Trang chính » , Tùy bút Email bài này

Nỗi Huế – Tang thương (kỳ 3)

Mùa xuân 1968, Huế đã từ dương bản sang âm bản, từ “diễm xưa” đến “bài ca trên những xác người”: thảm sát Mậu Thân.

Sáng mồng 2 Tết,[1] sau một đêm kinh hoàng vì nghe tiếng súng nổ vang rền khắp nơi và tiếng hô xung phong từ cửa thành (cửa Hữu), tôi thức dậy, vô cùng hoang mang. Mở cửa bước ra ngoài, đứng ở góc vườn trước nhà, nhìn về hướng đông, tôi thực sự hoảng hốt. Khuất sau mấy đọt tre, trên ngọn Kỳ Đài vươn cao trong bầu trời thấp xám, là lá cờ! Không phải là lá cờ thân quen vẫn nhìn thấy hàng ngày mà là một lá cờ lạ hoắc: cờ Mặt Trận Giải Phóng.

Thôi rồi, Việt Cộng đã chiếm Huế!

Lá cờ không tung bay theo gió mà vướng víu quanh cột cờ, rủ xuống, thảm hại. Như cờ tang. Vì trời không có gió? Vì vướng víu cái gì? Không rõ. Suốt hai mươi sáu ngày trên ngọn Kỳ Đài, lá cờ vẫn như thế, ủ rũ. Bầu trời mênh mông, nặng, tủi hờn. Mùa xuân thảng thốt, vỡ. Lá cờ làm cho cái không khí vốn đã ảm đạm, lại còn tan tác, ảm đạm thêm.

Huế không phố, không nhà. Không nắng, không trăng, không hoa, không mứt bánh, không hột dưa, không tổ tiên, ông bà, không truyền thống. Không gì cả. Không có tiếng cười, đã hẳn – mà tiếng khóc cũng không. Chỉ có tiếng súng nổ chốc chốc vang lên, phá tan đi cái lặng lẽ đến rợn người. Huế rơi vào trạng thái âm bản. Người người đi đi, đứng đứng như những bóng ma. Chợt gặp nhau, ai cũng tưởng ai đang từ cõi chết trở về. Mây, một khối màu chì đông cứng trên bầu trời xám đặc. Lạnh. Mưa, thỉnh thoảng, rơi từng giọt nhỏ hãi sợ. Cỏ cây rưng rưng. Uất, nghẹn. Ngoài tiếng súng, thành phố mất đi tiếng động cuộc đời. Mọi thứ thin thít im, tự thu mình vào bên trong, khe khẽ, rón rén, ngập ngừng. Không ai giúp gì được ai. Mình cũng chẳng giúp gì được chính mình. Sợ. Nỗi sợ còn ghê gớm hơn cả cái chết.

Một tuần sau, buổi sáng, bỗng nghe tiếng loa từ khu Quân Cụ, cách nhà chừng ba, bốn cây số, vang lên. Thì ra, quân đội VNCH còn giữ được đồn Mang Cá, khu Tịnh Tâm, phi trường Thành Nội, vùng Tây Linh, vùng chợ Cầu Kho, tất cả gồm khoảng một phần tư khu vực nội thành. Thế là, cả gia đình tôi vội vàng dắt díu nhau băng từ vườn nhà này qua vườn nhà khác. Đạn pháo, mặc, súng nổ, mặc. Nấp, chun, lủi, bước, chạy vội về phía có tiếng loa. Vừa đến khu hồ Tịnh Tâm, thấy bóng những người lính VNCH canh gác chỗ này chỗ nọ, vẫy tay giục chúng tôi đi tiếp, mừng, biết đã đi đến chỗ an toàn. Gia đình tôi ở tạm trong nhà một người quen. Dân ở các vùng khác trong Thành Nội cũng tìm cách thoát về đây. Cư dân Cầu Kho, Mang Cá hào phóng tiếp nhận hết, lạ cũng như quen. Nhà nào cũng đầy người. Tất cả chia xẻ nhau cái ăn, cái mặc, không ai tiếc ai cái gì. Cả khu Mang Cá và chợ Cầu Kho bỗng nhiên hình thành một Huế khác, bấp bênh, căng thẳng, hy vọng và chờ đợi.

Cho đến cuối tháng Giêng.

Vừa mới nghe đài phát thanh loan tin Việt Cộng rút đi, trong lúc ai cũng đang chờ lệnh, tôi nóng ruột, vội vàng cùng bà chị trở về thăm nhà. Mọi con đường còn vắng tanh. Khi đến đường Lê Huân, cách nhà chừng hai cây số, thấy có xác bộ đội. Từ đó trở lên phía thành, nhất là trên các con đường quanh quanh phường Tri Vụ, Thuận Cát, khu Cầu Đất, khu cống Vĩnh Lợi, vùng Tây Lộc, khu phi trường, vân vân, nơi diễn ra những trận đánh vô cùng ác liệt, xác bộ đội năm rải rác khắp nơi, chỗ một, hai xác, chỗ thì mười, mười mấy xác nằm vắt lên nhau. Có đến hàng trăm. Nhiều xác đã trương phình, mùi hôi bốc lên nghẹt thở. Hai chị em nhắm mắt, bịt mũi mà đi. Ngay trước cửa ngõ nhà tôi, ba, bốn xác bộ đội nằm vắt vẻo bên hàng chìa tàu. May mà trong vườn cũng như trong nhà, không thấy có xác nào. Những đứa con miền Bắc nằm lại trên những con đường xa lạ xứ Huế, trông khuôn mặt ai cũng còn rất trẻ.

clip_image002

Tôi và đứa cháu ruột một tuổi trên nền nhà trần trụi sau cuộc chiến Mậu Thân (3/1968)

Hầu hết khu vực tôi ở, nhà cửa, vườn tược tan hoang. Căn nhà tôi bị phá hủy hoàn toàn, vết đạn lỗ chỗ khắp nơi. Cây cối trong vườn bị bom đạn cày xới tơi tả. Hai cây nhãn cổ thụ trái rất ngon vốn là một nguồn lợi mà mẹ tôi dùng để nuôi tôi đi học, trốc gốc, cành nhánh gãy đổ bịt hết lối đi. Hầm hố hiện diện khắp nơi trong vuờn, kể cả một cái hầm dài mà bộ đội đào chung quanh và xuyên dưới thềm nhà.

Vừa bước vào, đang ngậm ngùi nhìn đống gạch vụn, chợt một tiếng hô lớn vang lên,“Đứng lại, giơ tay lên!” Tôi rụng rời, đứng sững, run rẩy đưa hai tay lên trời. Từ sau bức tường nhà đổ nát, hai lính Thủy Quân Lục Chiến xuất hiện. Hoàn hồn, thế mà cứ tưởng là Việt Cộng! Họ chĩa súng vào hai chị em, mặt mày căng thẳng. Một người tiến lại, “Đứng yên, không được nhúc nhích.” Anh ta sờ nắn khắp người tôi, rồi bảo, “Xắn quần lên, cởi dép ra.” Tôi làm theo. Anh ta xem kỹ ống chân và bàn chân tôi. Sau đó, hỏi, giọng hơi có chút thân thiện:

– Ở đâu đến, vào đây làm gì?

– Dạ, đây là nhà tôi. Chúng tôi lánh nạn ở Mang Cá, nghe tin Việt Cộng rút đi, nên vội về xem nhà cửa ra sao.

– Chắc không?

– Dạ chắc.

– Trước làm gì?

– Sinh viên.

– Lại sinh viên, sinh viên! Còn đây là ai?

– Dạ, chị ruột.

– Giấy tờ đâu, đưa xem.

Chúng tôi đưa giấy căn cước. Xem xong, người lính bảo:

– Được, tôi tin cậu. Chân này không phải là chân đi dép râu. May cho cậu đấy, lớ xớ gặp người khác là đi đời. Đây vẫn còn là vùng chiến trường, chưa được phép vào, biết chưa? Bọn du kích và bọn sinh viên học sinh nằm vùng vẫn còn lẩn quất đâu đây, phải thanh toán trước khi cho đồng bào về nhà.

Hú hồn! Hai chị em chỉ biết lí nhí cám ơn rồi vội vàng rời nhà, lòng vẫn chưa nguôi kinh khiếp.

Quân cộng sản rút đi rồi, để lại một Huế ngổn ngang, tang thương, rách nát. Thành quách tan hoang, người người ngơ ngác. Người gặp người mà vẫn tưởng như đang còn ở trong giấc mơ. Dắt díu nhau từ chỗ tạm trú về nhà cũ, biết là còn sống, biết là mình may mắn, nhưng cõi lòng ai cũng vỡ nát, vụn vằn, đờ đẩn. Những câu hỏi ném vào nhau, thổn thức: Ai còn? Ai mất? Chồng đâu? Con đâu? Chị đâu? Em đâu? Bạn đâu? Thầy đâu? Học trò đâu? Chao ôi, Huế đã làm gì nên tội mà ra nông nổi này! Hơn nửa thế kỷ rồi! Bây giờ Huế đã khác, tất nhiên. Vết tích cuộc chiến năm xưa cũng như cái chết tức tưởi của hàng ngàn người tưởng như đã biến mất sau lớp bụi thời gian và nỗ lực không ngừng nghỉ của nhà cầm quyền cộng sản nhằm xóa nhòa nó.

Nhìn lại thời kỳ đó, trong bài báo “Revisiting Vietnam 50 Years After the Tet Offensive” (Nhìn lại Việt Nam 50 năm sau Cuộc Tổng Tấn Công Tết) đăng trên tạp chí “Smithsonian” (Washington DC, Hoa Kỳ) vào năm 2018,[2] Nguyễn Quý Đức – nhà báo Mỹ gốc Việt, biên tập viên cho các đài phát thanh KALW-FMNational Public Radio – cho rằng ở Việt Nam hiện nay, biến cố 1968 được mô tả như một chiến công anh hùng. Vài năm một lần, bộ máy tuyên truyền nhà nước vẫn cứ tiếp tục tăng tốc ca ngợi nó. “Nhưng về cuộc tàn sát hàng ngàn người dân Huế thì sao? Không một lời,” theo anh. Huế bây giờ rất nhiều khách du lịch. Họ viếng thăm lăng tẩm, hoàng thành, đền đài miếu mạo. “Hướng dẫn viên du lịch nói với họ về quá khứ, nhưng họ làm như không biết những lỗ đạn chọc thủng những bức tường thành bên trong Hoàng Thành và ở khắp nơi. Không có du khách nào được dẫn đi xem những khu mộ tàn sát tập thể y như họ được dẫn đi thăm những ‘cánh đồng chết’ nổi tiếng của Khmer Đỏ ở Cam Bốt.” Đã 50 năm rồi, trong khi Mậu Thân không thể thoát khỏi ký ức của anh và của người dân Huế, thì cuộc thảm sát vẫn bị nhà nước Cộng Sản che giấu, mà anh gọi là một “sự im lặng toàn quốc về biến cố 1968” (The national silence about 1968) và tự hỏi chẳng biết bao giờ sự im lặng đó mới được giở bỏ. Mấy năm trước đây, theo Nguyễn Quý Đức, một nhóm phóng viên truyền hình Pháp-Đức đến nhà anh ở Hà Nội[3] để phỏng vấn về tình hình hậu chiến ở Việt Nam, đi kèm có một phụ nữ là viên chức của bộ ngoại giao Việt Nam. Khi câu chuyện đề cập đến những vấn đề liên quan đến vụ Tổng Tấn Công Tết, thì viên chức đó ngắt lời, cấm bàn về hay nhắc đến đề tài này, nếu không, bà ta sẽ không cho phép cuộc phỏng vấn được tiếp tục. Anh tức giận, nhưng cố gắng thương lượng với bà. Cuối cùng, anh cũng trao đổi được đôi điều với nhóm truyền hình. Nhưng cuộc phỏng vấn ấy không hề được chiếu ở Việt Nam. Họ muốn cả đất nước đều im lặng về cuộc thảm sát mậu Thân ở Huế. Nguyễn Quý Đức không im lặng. Anh lên tiếng bằng cách viết. Thay vì viết để “vinh danh một phiên bản lịch sử do những người còn sống, những người chiến thắng viết,” như bà nhân viên bộ ngoại giao muốn, anh viết là để “vinh danh những người đã chết và tưởng niệm họ,” như lời khuyên của một bạn văn quen, nhà văn Bảo Ninh, tác giả của “Nỗi buồn chiến tranh”. Đó là lý do khiến bài viết trên ra đời.

Nguyễn Quý Đức – vừa đột ngột qua đời tại Hà Nội hôm 22/11/2023 vừa qua – là con của ông Nguyễn Văn Đãi, một công chức cao cấp của VNCH làm việc tại Đà Nẳng. Tết năm 1968, gia đình anh ra Huế ăn Tết. Lúc đó, anh mới chỉ là cậu bé 9 tuổi. Cậu bé Đức chứng kiến cảnh bộ đội vào Nhà Khách Chính Phủ, nơi gia đình được phép ở tạm, bắt cha cậu. “Tôi leo lên giường và cố nhìn ra ngoài. Đám lính bộ đội đã bắt những người đàn ông sắp thành hàng và trói khuỷu tay họ sau lưng. Một lúc sau, họ dẫn giải những người đàn ông đi. Tôi nhìn thấy cha tôi trong đó.” Sau khi Cộng quân rút lui, gia đình Đức trở lại Đà Nẳng, sống trong một cơn khủng khoảng nặng nề: không cách gì tìm ra tông tích của người cha và cũng không biết ông sống chết ra sao. Khi nghe tin Huế khai quật những mồ chôn tập thể, mẹ Đức về Huế mong tìm xác chồng, nhưng bà quá “khiếp hãi khi nhìn thấy những thây ma thối rữa và đầy thương tật,” nên không trở lại nữa. Thế là, “Trong khi những gia đình khác đã chôn cất người thân của họ, lập bàn thờ và đã phần nào khép lại nỗi buồn, thì gia đình tôi vẫn sống trong nỗi đau thầm không giấu giếm này (open secret).” Mãi đến 5 năm sau khi hiệp định Paris được ký kết và hai bên trao trả tù binh, gia đình anh mới biết tin là người cha còn sống nhưng bị đày ải ở một trại tù tại vùng biên giới Trung Quốc. Ông được thả về năm 1980 và được cho phép xuất cảnh qua Hoa Kỳ, nơi Đức đã được mấy người chú giúp đến định cư vào tháng 4/1975. Gặp lại nhau sau nhiều năm xa cách, hai cha con nói chuyện với nhau về quá khứ, nhưng “không bao giờ nói về năm 1968” vì điều đó quá nặng nề. Ông đọc sách, xem phim và cho in một tập thơ với bút hiệu Hoàng Liên – gồm những bài thơ ông đã sáng tác trong thời gian bị giam cầm – với một lời đề tựa ngắn gọn: “Tôi đau khổ, vậy tôi hiện hữu” (I suffer, therefore I am). Dù đau đớn, nhưng gia đình anh có lẽ là gia đình may mắn và “có hậu” nhất trong số hàng ngàn gia đình ở Huế có thân nhân bị quân cộng sản bắt đi năm 1968.

Trong một email trao đổi với tôi ngày 26/1/2018 về bài viết này, Nguyễn Quý Đức viết:

Em ước gì trong những người bộ đội đã tham gia vào vụ giết chóc đó đủ can đảm để nói lên câu chuyện này, bày tỏ một cảm xúc nào đó.  Em chưa hề đọc được một bài nào như vậy nói đến một chút ăn năn, hối hận. Hoặc ít nhất nhìn nhận sự thật.

Đôi khi em cũng bị dằn xé giữa những vết thương cũ, nhu cầu nói lên câu chuyện ngày xưa, và

cái ước mong cho có một thế hệ trong sáng, không bị cái quá khứ đè nặng trong tâm tưởng. Nhưng em nghĩ sụ trong trắng đó phải bắt nguồn từ một lương tâm đã biết nhìn nhận sự cuồng điên, cái ác của quá khứ, để sau đó hướng đến cái thiện trong tương lai, như ở nước Đức, hay phần nào ở Nhật.

Em ít về Huế vì nhiều khi không dám đương đầu với ký ức, uất ức và u ám ở đó.Chính em cũng biết mình đã cúi mặt làm ngơ.

Hàng năm, cứ đến Tết, trong lúc bộ máy tuyên truyền nhà nước vẫn – nói như Nguyễn Quý Đức – “tiếp tục tăng tốc ca ngợi chiến công,” thì có hàng ngàn gia đình vẫn âm thầm cúng kiến và đau xót nhớ đến cái chết thảm của cha, của anh, của con, của em mình. Không bao giờ nguôi. Không gì làm nguôi. Không ai làm nguôi. Di luỵ Mậu Thân mãi mãi còn đó. Là oan trái Huế. Cũng là oan trái Việt Nam. Oan trái cần được giải oan. Đó là lẽ Đất Trời. Ngày nào oan chưa được giải thì mọi chính sách, mọi thủ đoạn tuyên truyền, mọi chạy tội, mọi đổ lỗi, dù trên bình diện cá nhân hay nhà nước, đều chỉ là nước đổ lá môn, nếu không muốn nói là oan trái càng thêm oan trái.

*

Bốn năm sau, chưa tàn nhang khói trên những nấm mồ uất ức, Huế lại nhận chịu thêm những tháng ngày xao xác, căng thẳng, hoảng loạn. Suốt tháng 4/1972, tin chiến sự nóng sốt, dồn dập bay đến hàng ngày: bộ đội cộng sản vượt sông Bến Hải, căn cứ Carrol thất thủ, trung tá Phạm Văn Đính đầu hàng, xe tăng T54 của bộ đội cộng sản miền Bắc xuất hiện trên quốc lộ 1; phi công Trần Thế Vinh tử nạn ở Đông Hà; phòng tuyến Tây Nam Huế bị dồn dập tấn công…Đồng bào từ Đông Hà, Quảng Trị gồng gánh chạy vào tỵ nạn. Huế bận bịu trong thấp thỏm, âu lo và đợi chờ. Rồi cái gì đến, phải đến: cuối tháng 4, thị xã Quảng Trị rơi vào tay Cộng quân. Quân đội VNCH lùi vào lập phòng tuyến Mỹ Chánh.

Huế thảng thốt, bàng hoàng!

Kinh nghiệm Mậu Thân khiến Huế chẳng hề đắn đo: cộng sản đến là đi. Đang tất bật đón tiếp đồng bào tỵ nạn Quảng Trị, Huế quay sang tất bật với chính mình. Nhà nào nhà nấy vội vội vội vàng vàng thu vén đồ đạc, giấy tờ, tài sản. Ngoài đường, xe cộ dập dìu, chen chúc, xe nào xe nấy đồ đạc chất đầy, trực chỉ phương Nam. Đi đâu? Không cần biết, miễn là rời Huế. Làm sao đi? Thì cứ đi cái đã, đến đâu hay đấy. Gia đình giàu có thuê nguyên xe tải, chở đủ thứ vật dụng kồng kềnh: giường, tủ, bàn ghế, áo quần…Gia đình bình thường đèo nhau trên hai, ba chiếc Honda, chỉ mang theo những đồ dùng thật cần thiết móc, cột quanh xe. Và rất nhiều gia đình nghèo, vợ chồng con cái ông già bà già dắt díu nhau ra đi chỉ bằng phương tiện có sẵn của chính mình: đôi chân. Ra đi, bỏ lại Huế đang trong nắng hè rực rỡ.

Bỏ Huế!

Chỉ hai chữ thôi mà âm vang của nó đeo đẳng mãi theo người trên từng đoạn đường vất vả xuôi Nam. Riêng tôi, còn độc thân, đưa gia đình vào Đà Nẳng xong, tôi quay trở lại. Tháng Năm, như một phép lạ, Huế đột nhiên trống rỗng như chưa từng, hoang vắng trong lẫn hoang vắng ngoài. Theo ước tính của chính quyền địa phương, khoảng 70 đến 75% dân Huế đã ra đi, số còn lại tản về tạm trú đâu đó ở các vùng quê. “Bám trụ” Huế hầu hết là những quân nhân, cảnh sát và những công chức có trách nhiệm chính điều hành các công sở.

Chỉ còn một giòng sông vô tư trôi và một khu nội thành lặng lẽ.

thành phố bồng bế nhau

vứt cả rực rỡ hè mới chớm

rùng rùng bỏ chạy

đi đâu?

không biết đi đâu

miễn là xuôi Nam

để lại một cõi lặng

không gian rỗng

sàn diễn trống trơn

những con chó mất chủ chạy rất tự do

và vô vọng

hàng phượng lạc loài

chấp chới bay

gió nắng rong chơi

vòng vèo quanh nội thành ấm ức[4]

Suốt cả tháng, ngày nào tôi cũng chạy quanh Huế, “thưởng thức” một thành phố không người, lạ lùng như trong truyện cổ. Trong lúc bom đạn ngập trời ở Quảng Trị và An Lộc, thì Huế yên ắng. Yên ắng mà căng thẳng, chờ đợi hung tin không biết sẽ đến khi nào. Tuy thế, nhờ trống rỗng, nên chính quyền Huế dễ điều phối chuyện an ninh. Tất cả các nỗ lực đều tập trung vào việc phòng thủ. Về mặt dân sự, một tổ chức đặc biệt ra đời: Sư Đoàn Thuận Hóa, được thành lập bằng sự phối hợp giữa tất cả các nhân sĩ, các viên chức dân cử, các cán bộ dân chính trực thuộc các cơ quan thành phố, các tổ chức nhân dân tự vệ và sinh viên học sinh. Tổ chức này, phối hợp với quân đội và cảnh sát, phụ trách tuần tra, gìn giữ an ninh trật tự, và cứu trợ những người vô gia cư hay những gia đình còn ở lại, do không có điều kiện để rời thành phố xuôi Nam lánh nạn.

Là một sĩ quan biệt phái về dạy học, tôi làm cố vấn cho một tổ chức sinh viên học sinh vừa mới thành lập: Lực Lượng Thanh Niên Sinh Viên Học Sinh Quốc Gia Trị-Thiên. Gồm khoảng từ 60 đến 70 bạn trẻ, lực lượng này là tổ chức hăng hái nhất và năng động nhất của Sư Đoàn Thuận Hóa. Các bạn bắt tay làm bất cứ chuyện gì cần: giữ gìn an ninh khu vực mình ở, tham gia quyên góp và cứu trợ cho những người thiếu đói, tổ chức sinh hoạt và các dịch vụ linh tinh (cắt tóc, dọn dẹp…) tại một số trại tạm cư, thăm viếng và ủy lạo các đơn vị quân đội đang đóng quân phòng thủ quanh thành phố, giúp đỡ những người lính bị lạc đơn vị, vân vân. Các bạn còn được huấn luyện quân sự cấp tốc và được cấp phát súng.

Để có nơi điều hành, các bạn quyết định xin chính quyền thành phố cho sử dụng trụ sở Tổng Hội Sinh Viên Đại Học Huế tọa lạc tại đường Trương Định làm nơi sinh hoạt. Chính quyền bảo là họ không có quyền. Vì trụ sở này là một cơ sở trực thuộc viện Đại Học Huế, nên được hưởng quyền bất khả xâm phạm của quy chế tự trị đại học. Tuy nhiên, với tư cách là sinh viên Đại Học Huế, các bạn trong lực lượng biểu quyết “chiếm” trụ sở này làm nơi điều hành mọi sinh hoạt. Không ngờ, hành vi chiếm dụng này giúp họ phát hiện một sự kiện đầy ý nghĩa: nhà kho của trụ sở sinh viên này là nơi cất giữ vô số báo chí, tài liệu của cộng sản đưa từ trên rừng về. Hóa ra, người cộng sản lợi dụng quyền tự trị đại học để tiến hành những hoạt động chống lại cái chế độ đã nuôi dưỡng họ: biến trụ sở phục vụ quyền lợi sinh viên thành một “căn cứ” hoạt động nội thành của cộng sản. Thay vì giao cho cảnh sát, lực lượng quyết định thiêu hủy toàn bộ số tài liệu này. Trong một buổi chiều hè đầy nắng, cùng với các bạn trẻ reo vui, đứng nhìn ngọn lửa đốt cháy một đống lớn các tài liệu tuyên truyền của cộng sản kéo dài cả mấy tiếng đồng hồ ngay khoảng sân nằm phía trước, tôi bồi hồi nghĩ đến một đất nước hết chiến tranh, được vui sống trong một chế độ dân chủ mà thế hệ chúng tôi đã xuống trường tranh đấu bao nhiêu năm!

Có điều, nỗi mừng vui lúc đó được trả bằng một cái giá rất đắt ba năm sau, 1975, khi quân cộng sản đánh chiếm toàn bộ miền Nam. Ngoài tôi ra, một số lớn các bạn trong Lực Lượng này, dù không phải là lính, công chức hay cán bộ VNCH, đã bị bắt đi tù cải tạo dài hạn. Có bạn nằm trong tù đến 5 năm.

*

Ba năm sau, 1975, chưa hoàn hồn, Huế lại chạy. Lần này, ra đi, trong thâm tâm, ai cũng đau đớn nghĩ rằng: Huế sẽ mất vào tay cộng sản. Thành thử, chạy là chạy…luôn, không bao giờ trở lại. Là bỏ Huế! Chao ôi, hai chữ “bỏ Huế” nghe như nhát dao đâm ngay giữa trái tim. Nhưng làm sao được. Đành thôi, Huế ơi. Trong tâm trạng đó, vừa đưa được một phần gia đình vào Đà Nẵng vào ngày 22 tháng 3, tôi vội chạy Honda quay trở ra để được nhìn Huế lần cuối. Nhưng không kịp nữa rồi! Đến đèo Phước Tượng, quốc lộ I bị cắt, đành phải theo đoàn người, trở ngược vào. Huế mất. Gia đình tôi bị chia hai. Vài ngày sau, Đà Nẵng lại nghe tin bị …bỏ. Thành phố chật ních người hoảng loạn. Kẻ xuôi, người ngược, hớt hơ hớt hãi. Người tìm cách chạy vào phi trường, người thì lên đường tiếp tục xuôi Nam, người lại chạy ra biển. Theo dòng người, tôi ra biển, dẫn gia đình “chạy” từ bến cảng Tiên Sa (Đà Nẳng) đến cảng Cam Ranh; rồi từ Cam Ranh đến đảo Phú Quốc; từ Phú Quốc ngược về Vũng Tàu; từ Vũng Tàu về Sài Gòn ngày 26/4/1975, chứng kiến những ngày hấp hối của thủ đô nước Việt Nam Cộng Hòa.

Cộng sản tiến công, cả miền Nam chạy. Bất cứ chỗ nào nghe quân đội cộng sản sắp tiến vào là chạy. Từ cao nguyên chạy về đồng bằng, từ bắc chạy vào nam, từ các nơi chạy về Sài Gòn, từ đất liền chạy ra biển, trốn ra nước ngoài. Hễ còn chạy được là chạy. Đi bộ, đi xe, đi thuyền, đi tàu, đi máy bay, đi, đi, đi, đi đâu, miễn là thoát khỏi cộng sản. Chạy trở thành một bi kịch lịch sử gắn liền với biến cố 1975: khước từ sự cưỡng bức.

Khúc hát quen thuộc ngày nào tự nó mang ý nghĩa chua chát: Từ bắc vô nam…chia lìa nắm tay![5]

(còn tiếp)


[1] Bộ đội cộng sản bắt đầu tấn công Huế vào khuya mồng Một (29/1) rạng sáng mồng Hai (30/1), kéo dài cho đến gần cuối tháng Giêng năm Mậu Thân (2/1968), tất cả là 26 ngày.

[2] Nguyễn Quý Đức, “Revisiting Vietnam 50 Years After the Tet Offensive” (Nhìn lại Việt Nam 50 năm sau Cuộc Tổng Tấn Công Tết), tạp chí Smithsonian (Washington DC) số tháng 1&2/2018. Xem:

https://www.smithsonianmag.com/history/revisiting-vietnam-50-years-after-tet-offensive-180967501/#:~:text=Fifty%20years%20after%20the%20fact,public%20opinion%20against%20the%20conflict.

[3] Nguyễn Quý Đức mở hai tiệm ăn bán thức ăn Nhật tại Hà Nội.

[4] “Nỗi Huế”, thơ Trần Doãn Nho

[5] Tạm nhái câu hát của Trịnh Công Sơn trong bài “Nối vòng tay lớn”.

bài đã đăng của Trần Doãn Nho

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

2 Bình luận

  • nglu says:

    Anh đừng kỳ vọng CS sẽ có lời xin lỗi với Huế về những tang thương đổ nát do họ gây ra. Với đầu óc chứa toàn cứt sắt, chúng không hiểu từ “xin lỗi” là gì. Những gì đã xảy ra với dân tộc khốn khổ này: CCRĐ, NVGP, đánh TSMB, bắt giam lưu đày truy sát… hàng ngàn quân dân cán chính VNCH… chúng coi đó là bình thường!
    nhà báo Phạm Đình Trọng, nguyên là chiến sĩ thông tin quân miền Bắc, là đảng viên CS đã phải ngửa cổ kêu trời:
    “Lí tưởng cộng sản đã thực sự sụp đổ, đã phơi bày tội ác man rợ chống con người, chống lại bước phát triển tất yếu của xã hội loài người. Những người thực sự là nguyên khí quốc gia, là hiền tài đất nước, có trí tuệ, tài năng và chí khí đều nhận ra tội ác cộng sản, đều tránh xa đảng cộng sản cầm quyền. Thực sự là hiền tài thì dù đã vào đảng trước đây, sớm muộn đều phải nhận ra vai trò lịch sử của đảng cộng sản đã kết thúc, đảng cộng sản không còn chỗ đứng trong lịch sử, đều không thể đành lòng đứng trong đội ngũ cộng sản. Người có lương tri không thể đứng về phía đang là thế lực cản trở dòng chảy tiến hoá của xã hội loài người. Người có trí tuệ không thể đứng về phía tội đồ lịch sử”.
    (https://baotiengdan.com/2023/12/04/chay-chuc-ky-cuoi/)

  • Hoàng Xuân Sơn says:

    Nỗi Huế bao giờ cũng tang thương. Cám ơn Thục.Mừng bạn vẫn có bề dày và chiều sâu của ngòi bút. HXS

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)