữa. Con người Ngô Kha là như thế, bộc trực, đôi khi có phần “ngây thơ”, lại có máu lãnh tụ, không chịu ép mình vào trong bất cứ tổ chức nào. Trích đoạn sau đây trong lá thư ông gửi cho Chu Sơn (do Chu Sơn ghi lại theo trí nhớ) cho thấy thái độ lấp lửng của ông trước thời cuộc:
“Từ lâu vị trí chiến đấu của moi là trường học là đô thị, và mãi cho đến khi kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh, thì vị trí đó cũng không thay đổi. Rất nhiều lúc moi hoang mang, lo sợ trước những đe doạ chết người từ chính quyền Việt Nam Cọng Hòa. Và đã có lúc moi đã nghĩ đến việc tạm lánh một nơi nào đó như vào Sàigòn chẳng hạn hay lên chiến khu như đề nghị của các toi. Nhưng vào Sàigòn hay lên chiến khu thì xem như rời bỏ vị trí của mình. Vị trí của moi như thế nào, các toi và chính quyền này hiểu rõ hơn cả moi. Vì hiểu rõ như thế nên cả hai phía đều có hai biện pháp ứng xử khác nhau. “ Phía các toi thì chỉ phối hợp, gợi ý từ xa, các mối ràng buộc không vượt quá quan hệ tình cảm, bạn bè. Và như thế xét trên nhiều mặt có lợi cho phong trào và thoải mái hơn cho cá nhân moi. Về phía chính quyền Việt Nam Cọng Hoà, họ thà đối diện với một Việt Cọng, dễ ứng xử và ít nguy hiểm hơn với một kẻ nội thù như moi.”[2]
Tôi đồng ý với nhận xét của Chu Sơn: Ngô Kha là loại người “thất thường, lạ lẫm”, “một con người quá ư mẫn cảm…”
Sau này, một số “đồng chí” nào đó của ông cố gắng vận động, một cách lúng túng, để chứng minh ông là người của “tổ chức”. Về điểm này, Hoàng Phủ Ngọc Tường ỡm ờ:
“Tôi hỏi nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn thân thiết của Ngô Kha rằng, tại sao những ngày đó “tổ chức” không đưa Ngô Kha lên Xanh?”. Hoàng Phủ bảo tổ chức đã có liên lạc với Ngô Kha, nhưng Kha chưa kịp đi thì bị bắt. Cũng có thể nó chần chừ giữa lên rừng hay ở lại tranh đấu với bạn bè, trong lúc mật vụ địch theo dõi từng bước đi, nên không thoát được…”[3]
Chu Sơn xác định rõ hơn:
“Trở lại vấn đề quan điểm và thái độ của Thành Ủy. Dù anh Ngô Kha không là người của tổ chức, nhưng vì lí do là “của quí”, và những tính toán khác, nên Thành uỷ có sự quan tâm đặc biệt. Thành uỷ chỉ đạo cho các đường dây mật báo theo dõi sát sao thái độ của địch đối với anh và chỉ thị cho các đầu mối trách nhiệm bảo vệ anh tích cực. Thông thường là gợi ý để anh giảm nhẹ cường độ tấn công đối phương, tránh các khiêu khích không cần thiết, hoặc nằm yên một thời gian làm như bỏ cuộc.”[4]
Tuy thế, Ngô Kha vẫn được phong thánh: “liệt sĩ”. Nhà thơ-liệt sĩ Ngô Kha! Nghe như “cây đuốc sống” Lê Văn Tám hay “anh hùng” Võ Thị Sáu. Cả hai nhân vật này đều có người – thuộc bên thắng cuộc – đặt lại vấn đề: Lê Văn Tám[5] là nhân vật hư cấu; Võ Thị Sáu[6] thì bị bệnh tâm thần. Chu Sơn cho biết anh “không đồng tình” với việc này vì “anh Kha không muốn, không cần như thế.” Theo Chu Sơn, “việc phong liệt sĩ cho anh Kha là một nhượng bộ của Thành Ủy Huế, vì anh Kha là người ngoài, không phải là cơ sở cách mạng được Thành Ủy lãnh đạo.”[7]
Đúng là chuyện cộng sản: sấp ngửa bàn tay!
Nếu còn sống để chứng kiến những gì diễn ra sau tháng 4/1975, tôi đoán là không sớm thì muộn, Ngô Kha sẽ vỡ mộng, trở thành một kẻ bất đồng chính kiến, không chừng cũng chịu cùng một số phận như Trần Vàng Sao (Nguyễn Đính).[8] Vả lại, loại người có máu lãnh tụ như Ngô Kha, chắc cộng sản cũng chả ưa, đưa vào tổ chức thêm phiền. Nội mấy chữ “ngụ ngôn”, “đãng trí” và “cô độc” trong tựa đề của hai tập thơ “Ngụ ngôn của người đãng trí” hay “Hoa cô độc” nghe đã…chẳng mấy lọt tai người cộng sản, phương chi là nội dung mơ hồ như thế này:
“vỏ cây nứt một loài hoa vô sắc
tôi lạc vào miền vô vi
bài diễn văn cuốn theo lớp lá khô
người say rượu uống nhựa thông nằm chết tình cờ
đêm sửa soạn bài ngụ ngôn của người đãng trí
lá từ giã cành cây làm lễ đọc kinh
người con gái lặng yên xem chúc thư
bó hoa tôi mang đến dòng sông bây giờ đã héo”
Mỗi một câu thơ trên, nếu xét dưới lăng kính của cái gọi là “văn học cách mạng”, đều có thể bị kết án là lai căng, nếu không muốn nói là …phản động. Đã không có – nói theo kiểu tuyên huấn cộng sản – tính giai cấp, tính dân tộc và tính đảng đã rồi, mà chữ nghĩa thì quanh co, ẩn dụ, mập mờ, đa nghĩa không khác gì “bọn” Nhân Văn Giai Phẩm trước đây.
Vả lại, hình ảnh một đất nước hòa bình mà Ngô Kha vẽ nên, đẹp thì đẹp, nhưng mượt mà tiểu tư sản quá, chắc không hợp nhãn các quan văn nghệ cộng sản:
… Ta mở cửa đón một bình minh lớn
Trong đau thương
cây cỏ biết tình người
trong một ngày quảng đại
như áo cũ nối tay
một sớm hồng ta nghe lời em học
trên đường làng
chị gánh gồng buổi chợ
mẹ vội vàng
nghe nắng mới bửa cau
…
(Trường ca hòa bình)
Một thứ hòa bình chung chung, chẳng “nhân dân anh hùng” cũng chẳng “ơn Đảng ơn Bác” hay “Đảng quanh vinh”…Vả lại, hòa bình như thế không phải chỉ là mơ ước của chỉ những người “tả khuynh” Ngô Kha mà của mọi người miền Nam, được phản ảnh trong nhiều tác phẩm văn chương nghệ thuật miền Nam. Chẳng hạn, bằng một thứ ngôn ngữ bình thường, không cần trau chuốt, Nhật Ngân, một người lính Việt Nam Cộng Hòa, cũng đã từng nói lên nguyện vọng đó:
Trả súng đạn này ôi sạch nợ sông núi rồi
Anh trở về quê, trở về quê tìm tuổi thơ mới năm nao
Vui cùng ruộng nương, cùng đàn trâu
Với cây đa, khóm trúc, hàng cau
Với con đê có chiếc cầu tre
Đã bao năm vắng chân anh
Nên trở thành hoang phế rong rêu
(Giã từ vũ khí)
Với người cộng sản, đánh cho “Mỹ cút ngụy nhào” rồi, chỉ là một chặng trong tiến trình “cách mạng”. Đánh xong “giặc ngoài”, cộng sản còn tiến hành những cuộc chiến khác, dữ dội và khắc nghiệt hơn nhiều: chống và bài trừ đủ thứ, nào là tư sản, phản động, nào là văn hóa đồi trụy, tàn dư Mỹ ngụy, vân vân và vân vân, chưa kể đến công tác chống “thù trong” (các đồng chí của mình), thì còn chỗ đâu cho khung cảnh “trong đau thương cây cỏ biết tình người” hay “vỏ cây nứt một loài hoa vô sắc/tôi lạc vào miền vô vi…” trong thơ Ngô Kha![9]
Trong số nhiều bài viết của Chu Sơn đăng tải đây đó trên các trang mạng hải ngoại, bài thơ “Cuộc nói chuyện dài với đứa văn nô” có một giọng điệu đặc biệt. Qua hình ảnh của một nhân vật “đồng chí” nào đó, bạn của anh, bài thơ chỉ trích thậm tệ đám quan lại hiện nay, những kẻ hiến thân cho lý tưởng ngày nào đã bị bộ máy quyền lực làm hư hỏng, biến thành tham quan ô lại.
Bài thơ xây dựng hai chân dung khác nhau của một cán bộ “cách mạng”, trước và sau 1975.
Chân dung 1:
ngày xưa
trên những
nẻo đường hy vọng
(…)
mi như con khỉ gầy
áo quần đạm bạc
sờn ống
rách vai
da nhăn
bụng lép
cơm trăm họ
bữa đói
bữa no
nhà bốn phương
ngủ hay chăng chớ
(…)
người mi thấp, mà
dáng mi cao
ngực mi lép, sao
giọng mi sang sảng
giữa ngàn vạn
thanh xuân
mi góp sáng một thời đen
trong giá lạnh
(…)
vận động tuyên truyền
bàn mưu tính kế
thôi thúc đấu tranh
Chân dung 2:
Sáng nay
ta gặp
mi
tại một nơi nào đó
(…)
mặt mi tròn
da mi bóng
bụng mi phệ
áo
quần
giày
mũmi bảnh bao
mi hí hửng
mi thỏa thuê
mi khoác lác
đầu mi nghếch
mắt mi nheo nheo
nhìn nhìn
ngắm ngắm
nhà cao cửa lớn
trại ấp thênh thang
xe cộ dập dìu
quyền lực vô biên
bạc tiền như nước
mắt mở
sao mi không thấy
nỗi nhục nhằn
khổ hận
oán thù
cao như núi
dài như sông
sâu như biển
nén như bom
mìn
nổ chậm.[11]
Bài thơ vừa ca ngợi (người hoạt động nằm vùng), lại vừa chê trách (kẻ làm quan).
Chu Sơn phẫn nộ! Y như thể người cộng sản đáng lẽ ra thì phải khác. Thực ra, hình ảnh tréo ngoe như thế này vốn xưa như trái đất, có đầy dẫy trong lịch sử nhân loại, chẳng phải chỉ cho riêng thời đại nào. “Quyền” khó tách khỏi “Lợi”. Sau mấy chục năm cộng sản cầm quyền, hiện tượng này không cá biệt, mà trở thành hệ thống, tràn lan trong các cơ quan đảng và nhà nước như dịch bệnh. Cũng là quy luật thôi. Một mình một chợ tự tung tự tác hàng nhiều chục năm mà không lạm quyền và tham nhũng mới là chuyện…lạ! Lỗi lầm của ai? Có vẻ như Chu Sơn chỉ muốn quy trách nhiệm cho cá nhân hơn là cho đảng và cho chủ thuyết.
Hình ảnh người đồng chí “hư hỏng” này trông khá giống với Nguyễn Công Khế, cựu tổng biên tập báo Thanh Niên, được vẽ lại trong “Lời ai điếu”, hồi ký của nhà báo Lê Phú Khải.[12] Xin dẫn một trích đoạn:
“Một người bạn tôi đã mắng tôi là thằng ngu vì không biết gì về Nguyễn Công Khế cả. Anh còn cho biết Khế luôn dùng tờ báo của mình để gây thanh thế, chẳng hạn y cho phóng viên của báo đi viết về tiêu cực, nhung khi vụ việc có liên quan đến một ông lớn nào đó…Ví dụ, đồng chí X xưa kia ở tỉnh Y, nay đã lên TW làm đến Bộ Chính trị mà bài viết có dính líu đến đồng chí đó khi còn ở địa phương thì Khế không đăng mà gửi bài cho đồng chí ấy biết “để giữ uy tín” cho lãnh đạo, thế là đồng chí X đã “mắc nợ” Khế. Khi báo Thanh Niên tổ chức một cuộc thi hoa hậu nào đó, Khế gửi giấy mời, thế là đồng chí ấy, dù là Chủ tịch nước cũng phải đến dự tận quê Khế ở Miền Trung xa xôi!!! Một tờ báo hạng B mà Bộ Chính trị phải đến dự thì uy tín của Khế lên như diều…Cứ thế mà Khế “ra roi”, cứ thế mà dọa nạt thiên hạ để tống tiền. Trong cái mớ bòng bong của một xã hội được gọi là “kinh tế thị trường định hướng XHCN” …Khế cứ thế mà vơ vét…Anh bạn tôi kết luận: Nguyễn Công Khế là “tên lưu manh ngang tầm thời đại”! Nhà thơ L đi viếng mẹ của Nguyễn Công Khế mất vào tháng 9 năm 2007 về, đã hốt hoảng nói với tôi, đám tang còn hơn cả tỷ phú bên Mỹ có mẹ mất. Giầu có không bút nào tả xiết, xe du lịch đời mới đỗ dài cả cây số.”
Thêm tấm hình này nữa, cũng vui.
Nguyễn Công Khế (giữa)[13]
[1] Trần Hoài Thư, Hành trình văn chương của Ngô Kha
http://mienxua.blogspot.com/p/chan-dung-ngo-kha.html
[2] Chu Sơn, Ngô Kha và cuộc chuyện trò cuối năm, phần 2
[3] Ngô Minh, Ngô Kha, một cõi tang bồng (23/6/2008) “Tôi hỏi nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, một người bạn thân thiết của Ngô Kha rằng, tại sao những ngày đó “tổ chức” không đưa Ngô Kha lên Xanh?”. Hoàng Phủ bảo tổ chức đã có liên lạc với Ngô Kha, nhưng Kha chưa kịp đi thì bị bắt. Cũng có thể nó chần chừ giữa lên rừng hay ở lại tranh đấu với bạn bè, trong lúc mật vụ địch theo dõi từng bước đi, nên không thoát được…”
https://tienphong.vn/ngo-kha-mot-coi-tang-bong-post108755.tpo
Thanh thảo, Ngô Kh, người đãng trí can trường
“Nhiều bạn hữu, nhiều đàn em, nhiều học sinh của Ngô Kha đã không bao giờ quên được dáng vẻ hiền hậu và tinh thần trí thức của anh, sự độc lập trong suy nghĩ và sự quyết liệt trong hành động yêu nước của anh. Vậy mà nhà thơ ấy, khi làm thơ, lại làm thơ… siêu thực.”
https://baothuathienhue.vn/van-hoa-nghe-thuat/ngo-kha-nguoi-dang-tri-can-truong-41668.html
[4] Chu Sơn, bđd
[5] Về Lê Văn Tám, xem Phan Huy Lê: Trả lại sự thật hình tượng Lê Văn Tám
https://fos.ussh.vnu.edu.vn/vi/news/tan-man-phuong-dong/gs-phan-huy-le-tra-lai-su-that-hinh-tuong-le-van-tam-290.html
[6] Về Võ Thị Sáu, có nhiều bài viết đề cập đến. Xin dẫn lại trích đoạn từ một bài viết ngắn của Kim Ngọc, Những kẻ nhẫn tâm xuyên tạc về người anh hùng dân tộc Võ Thị Sáu.
“Tóm lại, họ toàn là những kẻ đang có tư tưởng chống đối chính quyền: Một lũ “rận xĩ”, khoác áo “nhơn sĩ”, mạo danh dân chủ tỷ như: Nhà văn Nguyên Ngọc, Nhà văn Phạm Xuân Nguyên (cán bộ Viện Văn học, chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội), nhà thơ Nguyễn Duy, Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang… Trong đám rận đổ đốn ấy đó người lớn tuổi nhất và có thâm niên thường xuyên có hành vi chống phá chính quyền nhất phải kể đến Tiến sỹ Nguyễn Thanh Giang sinh năm 1936. Qủa báo, hiện nay ông TS này gần như có cuộc sống Thực vật, gần đất xa trời. Đoạn clip cho thấy, răm kẻ đầu bạc, xúm quanh chai rượu ngoại “nhâm nhi” cùng với vài ba hột lạc rang. “rượu vào lời ra”. Nhìn họ cười vô tư, bốc đồng chẳng khác gì những kẻ nát rượu, “rượu nói” bằng những tin đồn, những lời đồn đoán vô căn cứ của Giáo sư Mạch Quang Thắng khi nói về cách học Sử ngày nay, khi ông này cũng đã“xuyên tạc lịch sử”.khi dẫn chứng một ví dụ về chị Sáu như sau:
“Võ Thị Sáu chẳng qua là một người con gái bị tâm thần, ngớ ngẩn. Lợi dụng sự ngớ ngẩn của Sáu, nhóm những người hoạt động cách mạng mới đưa cho bà lựu đạn rồi xúi ném vào một toán quân địch đang ngồi họp. Bà ném rồi bị bắt đi tù, đem đi xử bắn. Bà chẳng biết gì về tính mạng của mình, cứ cười tươi và hái hoa dại mọc dọc đường ra pháp trường cài lên tóc”.
Xem:
[7] Chu Sơn, Trả lời thắc mắc
Chu Sơn Trả Lời Thắc Mắc của Độc Giả về Bài Viết “Ngô Kha và Cuộc Chuyện Trò Cuối Năm”
[8] Trường hợp Nguyễn Đính được đề cập ở phần sau.
[9] Những người ủng hộ Ngô Kha là nhà thơ-liệt sĩ không nghĩ như vậy. Chẳng hạn Thanh Thảo:
“Có lẽ vì thơ siêu thực “đột nhập” được vào những khoảng bất chợt trong tâm hồn sâu thẳm con người, với những hình ảnh mờ chồng tự động và nhiều khi sẫm tối, nó phát hiện cho ta thấy sự phong phú nhiều khi đáng kinh ngạc của đời sống nội tâm một con người, ở đây là một thi sĩ. Thơ siêu thực không dễ làm, và dĩ nhiên, khó hay, nhưng khi đã thành công, thì nó vụt sáng. Đó cũng là phần không thể thiếu được trong thơ ca hiện đại. Khi chọn hình thức thơ siêu thực, một trí thức tranh đấu can trường như Ngô Kha đã chọn cho mình một phương thức biểu đạt không trực tiếp. Thơ Ngô Kha không làm khẩu hiệu xuống đường như thơ Trần Quang Long, nhưng nó cần thiết biết bao cho tâm hồn con người đương đại. Ngay trong cuộc chiến đấu, con người vẫn là một sinh thể vô cùng phức hợp, và thơ siêu thực cũng là một trong những nhu cầu tinh thần của con người. Trong cuộc kháng chiến vì Độc lập – Tự do của dân tộc ta, đã xuất hiện nhiều dạng thơ yêu nước, và mỗi dạng thơ đều có đóng góp riêng của mình vào cuộc tranh đấu ấy. Vui mừng biết bao, khi trong dòng thơ lớn ấy, có thơ siêu thực của nhà thơ – liệt sĩ Ngô Kha. Anh chính là một F.G.Lorca của Việt Nam, với cây đàn lya và bài ca lãng đãng trên con đường đơn độc về một miền xa thẳm nào.”[9]
Đố ai hiểu tác giả muốn nói gì? Biện hộ cho thơ siêu thực hay biện hộ cho người làm thơ siêu thực Ngô Kha, người đã không làm thơ “khẩu hiệu”? Xem ở:
https://baothuathienhue.vn/van-hoa-nghe-thuat/ngo-kha-nguoi-dang-tri-can-truong-41668.html
[10] Trích đoạn từ bài “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa” của Nguyễn Minh Châu
“Có một nhà văn đàn anh nâng chén rượu lên giữa đám đàn em: “Tao còn sống, còn cầm bút được đến bây giờ là nhờ biết sợ!”, nói rồi ngửa mặt lên trời cười rung giường, nước mắt tuôn lã chã, giọt đổ xuống đất, giọt đổ vào lòng. Có người cầm bút đến lúc sắp bước sang thế giới bên kia vẫn chưa dám thốt lên một lời nói thật tự đáy lòng, không dám viết hồi ký thực, vì sợ để liên lụy đến đời con cái.”
[11] Chu Sơn, Cuộc nói chuyện dài với đứa văn nô (9/2011)
https://www.diendan.org/sang-tac/chuyen-voi-van-no
[12] FB Nguyen Giang
https://www.facebook.com/profile.php?id=100053713788289
[13] Trang “Thông Luận:
Face Book Nguyễn Chiến Thắng: