Cộng sản vào, miền Nam lộn ngược. Huế đánh mất mình.
Một trong những đặc tính cộng sản: kiêu ngạo. Đôi khi là thứ kiêu ngạo mang tính cách thần thoại trong các truyện tiên, thánh dành cho trẻ con. Chẳng hạn:
Nghiêng đồng đổ nước ra sông
Vắt đất ra nước thay trời làm mưa[1]
Xin đọc vài trích đoạn từ một bài ký khá dài, Những chặng đường Y khoa của tôi, của một bác sĩ viết văn, chị Nguyễn Thị Kim Thoa – vợ của người bạn “đối nghịch” của tôi, nhà thơ Chu Sơn, một cán bộ cộng sản nằm vùng, phụ trách trí vận – ghi lại một số nét chấm phá về cuộc sống của sinh viên trường Y khoa Huế sau tháng 4/1975.
“Khoảng 50% giáo sư, và khoảng 90% sinh viên trường Y quay trở lại với tâm trạng “hàng thần lơ láo”. Bộ khung cán bộ giảng dạy từ miền Bắc vào cùng với Ủy ban quân quản tách thầy trò chúng tôi làm hai nhóm lao động buổi sáng và học chính trị buổi chiều. Đạo đức xã hội chủ nghĩa được đúc kết thành vè “Lao động là vinh quang – Ngồi không ở nể xóm làng cười chê”. Theo đó, người Cộng sản cho rằng chỉ có làm việc bằng cơ bắp dưới chỉ trỏ của cán bộ đảng viên mới là lao động đúng nghĩa. (…) Chúng tôi còn tham gia đào kênh thủy lợi nam sông Hương. Đây là công trình thủy lợi trọng điểm của Thừa Thiên – Huế nhằm kéo nước từ sông Hương băng qua núi đồi làng mạc phía tây nam thành phố để tưới cho 5000 mẫu ruộng thuộc khu vực huyện Hương Thủy. Nhưng, nước không thể chảy ngược, nên nước không thể về tới ruộng đồng theo ý chí của đảng Cộng sản, mặc dù hàng trăm ngàn công sức lao động đã bỏ ra, hàng ngàn ngôi mộ và hàng trăm ngôi nhà phải di dời. Kênh thủy lợi biến thành đường đi và hang ổ của chuột.”[2]
Kiêu ngạo cộng sản, không chỉ là một thái độ, mà là một căn bệnh. Nó xuất phát từ niềm tin vào tính “thần thánh” của chủ nghĩa cộng sản. Những nghị quyết của đảng và nhà nước trở thành một thứ cẩm nang, khi cần, đám “tín đồ” cử mở ra, theo đó mà làm hay giải thích tất cả mọi chuyện, một cách hữu lý. Không cần quan tâm chuyện đúng – sai, thắng lợi – thất bại. Vương Trí Nhàn, nhà nghiên cứu văn học miền Bắc, có lần nhận xét: “Ta từng lấy ma nạt người, lấy những cái không ai biết ở đâu, để giải thích những cái ai cũng biết, làm cho người ta không biết đằng nào mà lần. (…) Cái hệ tư tưởng của chúng ta hiện nay nó sắc bén đến nỗi nó đúng với mọi trường hợp trong thực tiễn, và khi nó vận dụng vào một thực tiễn như ở nước ta, thì nó vừa là vũ khí của kẻ đúng, lại là vũ khí của kẻ sai … Tôi đã thấy rất nhiều trường hợp những người thuộc các loại kinh này lầu lầu, nhưng làm sai, và họ lại hoàn toàn biện hộ được cho chỗ sai của họ.”[3]
Chí lý!
Một đặc điểm cộng sản khác: căm thù.
Khi chưa nắm được chính quyền thì gây “căm thù giai cấp” để chiêu dụ người nghèo, gây “căm thù đế quốc” để chiêu dụ người yêu nước và gây “ảo tưởng chân lý” (công bằng, bình đẳng, giải phóng) để chiêu dụ trí thức. Miếng mồi này ấy thế mà hữu hiệu: biết bao người rơi vào bẫy. Căm thù, từ lý thuyết, dần dà trở thành tình cảm: nó biến nhiều người thành cuồng tín.
Một đặc điểm cộng sản khác nữa: đập phá.
Khi nắm được chính quyền rồi là cộng sản bắt đầu đập phá tất tần tật, không trừ một thứ gì, nghèo không tha giàu không bỏ sót, “địch thiệt” cũng đánh mà “địch giả” (là ta) cùng đánh. Đánh truyền thống, đánh quan hệ xã hội, quan hệ gia đình, đánh những giá trị đặc thù của xã hội cũ đến các sinh hoạt vô cùng bình thường và tự nhiên trong cuộc sống. Thái Bá Tân hình tượng hóa đặc điểm này một cách khá cụ thể:
Giao cộng sản quản lý
Sa mạc Sahara,
Thì năm năm sau đó,
Hay thậm chí chỉ ba,
Sa mạc sẽ hết cát.
Vì sao, vì anh này
Lãng phí và thất thoát
Là vô địch xưa nay.[4]
Để củng cố sức mạnh của mình, người cộng sản cần kẻ thù. Không có thì tạo ra. Vì thế, bạn có thể trở thành kẻ thù của đảng và nhà nước bất cứ lúc nào. Chỉ cần dàn dựng một kịch bản. Kịch bản lớn: cải cách ruộng đất, bài trừ văn hóa đồi trụy, học tập cải tạo; kịch bản nhỏ: trốn thuế, lợi dụng tự do dân chủ; kịch bản nhỏ hơn nữa nhắm vào từng cá nhân: vụ Cát Thanh Long, Đinh La Thăng. Vân vân và vân vân. Có thể nói, chế độ cộng sản là một chuỗi vô cùng tận của những kịch bản. Nhiều quá, tính không xuể. Sai ư? Thì sửa. Đúng ra, chẳng sửa gì, chỉ là dàn dựng một kịch bản khác. Cần nước mắt, có ngay nước mắt: khóc trước quần chúng. Cần “bệnh lạ”, có ngay “bệnh lạ”: trường hợp một số quan cức cao cấp bị bệnh và qua đời một cách mờ ám trong thời gian qua.
Không đâu xa, ngay tại Huế, trường hợp Nguyễn Thúc Tuân:
Kịch bản 1: “Ngày 11/12/1980, tại hội trường Ba Đình, trong phiên họp toàn thể của Quốc hội, các đại biểu được nghe báo cáo về một vụ án gián điệp gây rúng động cả nước, mà tội phạm là một đại biểu Quốc hội, một đảng viên, cán bộ cách mạng lâu năm, Trưởng ty Thể dục Thể thao tỉnh Bình Trị Thiên. Người đó tên là Nguyễn Thúc Tuân, “can tội gián điệp, đã bị tòa án nhân dân tỉnh Bình Trị Thiên kết án 18 năm tù. Vì vậy, đương nhiên Nguyễn Thúc Tuân mất tư cách đại biểu Quốc hội.”
Kịch bản 2: Sáu năm sau, “ngày 16/11/1986, ông Tuân được ra khỏi trại cải tạo. Đến ngày 29/11/2001, Chánh án TAND [Tòa Án Nhân Dân] Thừa Thiên-Huế ra quyết định (số 02/QĐ/XA) “xóa án” cho ông Nguyễn Thúc Tuân.”[5]
Một trong những công trình đập phá lớn nhất và gây ảnh hưởng lâu dài nhất đưa đất nước đến chỗ kiệt quệ: triệt tiêu guồng máy thương nghiệp năng động và phong phú của miền Nam. Tôi còn nhớ câu khẩu hiệu được kẽ trên nhiều bức tường hay giăng ngang đầu ngõ ở các khu phố:
Con bò có một cục u
Ai mà buôn bán thì cũng ngu như (con) bò
Cấm buôn bán, công an và thuế vụ trở thành một đội ngũ kiêu binh, tự tung tự tác, chuyên lùng sục, bắt bớ và tịch thu bất cứ vật dụng hay sản phẩm gì mang ra trao đổi trên thị trường. Thay thế cho buôn bán là một chế độ bao cấp toàn diện mà hậu quả là đẩy lùi đất nước về cả trăm năm trước.
Một trích đoạn khác, cũng của Nguyễn Thị Kim Thoa:
“Cải tạo xong thì đến lượt đổi tiền. Đổi tiền hai lượt cách nhau mấy tháng. Không riêng gì tư sản, tất cả nhân dân Miền Nam đều bị lột sạch, bất kể giàu nghèo. 1000 đồng tiền Ngụy đổi lấy 01 đồng tiền cách mạng. Qua hai lần đổi tiền như thế từ tháng 6. 1975 gia đình tôi có 6 nhân khẩu cầm hơi hàng ngày với ba khẩu phần được mua hàng tháng tổng cộng 12kg gạo, 36kg khoai sắn mốc hay bột mì, bo bo, 1,5 kg thịt heo. (…) Còn có nhiều gia đình bi đát gấp mười gấp trăm lần anh chị chúng tôi: Cha anh đi học tâp cải tạo chẳng biết bao giờ về, anh vượt biên bị bắt, nhà cửa bị cướp, mẹ mất việc, con không được vào đại học phải lê la đói khát đầu đường xó chợ hoặc phải đi kinh tế mới. Tình cảnh chung của nhân dân Huế và nhân dân miền Nam là như thế. Không có gia đình nào là không bị cải tạo. Không Ngụy quân thì Ngụy quyền, không tư sản, trí thức thì cũng là dân Ngụy đều bị cải tạo, có nghĩa là đều bị ăn cướp.”[6]
Một công trình đập phá khác còn tàn khốc hơn nữa: tiêu diệt nền Văn Học Miền Nam.[7] Tịch thu, đốt sách đồng thời truy bức và đưa những nhà văn, nhà thơ và nhà nghiên cứu miền Nam vào tù rõ ràng là chính quyền cộng sản lập lại chính sách “phần thư khanh nho” của Tần Thủy Hoàng thuở nào. Thời gian này, tôi đã ở trong trại tù, không có dịp chứng kiến tận mắt. Mời đọc lại một mẩu tin trên nhật báo “Sài Gòn giải phóng” ngày 25/5/1975:
“Ngày 23-5-1975, trên nhiều đường phố Sài Gòn, “khí thế ra quân” của chiến dịch vô cùng sôi nổi: “Đoàn thanh niên nam nữ đi qua các đường phố và hô tonhiều khẩu hiệu đả đảo văn hoá ngoại lai đồi truỵ mất gốc phản động. Đi đầu là xe phóng thanh với một biểu ngữ dài có ghi: ‘Đội thanh niên sinh viên học sinh xung kích bài trừ văn hoá dâm ô phản động’. Theo sau là sinh viên, học sinh sắp hàng bảy, hàng tám xuất phát từ trụ sở của lực lượng thanh niên tự vệ Thành phố, số 4 Duy Tân. Đoàn diễn hành kéo dài có đến hàng cây số đường, tất cả mọi người đều có một tấm biểu ngữ trên tay (…) Ngay sau cuộc tuần hành trên đường phố của hàng chục ngàn thanh niên vệ binh, “đồng bào và các tiệm sách đã đem nộp cho đội Quận 7 một số lượng sách báo đồi trụy phản động, tất cả là mười ba xe ba gác. Ngoài ra các hàng sách bày bán trên hai lề đường Lê Lợi, Công Lý cũng tự nguyện dọn sạch và đem nộp. Trên đường Hai Bà Trưng cũng có ba nhà sách tự động đem nộp trên hai mươi cuốn. Đặc biệt, cùng ngày này, 22-5-1975, nhà sách Phúc Bài, 186 Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn 3 đã tự nguyện đem nộp cho Hội Bài trừ Văn hoá đồi truỵ phản động bốn ngàn cuốn sách các loại”.[8]
Trích đoạn từ tập Hồi Ký của Nguyễn Hiến Lê sau đây cho thấy hình ảnh tiêu biểu của chiến dịch đập phá quy mô đó diễn ra trên toàn miền Nam:
“Một trong những công việc đầu tiên của chính quyền là hủy tất cả các ấn phẩm (sách, báo) của bộ Văn hóa ngụy, kể cả các bản dịch tác phẩm của Lê Quí Đôn, thơ Cao Bá Quát, Nguyển Du; tự điển Pháp, Hoa, Anh cũng bị đốt. Năm 1976 một ông thứ trưởng Văn hóa ở Bắc vào thấy vậy, tỏ ý tiếc. Nhưng ông thứ trưởng đó có biết rõ đường lối của chính quyền không, vì năm 1978, chính quyền Bắc chẳng những tán thành công việc hủy sách đó mà còn cho là nó chưa được triệt để, ra lệnh hủy hết các sách ở trong Nam, trừ những sách về khoa học tự nhiên, về kĩ thuật, các tự điển thôi; như vậy chẳng những tiểu thuyết, sử, địa lí, luật, kinh tế, mà cả những thơ văn của cha ông mình viết bằng chữ Hán, sau dịch ra tiếng Việt, cả những bộ Kiều, Chinh phụ ngâm… in ở trong Nam đều phải hủy hết ráo.
Năm 1975, sở Thông tin văn hóa thành phố Hồ Chí Minh đã bắt các nhà xuất bản hễ sách nào còn giữ trong kho thì phải nạp hai hay ba bản để kiểm duyệt: sau mấy tháng làm việc, họ lập xong một danh sách mấy chục tác giả phản động hay đồi trụy và mấy trăm tác phẩm bị cấm, còn những cuốn khác được phép lưu hành.
Nhưng đó chỉ là những sách còn ở nhà xuất bản, những sách tuyệt bản còn ở nhà tư nhân thì nhiều lắm, làm sao kiểm duyệt được? Cho nên sở Thông tin văn hóa ra chỉ thị cho mỗi quận phái thanh niên đi xét sách phản động, đồi trụy trong mỗi nhà để đem về đốt. Bọn thanh niên đó đa số không biết ngoại ngữ, sách Việt cũng ít đọc, mà bảo họ kiểm duyệt như vậy thì tất nhiên phải làm bậy. Họ vào mỗi nhà, thấy sách Pháp, Anh là lượm, bất kì loại gì; sách Việt thì cứ tiểu thuyết là thu hết, chẳng kể nội dung ra sao. Lần đó sách ở Sài gòn bị đốt kha khá. Nghe nói các loại đồi trụy và kiếm hiệp chất đầy phòng một ông chủ thông tin quận, và mấy năm sau ông ấy kêu người lại bán với giá cao. Lần thứ nhì năm 1978 mới làm xôn xao dư luận. Cứ theo đúng chỉ thị “ba hủy”, chỉ được giữ những sách khoa học tự nhiên, còn bao nhiêu phải hủy hết, vì nếu không phải là loại phản động (một hủy), thì cũng là đồi trụy (hai hủy), không phải phản động, đồi trụy thì cũng là lạc hậu (ba hủy), và mỗi nhà chỉ còn giữ được vài cuốn, nhiều lắm là vài mươi cuốn tự điển, toán, vật lí…”[9]
Huế, ngoài tai ách chung đó, còn chịu đựng một tai ách riêng: sáp nhập tỉnh.
Vừa chiếm xong Huế, cộng sản cho sáp nhập ngay hai tỉnh Quảng Trị và Quảng Bình vào Thừa Thiên-Huế thành Bình-Trị-Thiên.[10] Người Huế mỉa mai: Quảng Bình “trị” Thừa Thiên. Huế trở thành thành phố bị “trị”. Chữ nghĩa vận vào hiện thực. Do sáp nhập, nhiều cán bộ từ Quảng Bình được chuyển vào “chi viện” cho Huế, nắm giữ những vai trò quan trọng. Là thành phần được tin cậy và được đào luyện lâu năm trong lò cộng sản, họ là những ông chủ mới, quyền uy và hống hách, trở thành nỗi sợ hãi thường xuyên của người Huế, vì gia đình nào cũng có dính dáng đến “ngụy”, kể cả gia đình của những nhà trí thức, sinh viên học sinh thân cộng trong phong trào đô thị. Lập luận của họ rất đơn giản: đã sống với “ngụy” là có nhiễm máu “ngụy”. Thế là, họ tìm mọi cách thủ lợi cho bản thân và gia đình, hoặc bằng chiếm đoạt hoặc bằng nhũng lạm. Hiện tượng này gây bất mãn, không những chỉ trong người dân bình thường mà ngay trong hàng ngũ cán bộ. Đây là lý do chính đưa đến một phong trào đòi tách tỉnh về sau, mà một trong những người khá lớn tiếng là Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phải đến năm 1989, người Quảng Bình mới khăn gói ra đi. Khi vào, vô sản. Khi đi, hữu sản. Trắng đen lộ rõ: lý tưởng cộng sản, rốt cuộc, không khác gì chuyện được, thua trong lịch sử, chỉ tóm gọn vào hai chữ: quyền và lợi.
Đã bị tước đi cái quyền mua bán đổi chác trong một xã hội bình thường, lại còn bị người trên rừng trở về và người ngoài Bắc tràn vô lấn chiếm và ức hiếp, người Huế cảm thấy mất đất đứng ngay trên thành phố của mình. Tức nước vỡ bờ, trong khoảng thời gian từ cuối năm 1977 đến đầu năm 1978, dân Huế đã tiến hành nhiều hoạt động chống đối chính quyền cộng sản qua một loạt sự kiện lớn, nhỏ tại nhiều nơi:[11] treo cờ VNCH tại Ty Thông Tin Thừa Thiên-Huế, trong chợ Đông Ba, tại Nhà Hát Lớn, phá đài liệt sĩ trước Phú Văn Lâu,[12] phá Đài Phát Thanh Đông Hà, ném lựu đạn vào buổi biểu diễn văn nghệ bộ đội ở Phú Vang…Quy cho những hoạt động trên là phản động dưới sự tổ chức của “Mặt Trận Phục Quốc Trị-Thiên” do ông Phạm Lự cầm đầu và “Mặt Trận Thống Nhất Dân Quân Phục Quốc” do các nhà giáo Nguyễn Nhuận, Trần Ngọc Quờn và Tống Châu Khang chủ xướng, chính quyền cộng sản ra tay đàn áp, bắt giữ hàng ngàn người và đưa ra xét xử công khai trong một phiên tòa – về sau, được gọi là “Vụ Mậu Ngọ” (1978) – diễn ra tại giảng đường Karate, trường Đại Học Sư Phạm Huế. Tất cả những người dính líu đều bị lãnh những bản án nặng nề. Tám (8) người thuộc thành phần lãnh đạo như Phạm Lự, Phan Ngọc Lương, Nguyễn Nhuận, Tống Châu Khang, Mai Thị Cặn…bị kết án tử hình; chín (9) người bị chung thân và hàng chục người khác bị tù từ 3 năm đến 20 năm; có người (anh Đinh Hữu Sanh) lãnh án 26 năm. Ngoài ra, hàng trăm người khác tiếp tục bị truy đuổi khắp nơi từ Huế vào Sài Gòn, đến tận các tỉnh miền Tây xa xôi như Rạch Giá, Cà Mâu. Án tử hình được thi hành một thời gian ngắn sau phiên tòa. Theo nguồn tin từ dân chúng địa phương, bốn người bị xử bắn tại khu vực Chín Hầm và ba người bị xử bắn ở Quảng Trị và một nơi khác. Riêng bà Mai Thị Cặn, người mang chất nổ định phá nổ phòng “Trưng Bày Tội Ác Chiến Tranh Mỹ-Ngụy”, thì cắn lưỡi tự tử trong nhà giam. Đây là vụ dấy loạn lớn nhất, quy mô nhất và có số người bị tử hình nhiều nhất trên toàn miền Nam, sau biến cố 4/1975.
Trong số những người bị tử hình, tôi quen thân với Phan Ngọc Lương. Anh sinh năm 1940 tại Hương Trà, theo học trường Võ Bị Sĩ Quan Đà Lạt khoá 17. Năm 1968, anh là Thiếu Tá Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3,Trung Đoàn 3, chỉ huy trận đánh giải tỏa khu Thành Nội Huế từ tuyến đường cửa An Hòa năm Mậu Thân. Năm sau, 1969, trong trận đụng độ lớn ở Thanh Quýt, Quảng Nam giữa tiểu đoàn tăng viện của anh và bộ đội cộng sản, anh bị thương nặng, được trực trăng chở đi cấp cứu tại Hạm Đội 7. Anh được cứu sống nhưng chịu một mất mát lớn: cụt một chân ngang tận háng, phải thường xuyên đeo chân giả, đi, đứng hay ngồi đều rất khó khăn; bàn tay trái bị teo rút, gần như không sử dụng được. Trong trận nầy, nhờ cứu được một cố vấn Mỹ thoát chết, anh được Quốc Hội Hoa Kỳ trao tặng huy chương “Ngôi Sao Bạc”. Tuy là một sĩ quan tác chiến, nhưng anh thích giao du với giới trí thức văn nghệ sĩ ở Huế, kể cả những thành phần tả khuynh như các nhà giáo Võ Văn Đông, Văn Hữu Tứ và đặc biệt, chơi khá thân với Trịnh Công Sơn. Sau trận giải tỏa Huế thành công, tiểu đoàn anh được lưu lại ở thành phố trong một thời gian để giữ gìn an ninh trật tự. Vào một ngày tháng 4/1968, anh tổ chức một buổi văn nghệ dành cho lính trong phòng hội của trường Mỹ Thuật Huế tọa lạc trong Đại Nội, nơi Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn trú đóng, với sự góp mặt của một số giáo chức, bằng hữu và văn nghệ sĩ địa phương, trong đó có Trịnh Công Sơn và tôi (Trần Doãn Nho). Tối hôm đó, Trịnh Công Sơn hát một số bài tình ca và một đoạn trong ca khúc vừa mới sáng tác của anh đề cập đến vụ thảm sát Mậu Thân, mà sau này được hoàn chỉnh thành “Bài ca dành cho những xác người”. Riêng tôi, tôi góp phần với ca khúc “Lòng mẹ Việt Nam” của Lê Thương.
Sau 4/1975, do thương tật và đã giải ngũ, anh được miễn đi tù cải tạo, chỉ “học tập” tại địa phương. Tuy nhiên, anh không chịu ngồi yên mà tích cực tham gia các phong trào chống đối với tư cách “cố vấn”, do đó, bị xếp vào thành phần lãnh đạo và bị kết án tử hình. Theo lời kể của một số tù nhân trong lao Thừa Phủ, thì ngày ra pháp trường, khi đi ngang qua sân nhà lao, anh nói thật lớn cho mọi người cùng nghe, “Các anh em nhớ, hôm nay là ngày giỗ của Phan Ngọc Lương.” Gia đình không hề được thông báo về ngày xử bắn. Chỉ khi được mời đến nhà lao để nhận lại “tư trang” và “di chúc”, thì thân nhân mới hay anh đã đền nợ nước. Người thân trong gia đình anh cho biết, “di chúc” của anh ngắn gọn, chữ viết rõ ràng, dặn dò vợ con một số việc riêng. Cuối thư, anh xin lỗi gia đình, đồng thời tỏ ý “không buồn phiền và trách móc ai.”
Huế được hưởng một nền hòa bình trong tan tác và tan nát!
Bế tắc, Huế bung ra khắp nơi: đi buôn. Do tình trạng kiểm soát hàng hóa nghiêm ngặt trên mọi tuyến đường, tất cả hình thức buôn bán đều bị quy cho là buôn lậu. Để thoát khỏi mạng lưới công an và thuế vụ, con buôn phải chuyển hàng qua từng chặng. Huế là chặng trung chuyển, nên hàng từ Lào về, từ Hà Nội vào hay từ Sài Gòn ra đều dừng lại ở Huế trước khi đi tiếp. Không lâu sau tháng tư 1975, dân Huế (đúng ra, phải nói là phụ nữ Huế) vượt vĩ tuyến 17 ra miền Bắc, mua bán tem phiếu, thuốc tây, đồng hồ, vàng, xe đạp…, đồng thời móc ngoặc với đủ thứ cơ quan nhà nước từ tỉnh, huyện đến trung ương, để chuyển hàng hóa từ quốc doanh ra thị trường chợ đen. Bản thân tôi, trong những ngày xuôi Nam ngược Bắc kiếm sống, tôi đã gặp người Huế ở nhiều nơi khác nhau: chợ Ba Đồn (Quảng Bình), chợ Vinh (Nghệ An), chợ Rồng (Nam Định), chợ Đồng Xuân (Hà Nội), chợ Sắt (Hải Phòng) ở phía Bắc cho đến vùng Long Khánh, các chợ đầu mối ở Sài Gòn hay các chợ Bạc Liêu, Năm Căn, nơi tận cùng đất nước ở phía Nam. Người Huế buôn đủ loại hàng, từ những hàng tạp hóa lỉnh kỉnh hay hàng đại “xịn” như trầm, vàng cho đến những mặt hàng kồng kềnh như máy kéo, máy nổ, kể cả những thứ hàng đặc biệt như áo lính NATO và có khi cả xác lính Mỹ. Không những thế, còn kiêm luôn cả những “dịch vụ” không tên khác: chạy cò, bán vé chợ đen, nhảy tàu, gom hàng, chuyển hàng…Bằng những hoạt động tự phát này, vô hình trung, dân Huế “tập” cho người miền Bắc thói quen buôn bán kiểu thị trường. Đồng thời, qua phong cách, qua trình độ văn hóa, họ góp phần giúp cho dân bên kia vĩ tuyến có được hình ảnh thực sự về tính cách và hoàn cảnh của đồng bào họ ở trong Nam, xóa tan đi những thành kiến mà nhà nước cộng sản gán cho người dân sống dưới chế độ VNCH trước đó.
Đi buôn (lậu), ngoài việc kiếm sống, còn là một nỗ lực của dân Huế nói riêng và dân miền Nam nói chung trong cuộc chiến chống lại cơ chế bao cấp của nhà nước cộng sản. Cùng tắc biến, biến tắc thông. Nhờ thế, dù phải trải qua vô vàn khó khăn, hàng hóa được lưu thông, giúp giải quyết một phần nào đời sống của rất nhiều người trong hoàn cảnh ngặt nghèo cùa đất nước dưới chế độ toàn trị.
(còn tiếp)
[1] Tinh thần, ý chí chống hạn không biết mệt mỏi của người dân lao động: không để lúa thiếu nước nghẹn đòng, toàn xã xuống đồng vắt đất ra nước, thay trời làm mưa, đưa nước đến từng chân ruộng, từng gốc lúa.
https://chunom.net/Tu-dien/Y-nghia-cua-tu-vat-dat-ra-nuoc-thay-troi-lam-mua-69053.html
[2] Nguyễn Thị Kim Thoa, Những chặng đường Y khoa của tôi
Những chặng đường Y Khoa của tôi — Diễn Đàn Forum (diendan.org)
[3] Vương Trí Nhàn, Nhật ký chiến tranh (1972-1975)
https://vandoanviet.blogspot.com/2021/03/nhat-ky-chien-tranh-ky-1.html#more
[4] Thái Bá Tân, Những câu nói nổi tiếng về Cộng Sản. Xem trang Đào Viên:
https://www.daovien.net/t6548p20-topic
https://tienphong.vn/vu-an-gian-diep-35-nam-truoc-cu-gia-101-tuoi-keu-oan-post859330.tpo
[6] Nguyễn Thị Kim Thoa, Những chặng đường Y khoa của tôi
Những chặng đường Y Khoa của tôi — Diễn Đàn Forum (diendan.org)
[7] Nguyễn Hiến Lê, Hồi ký, tập III
[8] Saigon Giải phóng (nhật báo) ngày 25-5-1975. Xem:
[9] Nguyễn Hiến Lê, Hồi ký, Phần IV, chương XXX, tr. 492, 493
https://honguyentrungnghia.com/wp-content/uploads/2021/10/hoi-ky-nguyen-hien-le.pdf
[10] Nhiều tỉnh khác cũng bị sáp nhập: Phú-Khánh (Phú Yên-Khánh Hòa), Nghĩa-Bình (Quảng Ngãi, Bình Định)…
[11] Theo tài liệu của Ty Công An Bình Trị Thiên và Viện Kiểm Sát Nhân Dân Bình Trị Thiên, thì nhà cầm quyền cộng sản “đã điều tra, triệt phá thành công nhiều tổ chức phản cách mạng như tổ chức “Mặt trời dân tộc cách mạng Đảng”, “Mặt trận phục quốc Trị Thiên”; ngăn chặn hơn 149 vụ với 1168 người, bắt 7 nhóm với 79 tên chuyên móc nối, tổ chức người trốn đi nước ngoài để lấy tiền, vàng…” Xem:
[12] Trích đoạn: “Năm 1975, sau ngày đất nước thống nhất, ngay trên sân đình Nghinh Lương, trước Phu Văn Lâu, một đài liệt sĩ cao chừng 3,5m được bộ đội nhanh chóng dựng lên bằng vật liệu tạm (tôn với gỗ), sơn đỏ, kẻ chữ bằng sơn vàng: “Tổ quốc ghi công”. Tác giả thiết kế công trình kia là trung tá Hồng Khang, trưởng phòng Doanh trại quân khu IV bấy giờ. Năm 1977, đài liệt sĩ kia bất ngờ bị một bàn tay nào đấy giật mìn phá vỡ tung. Hầu tránh dư luận bất lợi, ngay trong đêm, lực lượng quân đội và công an được điều đến Nghinh Lương đình để dọn dẹp hiện trường, đồng thời nhanh chóng dựng lại đài liệt sĩ y như cũ trước bình minh.” (Phanxipăng)
Loạt bài Nỗi Huế của anh Trần Doãn Nho thật hay, thật có ích, về những tang thương và nỗi niềm của Huế, của Việt Nam.