Trong một lần gặp gỡ bà con, một người cháu, giáo viên về hưu, thuộc thế hệ của những người trưởng thành trong nước sau 1975, thành thật hỏi tôi: “Tại sao đã gần nửa thế kỷ trôi qua rồi mà các chú các bác ở ngoài đó [hải ngoại] vẫn còn giữ mãi thái độ thù nghịch với nhà nước [Việt Nam] vậy?”
Tôi cười, trả lời, đâu chỉ ở hải ngoại, hiện nay ở trong nước cũng có nhiều người phê phán nhà nước kia mà. Dẫu biết, hễ mở miệng là bị quy cho là thù nghịch và bị bắt vào tù ngay, vẫn có người không sợ, cứ lên tiếng. Điều này không bao giờ xảy ra trong các nước dân chủ, như ở Mỹ chẳng hạn. Phê phán các chính sách của nhà cầm quyền như thế là một sinh hoạt bình thường, không những thế, là cần thiết và không những thế, là dấu hiệu của một xã hội lành mạnh. Nhà cầm quyền xưa nay vốn là quyền lực, nhưng đồng thời cũng là bệnh nhân. Bên cạnh cái mạnh khỏe (biểu kiến), luôn luôn tiềm tàng những mầm bệnh. Chỉ trích và phê phán là toa thuốc. Không chịu uống, cũng phải ép uống. Thuốc đắng dã tật mà! Các ông tổng thống, thủ tướng hay các dân biểu nghị sĩ hay bất cứ quan chức nào đương nhiệm vẫn bị dư luận, báo chí và phe đối lập phê phán, chỉ trích, thậm chí rủa sả hàng ngày về đủ thứ chuyện (thực cũng như bịa), nhưng chẳng ai bị lên án là phản động, là bán nước hay phá hoại. Những “tội” tày đình như thế phải được quyết định bằng các phiên xử công minh của tòa án, chứ không phải bằng sự áp đặt của kẻ cầm quyền. Người bị chỉ trích chỉ có một quyền duy nhất: lắng nghe và sửa đổi hoặc phản bác lại, cũng qua báo chí, hay kiện ra tòa. Người cầm quyền không thể, mà cũng chẳng có nhu cầu, quy chụp hay quay quắt tìm cách bắt bớ để hư-vô-hóa đối thủ. Vì thế, cứ mãi tâng bốc, ca tụng nhà cầm quyền hay nhu mì chịu đựng trước những sai trái của họ như tình trạng ở trong nước hiện nay, không phải là dấu hiệu lạc quan trong một xã hội văn minh. Trong lúc người dân trong nước bị bịt miệng, thì tiếng nói phản biện của hải ngoại, đóng một vai trò rất tích cực trong việc thúc đẩy đất nước tiến bộ, điều ta có thể nhìn thấy ở nhiều mặt sinh hoạt hiện nay ở trong nước.
Người cháu gật gù, tỏ ra hiểu. Tôi đoán: hiểu nhưng chắc khó thông. Người cháu sống thời của cháu 50 năm qua: chịu đựng và làm quen với chịu đựng trở thành một nếp sống, một quán tính sinh tồn. Đụng chạm đến nhà nước, ít hay nhiều, đối với những người sống trong nước – dù trước đây đã từng chịu ảnh hưởng của chế độ cũ trước 1975 – đều là “taboo”, là phạm thượng. Nó tạo thành thứ văn hóa chịu đựng, yên thân và sợ hãi. Tôi (biết) sợ nên tôi hiện hữu. Còn tôi, tôi sống thời của tôi. Vâng, thời của tôi: hai mươi năm và năm mươi năm với những quãng đời gấp, gãy, đứt, vỡ, chập chờn nổi trôi giữa cuộc thăng trầm. Nhờ đó, tôi được nếm trải và thụ hưởng (dù không hoàn chỉnh) một thứ văn hóa khác hẳn: được nói. Tôi được nói nên tôi hiện hữu.
Nhìn trở lại lịch sử nước nhà, trong lúc các triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc,[1] hai chúa Trịnh, Nguyễn, nhà Nguyễn, và chế độ cộng sản hiện nay ở trong nước[2] là kéo dài khá lâu, thì một số triều đại khác chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi: nhà Ngô (939-965) 26 năm, nhà Tiền Lê (980-1010) 30 năm, nhà Tây Sơn (1778-1802) 24 năm[3]; hay quá ngắn ngủi: nhà Đinh (968-980) 12 năm và nhà Hồ (1400-1407) 7 năm. Chế độ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) tồn tại vỏn vẹn có 20 năm (1955-1975),[4] ngắn hơn nhà Ngô, nhà Tiền Lê và nhà Tây Sơn, nhưng dài hơn nhà Đinh, nhà Hồ. Dù được hình thành trong một hoàn cảnh lịch sử rối rắm, thực tế là lúc đó, VNCH là một quốc gia như mọi quốc gia khác: có cương thổ, có quân đội, có chủ quyền pháp lý, bang giao với trên 80 quốc gia trên thế giới và là thành viên của nhiều Ủy Ban Liên Hiệp Quốc. Tôi xin được nhắc lại cách nhìn của tôi về VNCH đã từng được trình bày trong một bài viết trước đây.[5]
Khi nói đến VNCH, thường thì người ta chỉ xét đến các chính quyền: chính quyền Ngô Đình Diệm, chính quyền Nguyễn Khánh, chính quyền Nguyễn Cao Kỳ, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, vân vân. Khi nghĩ đến các chính quyền, người ta chỉ nhìn thấy một VNCH đầy những hình ảnh tiêu cực: tham nhũng thối nát, thay ngôi đổi chủ xoành xoạch, lệ thuộc ngoại bang và dựa vào đó, quy cho VNCH là phồn vinh giả tạo, là đầy rẫy các tệ nạn xã hội, là bất công, áp bức, vân vân và vân vân. Thực ra, cũng như những quốc gia non trẻ khác, trong quá trình tiến đến một xã hội văn minh, dân chủ, VNCH nhất định phải trải qua những khiếm khuyết và tiêu cực, nhất là trong khi, một mặt, bị đồng minh o ép và mặt khác, phải tận lực chống đỡ những phá hoại và lũng đoạn từ nhiều mặt được sự chỉ đạo của nhà nước miền Bắc. Tuy nhiên, xét về nhiều khía cạnh khác, VNCH có rất nhiều ưu điểm; những ưu điểm này thường bị che giấu bởi thiên kiến và bị (kẻ thù lẫn đồng minh) xuyên tạc một cách bất công. Trong tập hồi ký “Nhìn Lại Những Chặng Đường Đã Qua”,[6] giáo sư Nguyễn Văn Trung, một trong những khuôn mặt trí thức tả khuynh nổi tiếng hàng đầu ở miền Nam trước năm 1975, đã nêu lên một số ưu điểm đó, tóm tắt như sau:
Chính vì thế, “Dù người dân có khinh ghét chính quyền Sài Gòn thế nào đi nữa, có lẽ ít ai nghĩ rằng mình đang sống trong vùng Mỹ-Ngụy, vùng tạm chiếm mà chỉ nhìn nhận: Việt Nam là một dân tộc, nhưng hiện đang bị chia cắt, có hai thể chế chính trị: Việt Nam Cộng Hòa và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, và mong muốn một ngày nào đó có thống nhất trong hòa bình,” theo Nguyễn Văn Trung.
Tôi hoàn toàn tán thành ý kiến này của Nguyễn Văn Trung. Như nhiều người cùng thế hệ, tôi đã sống trọn hai mươi năm trong lòng chế độ đó và lúc nào cũng cảm thấy tự hào mình là người Việt Nam. Nhìn trở lại, với tôi, đó là một quá khứ thân thuộc, êm đềm, sinh động. Tôi được học hành vui chơi, được mơ ước, được phục vụ, được hưởng thụ và không những thế, tham gia tranh đấu chống lệ thuộc ngoại bang, chống bất công, chống đàn áp, đòi hỏi bầu cử tự do, dân chủ. Và đã từng ăn cơm nhà tù vài lần. Với tôi, VNCH không hoàn hảo, nhưng rộng mở, đa dạng, có chỗ cho thế hệ chúng tôi mở mang kiến thức nhiều mặt, có chỗ cho những tư tưởng và chính kiến khác biệt – thậm chí đối chọi nhau – tồn tại, và có chỗ cho kẻ sĩ và người bình thường sống một cách lương thiện, không cần phải nhịn nhục, bợ đỡ và hô khẩu hiệu.
Những ưu điểm đó làm nên cái mà tôi gọi là “giá trị VNCH”. Giá trị đó là một sản phẩm xã hội, chứ không phải là một lý thuyết chính trị hay lý thuyết đạo đức, cũng không thoát thai từ một nhà cầm quyền nào. Còn nhớ, sáng 30/4/1975, đứng trên đường Trương Minh Giảng, Sài Gòn, nhìn những chiếc xe tăng bộ đội cộng sản chạy vào từ hướng phi trường Tân Sơn Nhất, tôi bàng hoàng nghe như cả bầu trời sụp xuống. Trời nắng mà tràn đầy bóng tối. Trong phút chốc, giá trị đó tưởng như đã vĩnh viễn đi vào hư vô. Không! Hóa ra, cũng như không khí, ta chỉ khám phá ra sự hiện hữu của nó khi không còn chỗ để thở. Không những chỉ với những ai phục vụ cho chế độ VNCH hay người dân bình thường, mà ngay với những thành phần nằm vùng trong hàng ngũ trí thức, sinh viên, học sinh… miền Nam. Sau 1975, chính họ cũng ngột thở. Tự bịt miệng và bị bịt miệng. Khác với các triều đại ngắn ngủi trước đây, chế độ thì không còn nữa, nhưng “giá trị VNCH” dần dần sống lại. Nó “biến” nhưng không hề “mất”, vẫn tiếp tục tồn tại và kéo dài đến ngày nay, 50 năm sau. Ở hải ngoại, đã đành, mà còn lan tỏa vào trong nước dưới nhiều khía cạnh và hình thức khác nhau. Khởi đầu, do những đợt vượt biên, vượt biển liên tục làm chấn động lương tâm nhân loại sau năm 1975. Từ đó, dù vì chính trị hay kinh tế, dù định cư ở Hoa Kỳ, Úc, Pháp, Anh hay các nước khác ở Âu Châu, Phi Châu, Á châu, những người rời bỏ đất nước mang theo tấm lòng của những người sống trong, sống với và yêu mến các giá trị đó. Nói như nhạc sĩ Ngô Thụy Miên, đó là những “Sài Gòn hôm qua” và những “Sài Gòn mai sau” trong tâm thức “hồi hương” của họ:
Những thành phố em sẽ đi qua
Đây Ba-Lê, đây Luân–Đôn, đây Vienne
Nhưng có đâu bằng Sài Gòn hôm qua
Nhưng có đâu bằng Sài Gòn mai sau
Em có mơ ngày hát câu hồi hương
(Em Còn Nhớ Mùa Xuân/Ngô Thụy Miên)
“Ra đi” này kéo theo “ra đi” kia. “Ra đi”, cuối cùng, không còn có nghĩa là “bỏ đi” mà là để trốn thoát, để gìn giữ và để nối dài. Tôi thích nhóm chữ “VNCH nối dài” của sử gia Tạ Chí Đại Trường.[7] Vâng, có một VNCH nối dài. Đó là sự “nối dài” đầy ý nghĩa của một mô thức xã hội, vừa có tính thừa kế những giá trị có sẵn, vừa được bổ sung thêm những giá trị mới từ văn minh phương Tây. Nó đánh dấu sự tồn tại những nét son của phe thua cuộc. Người miền Nam ra đi kéo theo người miền Bắc (cũng tìm cách) ra đi. Những đợt ra đi “không có phép” được nối tiếp với những cuộc ra đi “có phép”. Cho đến nay, người ta vẫn tiếp tục ra đi, dưới dạng này hay dạng khác (vượt biên, vượt biển, lao động, du học, bảo lãnh, hôn nhân, đầu tư…). Trong số đó, không thiếu những người đã từng hoạt động cho cộng sản và con cháu của họ, kể cả con cháu của nhân vật cao cấp trong chính quyền. Bây giờ, dù ở trong hay ngoài nước, hiếm khi nghe nói “giấc mơ hồi hương”. Mà chỉ nghe giấc mơ Mỹ, giấc mơ Nhật, giấc mơ Hàn, giấc mơ Đài hay bất cứ loại giấc mơ gì, miễn là ra khỏi nước. Quê hương, “chùm khế ngọt”, (buồn thay!) chỉ còn là cái “sân sau”. Hải ngoại trở thành “nhà mặt tiền” hấp dẫn, khiến nhiều người trong phe thắng cuộc cũng âm thầm tìm cách bước theo chân kẻ thua cuộc. Nghe nói nhiều cán bộ cao cấp cũng chạy vạy xin (hay mua) sẵn một cái hộ chiếu nước ngoài, dù của một nước Phi châu hay một đảo quốc nho nhỏ nào đó, “Cyprus” (the Republic of Cyprus) chẳng hạn, để… phòng thân.
Nối dài và nối dài và nối dài…
Những “nối dài” đó khiến cho cộng đồng Việt Nam, trong 50 năm qua, từ những nhóm người tỵ nạn tả tơi, rách nát trong quá khứ cho đến hiện nay, bành trướng ra, lớn mạnh hơn, có mặt hầu như trên khắp thế giới, hình thành nên một hiện thực chưa hề có trong lịch sử nước nhà: Cộng Đồng Người Việt Hải Ngoại. Hai chữ “hải ngoại” vừa là một khái niệm địa lý lại vừa đồng nghĩa với một cái gì “khác hẳn” – và trong một số trường hợp, “đối lập” – với (nhà cầm quyền) trong nước. Hiểu cách nào thì hải ngoại cũng là một chỗ dựa, là chỗ bù đắp cho những gì thiếu vắng, thiếu thốn hay bị cấm đoán – cả tinh thần lẫn vật chất – ở trong nước. Hải ngoại khích lệ, dung chứa, lưu giữ và phổ biến, không những nền văn hóa dân tộc đa dạng, mà còn những tiếng nói phản biện mọi mặt từ trong nước ra toàn thế giới. Các cuộc phỏng vấn, các ca khúc, các tác phẩm văn chương, các sách biên khảo xã hội và chính trị của họ được hải ngoại tiếp nhận, xuất bản, phổ biến, phát hành. Hải ngoại trở thành một đối trọng (contre-poids) cần thiết, góp phần thúc đẩy tiến bộ và cải cách đất nước.
Ở một mặt nào đó, có thể nói hải ngoại là một thực thể Việt Nam khác, phong phú, cởi mở và tự do. Nhất là ở Hoa Kỳ. Với tổng dân số được ước tính hiện nay hơn 2,2 triệu người, cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ chiếm khoảng một nửa số người Việt trên toàn thế giới, với một cái tên mà cũng là một nơi chốn đã trở thành biểu tượng để hướng về: Little Saigon. Little Saigon – “thủ đô” của người Việt tỵ nạn – bây giờ là ID (căn cước) của một VNCH nối dài. Tuy không phải là một chính quyền, một tổ chức, một cơ cấu, Little Saigon hoàn toàn mang không khí và hơi thở của những tháng năm VNCH ngày cũ, từ chợ búa, truyền thanh, truyền hình, báo chí cho đến văn chương, âm nhạc và, tất nhiên, lá cờ vàng, bây giờ được xem là “Lá Cờ Tự Do và Di Sản” (Vietnamese Freedom and Heritage Flag)[8] của người Mỹ gốc Việt.[9] Little Saigon – Sài Gòn Nhỏ – tượng trưng cho sự tồn tại của một Sài Gòn Lớn, vốn là thủ đô của VNCH, đã bị đổi tên. Cứ nhìn những ứng cử viên người Việt ra ứng cử các chức vụ hành pháp và lập pháp (trung ương hay địa phương) trong các cuộc bầu cử tháng 11/2024 tại Little Saigon là thấy rõ sự kiện đó: ứng cử viên, dù thuộc đảng nào, đều nêu bật những “giá trị VNCH” để thu hút sự ủng hộ của cử tri. Ngay cả một ứng cử viên người Mỹ gốc Hàn, bà Michelle Steel, khi vận động tái tranh cử dân biểu liên bang, cũng đi theo phương thức đó; thậm chí, trước khi mãn nhiệm (do thua một ứng cử viên Việt Nam là Derek Trần trong cuộc bầu cử dân biểu ngày 5/11/2024), bà đã vận động quốc hội Hoa Kỳ, yêu cầu chính quyền Việt Nam trả tự do cho nhà báo Lê Hữu Minh Tuấn thông qua Dự án Bảo vệ Quyền Tự do của Ủy ban Nhân quyền Tom Lantos vào giữa tháng 12/2024.[10]
Sự lớn mạnh và ảnh hưởng về nhiều mặt của Little Saigon khiến nó trở thành đề tài nghiên cứu cấp đại học. Chẳng hạn như tiểu luận “Creating a Sense of Place: The Vietnamese-Americans and Little Saigon” của Sanjoy Mazumdar, Shampa Mazumdar, Faye Docuyanan và Colette Marie McLaughlin.[11] Theo các tác giả, ở Hoa Kỳ, hầu hết những nhóm người mới đến định cư đều có nhu cầu phải diễn tả căn cước cộng đồng của họ bằng cách tạo ra một không gian và nơi chốn riêng của họ. Chẳng hạn “Chinatown” (Khu Phố Tàu), “Polish enclave” (Cộng Đồng Ba Lan), “Lebanese enclave” (Cộng Đồng Li-Băng/Lebanon), Germantown (Khu Phố Đức), “Little Havana” (Tiểu Havana/cho người Cuba). Tương tự, các tác giả cho biết, “Kinh nghiệm của người Việt Nam là câu chuyện về sự đau đớn và mất mát, mất nước, mất nhà, mất gia đình, mất văn hóa và căn cước.”[12] Cho nên, Little Saigon xuất hiện như là “trung tâm của căn cước và sự gắn bó của cộng đồng”[13]. Nó đã trở nên, “không chỉ là trung tâm thương mãi mà còn là trọng điểm xúc động của cộng đồng người Việt ở Hoa Kỳ.”[14] Vì thế, những người Việt nào không cư trú ngay tại Little Saigon, thì đến “Little Saigon giống như thực hiện một cuộc hành hương. Đối với họ, đó là một ngôi nhà thay thế, một ngôi nhà cách xa nhà (a home away from home), một nơi chốn họ có thể dễ dàng đến để có được một chuyến về thăm nhà. Đối với một cộng đồng người tỵ nạn đã mất quê hương, trong đó có thủ đô Sài Gòn, việc thành lập Little Saigon tượng trưng cho niềm hy vọng từ ‘không nhà’ (homeless) trở thành ‘có nhà’ trở lại (a ‘home’ again). Cuối cùng, chính sự hiện diện của Little Saigon đã truyền tải một cách đầy biểu tượng đến xã hội sở tại khao khát của cộng đồng di dân Việt Nam muốn bám rễ thường trực trên vùng đất tạm dung mới (trong đất Mỹ) trong lúc vẫn duy trì được bản sắc dân tộc riêng của họ thông qua sự chuyển dịch thành công tôn giáo, văn hóa và doanh nghiệp của họ.”[15]
Nhân đây, để bổ sung với ý kiến trên của những người nước ngoài, tôi xin trích dẫn vài nhận xét của Đỗ Ngọc Dũng, một cán bộ cộng sản trong nước, khi, lần đầu tiên, đặt chân đến Little Saigon:
“Đặc biệt là quận Cam, cái tên đã trở nên quen thuộc không chỉ đối với người Việt ở sở tại, mà còn với cả người Việt ở trong nước. Những người Việt xa xứ ở đây đã xây dựng trung tâm sinh hoạt của mình “Sài Gòn Nhỏ”, hay còn gọi là Little Saigon (…) Tôi đặc biệt quan tâm đến đời sống văn học nghệ thuật của người Việt ở đây. Không khó để nhận ra Little Saigon có khá nhiều các quầy sách văn học. Ở đây có cả những bộ “Truyện Kiều” song ngữ Việt-Anh, hay sách của các nhà văn lớn như Tô Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Mạnh Tuấn, Nguyễn Ngọc Tư… Hầu hết các chương trình hải ngoại đều có trụ sở tại đây. Ở đây có hai đài phát thanh phát sóng tiếng Việt là Little Saigon Radio và Radio Bolsa; có bốn đài truyền hình phát sóng 24/24 giờ bằng Tiếng Việt và hai đài truyền hình vệ tinh Saigon Broadcasting Television Network (SBTN) và Hồn Việt TV xem được trên toàn nước Mỹ. Little Saigon – đặc biệt là Westminster – còn là trung tâm của ngành truyền thông giải trí của người Việt sở tại. Những chương trình đặc sắc được tổ chức tại các sân khấu nổi tiếng như Paris By Night, Vân Sơn… Có rất nhiều các ca sĩ, nhạc sĩ, nhà văn, họa sĩ, nghệ sĩ hải ngoại… ngụ cư và hành nghề tại đây. Chúng tôi dành thời gian gần cả buổi sáng dạo quanh phố Little Saigon, gặp rất nhiều hình ảnh quen thuộc. Đó là những ngôi chùa Việt, mô hình chợ Bến Thành, hay những tiệm cơm, phở, phòng khám nha khoa, tiệm spa, nail, văn phòng trung tâm tài chính, văn phòng việc làm, ngân hàng… tất cả đều viết song ngữ Việt – Anh. (…) Người mua, kẻ bán đều niềm nở, thân thiện. Không khí ở đây luôn tấp nập, nhất là vào các dịp cuối tuần, khi diễn ra các phiên chợ đêm (thứ 6, thứ 7, Chủ nhật) (…) Mỗi sáng, người Việt thường qua khu Phước Lộc Thọ để ăn sáng, uống cà phê, đọc sách báo, nghe nhạc, hoặc tán gẫu, đánh cờ tướng… Phía trước khu Phước Lộc Thọ còn có hẳn một dãy bàn ghế dành cho những người cao tuổi, nhà văn, nghệ sĩ ngồi uống café thư giãn, đàm đạo văn chương, nghệ thuật, bàn bạc thế sự (…) Chúng tôi đã tiếp xúc với nhiều người Việt xa xứ có chính kiến khác nhau, nhưng họ chẳng thể phủ nhận, quê hương Việt Nam chỉ có một mà thôi. Và, Little Saigon có vai trò quan trọng duy trì bản sắc văn hóa Việt, giữ mối liên lạc tinh thần giữa cộng đồng người Việt hải ngoại với quê hương.”[16]
Điều thú vị là: Little Saigon này làm phát sinh ra những Little Saigon khác.
Hiện nay, đã có khá nhiều Little Saigon hiện diện tại nhiều địa phương, ở Hoa Kỳ cũng như ở một vài nước khác. Cái tên dễ thương này đã trở thành – hoặc đang được vận động để trở thành – chính thức, như Little Saigon San Jose (California), Little Saigon San Francisco (California), Little Saigon Sacramento (California), Little Saigon Houston (Texas), Little Saigon Vancouver (Canada), Little Saigon in Sydney (Úc), Little Saigon Plaza Bankstown (Úc). Ở những nơi mà cộng đồng người Việt nhỏ bé hơn, lại sống tản mác, không có đại diện trong chính quyền địa phương để vận động đặt tên, cư dân Việt vẫn tự gọi khu sinh hoạt hay khu thương mại địa phương mình cư trú là Little Saigon. Dần dà, dưới mắt người Mỹ, Little Saigon đồng nghĩa với “Khu Phố Việt”. Tại các khu phố này, có nơi tuy chỉ thu gọn trong một vài cơ sở thương mại (đôi khi chỉ là một cái chợ nhỏ), mọi mặt sinh hoạt hàng ngày của chúng đều đậm nét quê hương, hình thành những thỏi nam châm thu hút và quy tụ đồng hương.
Nối kết các “Khu Phố Việt” rải rác trên toàn thế giới là âm nhạc, báo chí và văn chương, những phương tiện xuyên-quốc-gia hữu hiệu trong thời đại điện tử. Các nhóm chữ “âm nhạc hải ngoại”, “báo chí hải ngoại” hay “văn chương hải ngoại” để chỉ các hoạt động văn hóa của người Việt trên toàn thế giới đã trở thành từ vựng chính thức trong ngôn ngữ Việt Nam hiện nay. Hoạt động của các trung tâm hay cơ sở này quá đa dạng và quá nhiều đến nỗi, chưa người viết nào có đủ điều kiện để tìm biết và liệt kê đầy đủ. Về mặt âm nhạc và báo chí, ngoài những cái tên vô cùng quen thuộc như Thúy Nga, Asia, Vân Sơn hay Người Việt, Việt Báo, Thời Luận, vân vân, nằm ngay trong Little Saigon “thủ đô”, còn có nhiều cơ sở âm nhạc và hàng trăm, hàng ngàn tạp chí hay tuần báo, nguyệt san khác (vừa giấy vừa mạng) nằm rải rác trong tất cả các Little Saigon “địa phương”, cung cấp món ăn tinh thần cho hàng triệu người Việt. Về mặt văn chương, tuy không sôi động và gây ảnh hưởng tức thời như hai lãnh vực trên, cộng đồng người Việt hải ngoại đã tạo nên được một “nền” văn học riêng (cả tiếng Việt lẫn Anh hay tiếng Pháp) vô cùng phong phú với một số lượng tác giả, tác phẩm và tạp chí văn chương dồi dào. Đó là một tổng hợp của nhiều dòng văn chương khác nhau: Văn Chương Miền Nam trước 1975, Văn Chương Miền Nam “nối dài”, văn chương của những cây bút mới xuất hiện ở hải ngoại, văn chương của những nhà văn phản kháng hay bất đồng chính kiến, vân vân và vân vân. Có rất nhiều tạp chí văn chương, giấy cũng như mạng: Làng Văn, Ngôn Ngữ, Da Màu, Thư Quán Bản Thảo, Diễn Đàn Thế Kỷ, Gió-O, Đàn Chim Việt, Diễn Đàn Forum, Thất Sơn Châu Đốc, Tân Hình Thức, Tiền Vệ, T. Vấn & Bạn Hữu, Phố Văn, Phạm Cao Hoàng, Trần Thị Nguyệt Mai… Cũng có khá nhiều nhà xuất bản: Tiếng Quê Hương, Văn Mới, Văn Nghệ, Nhân Ảnh, Văn Học Press, Thế Kỷ 21, Da Màu Press, Người Việt Books, Nhà Xuất Bản Trẻ, Anh Thư, Tân Thư, Thư Ấn Quán, Literary Hub… Các tạp chí và nhà xuất bản này, ngoài việc đăng tải hay tái bản các tác phẩm của Văn Học Miền Nam trước 1975, xuất bản các tác phẩm của các tác giả hải ngoại, còn xuất bản hàng trăm tác phẩm bị cấm của những cây bút, hoặc đã qua đời hoặc còn ở trong nước hay đã thoát ra ngoài như Vũ Thư Hiên, Nguyễn Viện, Phạm Đoan Trang, Nguyễn Bình Phương, Bùi Ngọc Tấn, Tô Hải, Tiêu Dao Bảo Cự, Hoàng Hưng, Trần Đĩnh, Huy Đức… Đặc biệt nhất, một số tác giả và tác phẩm văn chương của họ đã đi vào lãnh vực quốc tế (do được viết bằng ngoại ngữ hoặc được chuyển dịch từ tiếng Việt) như Nguyễn Thanh Việt, Ocean Vương (Mỹ), Kim Thúy (Canada), Dương Thu Hương, Trần Thị Hảo (Pháp)…Văn chương hải ngoại, với sức sống mạnh mẽ của nó, hiện đã trở thành một dòng văn học với sắc thái riêng biệt, nhất định sẽ chiếm một vị trí xứng đáng trong lịch sử văn học Việt Nam.
Một điều lý thú khác cũng cần được ghi nhận, đó là ngôn ngữ. Qua một thời gian dài sống chung với nhiều nền văn hóa khác nhau, ngôn ngữ Việt Nam dần dà phổ biến. Một số từ ngữ Việt Nam như “banh mi” (bánh mì), “pho” (phở), “ao dai” (áo dài), “tet” (Tết) trở thành những từ ngữ có tính cách quốc tế, được đưa vào một số tự điển tiếng Anh, như Merriam-Webster, Cambridge Dictionary, Oxford English Dictionary, Collins Dictionary, Dictionary.com, vân vân.
Dictionary.com định nghĩa “banh mi”: a Vietnamese sandwich on a crisp baguette spread with mayonnaise, typically containing pork or chicken and pâté, with pickled vegetables, cucumber, and cilantro (Một loại bánh mì giòn có phết sốt mayonnaise kẹp thịt heo hoặc thịt gà và pa-tê kèm thêm rau giấm, dưa leo và ngò).
William-Webster định nghĩa “ao dai”: the traditional dress of Vietnamese women that consists of a long tunic with slits on either side and wide trousers (Trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam gồm áo dài xẻ hai bên và quần ống rộng).
Riêng chữ “Tet”, trước đây, nó đã được người nước ngoài sử dụng, nhưng chỉ giới hạn trong một nghĩa để chỉ biến cố Tết Mậu Thân 1968: “Tet Offensive”. Bây giờ, Tết với nghĩa phổ thông hơn, đã chính thức được ghi vào tự điển tiếng Anh. Xin ghi lại định nghĩa về chữ “Tet” trong hai tự điển tiếng Anh nổi tiếng:
Tết Việt Nam, như thế, đã được “độc lập”, tách hẳn khỏi Tết Tàu, “Chinese New Year”.
Xét cho cùng, đó cũng là một thành tựu của hải ngoại. Nhưng không chỉ là thành tựu về mặt ngôn ngữ.
Thành tựu đó gắn liền với nỗ lực bảo vệ truyền thống của mọi người Việt Nam khi họ bị buộc phải xa rời cội nguồn, qua hình thức ẩm thực và lễ hội. Trong suốt năm mươi năm ở xứ người, năm nào cũng như năm nào, ở đâu có người Việt cư ngụ là ở đó có hội Tết, dù nhỏ dù lớn. Tha hương thì buồn, thì nhớ, nhưng vẫn “Ăn” và “Mừng”. “Ăn” Tết, “Mừng” Xuân là mang quê hương đến với mình. Đồng thời, cột chặt mình với quê hương. Có Tết là có quê hương. Không kể Little Saigon, nơi mà không khí Tết rộn ràng và rực rỡ mà cao điểm là các cuộc Diễn Hành Tết và Hội Chợ Tết, ở các vùng khác, sinh hoạt Tết đều diễn ra hàng năm, cũng thấm đẫm màu sắc quê hương không kém. Cũng cần nhấn mạnh, tất cả các sinh hoạt này đều tự nguyện-tự biên-tự diễn, hoàn toàn độc lập, không cần đến và cũng không có sự đỡ đầu của các Tòa Đại Sứ hay Lãnh Sự của nhà nước cộng sản.
Gia đình tôi sang định cư ở một thành phố nhỏ miền Đông Bắc nước Mỹ, nơi mà Tết bao giờ cũng rơi vào lúc cao điểm của mùa tuyết. Không có Tết nào là vắng tuyết. Có năm, cơn bão tuyết lớn rơi vào đúng đêm giao thừa với lượng tuyết lên đến 10-15 inches. Chữ “Tết”, vô hình trung, gắn với chữ “T(uy)ết”. Tết trong tuyết, tuyết trong Tết! Tết và tuyết chỉ cách nhau một bước chân. Bước vào, Tết, bước ra, tuyết! Có năm, cúng giao thừa xong, muốn cắm một cây nhang ở ngoài trời cũng không được, vì toàn là tuyết và tuyết. Không sao! Dù chỉ là những ngày cuối năm giả thuyết, những chiều ba mươi bịa đặt, những giao thừa tự chế (biến), những ngày đầu năm hư cấu, thế nhưng, năm nào gia đình tôi cũng lấy một hay vài ngày nghỉ phép (nghỉ làm, nghỉ học) để “ăn tết”: mứt bánh, thiệp chúc mừng, quà cáp, tiền lì xì, cúng ông Táo, cúng tất niên, đi chợ Tết, đi chùa hái lộc, đi thăm bạn bè… Có đủ: Tết nhà, Tết chợ, Tết chùa, Tết nhà thờ và, mở rộng hơn, Tết Cộng Đồng.
Khác với sinh hoạt Tết ở nước ngoài thường do các đại sứ của nhà nước cộng sản tổ chức tại sứ quán của họ, nhóm chữ “tết cộng đồng” ở đây để chỉ lễ hội truyền thống (với đủ thứ sinh hoạt: hội chợ, đánh bài, thi áo dài, thi tiếng Việt, chợ hoa, xổ số, hái lộc, múa lân, đốt pháo…) do những di dân tỵ nạn thực hiện. Tết Cộng Đồng diễn ra ở nơi công cộng (thuê hội trường của một cơ quan hay tổ chức nào đó), dành cho, không những tất cả cư dân Việt trong vùng, mà còn mở rộng ra chào đón cư dân các sắc tộc khác, với sự tham dự của các viên chức hành pháp và lập pháp địa phương, như thị trưởng hay nghị viên hội đồng thành phố. Sinh hoạt này, một mặt, duy trì và chuyển tải truyền thống văn hóa cho các thế hệ sau và một mặt, giới thiệu và giao lưu văn hóa Việt Nam với các cộng đồng sắc tộc bạn. Đặc biệt lúc nào, ban tổ chức cũng mời cho kỳ được một hay nhiều “ca sĩ Cali” đến hát trong chương trình văn nghệ. Sự hiện diện của họ vừa để giúp vui, lại cũng vừa để các Little Saigon “địa phương” chia sẻ phần nào không khí rộn ràng của Little Saigon “thủ đô”.
Trong suốt hàng chục năm gia đình tôi cư ngụ ở vùng tuyết giá này, mùa xuân không lúc nào vắng mặt. Đã ấm áp tình đồng hương, lại còn được sống trọn mùi vị và cảnh sắc quê nhà, từ bàn thờ tổ tiên, áo quần truyền thống cho đến mứt, bánh, hoa, pháo, bao lì xì, múa lân và đặc biệt nhất là được sống lại không khí tươi vui rộn ràng của một miền Nam trước 1975: bàn thờ tổ tiên, áo dài, khăn đóng, cờ xí, nhạc lính, nhạc tình, nhạc xuân… Chẳng thế mà, đám con cháu tôi, dù phần lớn sinh trưởng ở xứ người, vẫn còn rất là Việt Nam. Thay vì về quê hương, chúng tôi tạo quê hương ngay trên xứ người. Một niềm an ủi lớn!
*
Hai mươi năm ấy và năm mươi năm ấy, biết bao nước chảy qua ghềnh, qua thác, qua suối, qua cầu, qua sông, qua biển…
Trong khoảng thời gian vừa ngắn lại vừa dài dằng dặc đó, tôi trải qua ít nhất là bốn cuộc đời: một công dân Việt Nam Cộng Hòa, một tù nhân của cộng sản, một công dân Việt Nam hạng bét (hạng thứ 14 do nhà nước cộng sản quy cho những ai được thả ra từ trại “cải tạo”), và sau cùng, một người lưu vong. Hai mươi năm đầu: giữa chiến tranh và hòa bình, giữa hận thù và hòa giải, giữa nhiễu nhương và hoa mộng, giữa tuyệt vọng và hy vọng. Năm mươi năm sau: cuộc đời lộn ngược. Số phận từng người gãy lìa thành khúc, thành đoạn. Khúc gãy này là “tiền kiếp” của đoạn gãy kia. Cái gọi là “bản thân tôi” hiện nay tưởng chừng như đã trải qua nhiều tiền kiếp, mỗi tiền kiếp là một thân phận với những hệ lụy riêng, trông bộ chẳng hề dính dấp gì đến nhau.
Hồi tưởng lại, xiết bao ngậm ngùi…
TDN
(11/2024; nhuận sắc: 20/1/2025)
[1] Nhà Mạc: 1527-1593 (66 năm).
[2] Nếu tính từ năm 1945 cho đến 2025 là 80 năm.
[3] Tính từ lúc Nguyễn Nhạc lên ngôi (1788) đến lúc Nguyễn Quang Toản bị bắt (1802).
[4] Tính từ cuộc trưng cầu dân ý ngày 26/10/1955.
[5] Về một đất nước mang tên Việt Nam Cộng Hòa, trong “Cõi Chữ Cõi Người”, tiểu luận tập II, nxb Nhân Ảnh (Cali), 2022.
[6] Nguyễn Văn Trung, Nhìn Lại Những Chặng Đường Đã Qua, Chương 8: “Tưởng niệm Việt Nam Cộng Hòa” (In memoriam Việt Nam Cộng Hòa), tạp chí Văn Học (California) số 174, 10/2000, từ trang 3 đến trang 32. https://issuu.com/nvthuvien/docs/tapchivanhoc_174?mode=window&viewMode=doublePage
[7] “Dòng chữ Một khoảnh VNCH nối dài có mặt bên trong bản thảo, không biết đã nghĩ ra để dùng làm tên sách từ lúc ấy không. Nhan đề có lẽ gợi từ tên lạ lùng của những con đường Sài Gòn lúc mới đến năm 1955 như: Rue Richau Prolongée (Phan Ðình Phùng / Nguyễn Ðình Chiểu). Ðùa bỡn cũng có cái hay là khiến người ta nhớ dai nên thấy trên một tờ báo ở Úc có một tên khác: “Một khoảnh Liên Xô nối dài”, hay “Một khoảnh VNCH nối dài” dùng cho loại văn nghệ hải ngoại, cả những thứ “nối dài” mơ hồ nào đó chắc có bà con thân thuộc…” (Trích Tạ Chí Đại Trường, “Một khoảnh VNCH nối dài”, tr. 3). Xem:
https://drive.google.com/file/d/1KlWUWvfnIld4Cp-8nJEZLi5k54zTh8Nh/view
[8] Một cách gọi khác: Vietnamese American Heritage Flag.
[9] Đây là một định nghĩa: “The flag of the former Republic of Vietnam, with three horizontal red stripes on a field of golden-yellow, which symbolizes freedom and democracy and represents the cultural heritage of Vietnamese-Americans, is recognized by the Commonwealth as the Vietnamese-American Heritage Flag.” (Virginia Law)
[10] VOA tiếng Việt. Xem: Dân biểu Mỹ Steel nhận bảo trợ cho tù nhân lương tâm Lê Hữu Minh Tuấn
[11] Journal of Environmental Psychology (2000). Xem: https://escholarship.org/uc/item/3km8x13g
[12] The story of the Vietnamese experience is one of pain and loss, loss of nation, home, family, culture and identity.
[13] Little Saigon became the center of the community’s identity and attachment.
[14] Little Saigon has become not only the commercial hub but the emotional focal point of the Vietnamese community in America
[15] Going to Little Saigon is like making a pilgrimage. For them it is a substitute home, a home away from home, a place they can go to easily to get a shot of home. (…) For a refugee community that has lost its homeland including its capital, Saigon, the creation of Little Saigon represents hope from being `homeless’ to having a `home’ again. Finally, the very presence of Little Saigon symbolically communicates to the host society the desire of the Vietnamese immigrant community to strike permanent roots in the newly adopted land (in American soil) and at the same time maintain their own ethnic identity through the successful trans-plantation of their religion, culture, and business.
[16] Đỗ Ngọc Dũng (Giám Đốc Sở Ngoại Vụ Tỉnh), Một thoáng Little Saigon trong lòng nước Mỹ
[17] https://www.merriam-webster.com/dictionary/Tet
[18] https://www.dictionary.com/browse/tet