Trang chính » 50 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (1975-2025), Chuyên Đề Email bài này

Trò chuyện với nhà biên khảo Nguyễn Hưng Quốc

(thực hiện qua email, từ 22/5/25 đến 2/6/2025)

Trần Doãn Nho (TDN): Kỷ niệm 50 năm ngày 30/4/75, cũng là kỷ niệm 50 năm ngày khai sinh ra văn học hải ngoại (VHHN), thế mà lại vắng mặt Nguyễn Hưng Quốc trên diễn đàn văn học, quả là một điều lạ, mà cũng là một thiếu sót, của nền văn học tự phát này. Anh nghĩ sao?

Nguyễn Hưng Quốc (NHQ): Năm 2007, tôi tổ chức một cuộc hội thảo về những thành tựu của VHHN quy tụ khá đông người tham dự tại California. Năm 2013, tôi cho xuất bản cuốn “Văn học Việt Nam tại Úc: Chính trị và thi pháp của lưu vong”. Trong cả hai trường hợp, tôi đều có ý nghĩ, một dịp nào đó, sẽ mở rộng đề tài, viết về văn học hải ngoại nói chung một cách hệ thống và sâu sắc hơn. Không có dịp nào có ý nghĩa hơn là 50 năm mất miền Nam và hình thành cộng đồng người Việt lưu vong. Thế nhưng, kỳ lạ, khi thời điểm ấy đến, tôi lại không viết được gì cả. Một bài tiểu luận ngắn cũng không. Lý do? Tự dưng mất hứng. Lòng thấy lạnh ngắt. Chữ nghĩa rủ nhau trốn biệt. Màn ảnh máy vi tính trắng vẫn hoàn trắng bệch. Không hiểu tại sao.

TDN: Tôi còn nhớ như in cuộc hội thảo này với sự hiện diện của cả trăm người đến từ nhiều nơi trên thế giới, nào Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Đỗ Quý Toàn, Nguyễn Thị Thanh Bình, Lê Quỳnh Mai, nào Trương Thị Thịnh, Hoàng Ngọc Tuấn, Nguyễn Hưng Quốc, Trần Hoài Thư, nào Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn Tường Thiết, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Chí Thiện, Cao Xuân Huy, nào Trần Văn Nam, Lữ Quỳnh, Phan Nhật Nam, Võ Thắng Tiết, nào Đặng Thơ Thơ, Phạm Xuân Đài, Trần Hữu Thục…Hào hứng và sôi nổi biết bao! Mười tám năm kể từ lúc đó. Thế mà, trong một email vừa mới gửi tôi tháng trước (5/2025), anh viết: “Riêng tôi, từ 2,3 năm nay, hoàn toàn tịt ngòi anh ạ. Không viết được gì cả. Đầu óc như mụ mẫm hẳn đi.” Tôi tưởng anh chỉ đùa cho vui, hóa ra, là thật. Nghe anh nói, thực tình, tôi cảm thấy rất buồn. Anh còn quá trẻ (đối với thế hệ của tôi). Dù sao, tôi vẫn hy vọng đó chỉ là một sự chững lại, và sẽ có lúc qua đi. Tôi không dùng Facebook (FB) nhưng thỉnh thoảng có ghé xem kéFB của anh qua một người thân trong gia đình. Những bình luận ngắn của anh về đủ thứ chuyện, nhất là về chính trị và văn học, vẫn chính xác, sắc sảo và đôi khi …sáng tạo một cách bất ngờ. Hình như hầu hết văn nghệ sĩ đều có FB. Nó phổ biến đến nỗi gần như thay thế các tạp chí văn học. Ngoài các bình luận, người ta không những đưa các sáng tác của mình, màtôi đoán chừng, họ còn có thể cósáng tác ngay trên FB. Ta có thể, theo anh, nói về một loại sáng tác văn chương mới là “văn chương FB” (từa tựa như những chuyện thật ngắn) chăng?

NHQ: Tôi chỉ bắt đầu chơi Facebook từ năm 2014. Chỉ một thời gian ngắn, tôi khám phá ngay ra Facebook có một thứ văn hoá đọc khác hẳn sách báo trên giấy cũng như với cả blog. Sách báo dài bao nhiêu cũng được. Blog không thể dài bằng sách báo nhưng cũng không giới hạn số câu một cách quá nghiệt ngã. Facebook thì khác. Khác ở điểm chính: Nó phải ngắn. Viết dài không ai đủ kiên nhẫn đọc hết. Khám phá ra điều ấy, mỗi bài tôi thường chỉ viết vài đoạn hoặc thậm chí, vài câu, ở đó, tôi tập trung vào cách kiến tạo câu sao cho thật gọn và sắc. Tôi nhớ mang máng, hình như Susan Sontag có viết đâu đó: Đơn vị cơ bản của thơ là chữ, từng chữ; đơn vị cơ bản của văn xuôi là câu, từng câu. Annie Dillard, trong cuốn “The Writing Life” (1989) cho một người chỉ có thể có hy vọng trở thành nhà văn nếu trước hết, biết yêu câu. Tôi cũng yêu câu. Tôi cố gắng thay đổi cấu trúc câu sao cho thật đa dạng và thật ấn tượng. Năm 2014, tôi tập hợp những bài văn ngăn ngắn ấy vào cuốn “Những Ý Nghĩ Rời”. Có thể đó là cuốn sách đầu tiên bằng tiếng Việt hình thành từ Facebook.

TDN: Tôi thích thú đoạn này trên FB của anh: “Chính quyền Việt Nam hiện nay không tin vào chủ nghĩa xã hội, không tin vào chủ nghĩa tư bản và cũng không tin vào lý thuyết kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa: Họ chỉ tin vào tiền. Họ không bảo vệ giai cấp vô sản, không bảo vệ đất nước, không bảo vệ độc lập, không bảo vệ tự do: Họ chỉ bảo vệ đặc quyền của họ. Họ không chống Mỹ, không chống Trung Quốc, không chống lại nước nào cả: Họ chỉ chống lại nhân dân.” Cách kiến tạo câu khiến nhận xét của anh, tuy không hoàn toàn mới mẻ, nhưng trở nên gọn gàng, sắc bén và thuyết phục!

Trở lại với VHHN. Có lẽ cũng nên nói lại một chút về chuyện danh xưng. Từ lâu nay, nhóm chữ VHHN đã được sử dụng rộng rãi, từ trong nước ra hải ngoại, để chỉ nền văn học, tạm gọi là “không ở trong nước” (hay “nằm ngoài sự kiểm soát của nhà nước VN”). Xem như (nhóm chữ này) đã “chết tên” Một tác giả trong nước (ký tên là Tao Đàn) cho rằng “thuật ngữ văn học hải ngoại cần trở thành một phạm trù lịch sử, và nên thay thế bằng “Văn học (VN) ở nước ngoài”. Theo tác giả này, hai chữ “hải ngoại” (bên ngoài biển) mất đi cở sở thực tại của nó, một là, nó không đủ sức bao gộp cả một cộng đồng văn học VN rộng lớn trên toàn cầu; hai là, mạng lưới Internet đã xóa nhòa ranh giới trong và ngoài nước; và ba là, lịch sử đã sang trang, đất nước đã hòa hợp, vân vân…Một tác giả khác (Vũ Thành Sơn), cũng ở trong nước, cho rằng chỉ có “tác giả hải ngoại”, chứ không hề có “văn học hải ngoại”, vì thế, duy trì danh xưng “văn học hải ngoại” là một hành động có màu sắc chính trị. Anh nghĩ sao về các ý kiến trên?

NHQ: Cái gọi là văn học hải ngoại là một thực thể. Nó có thực. Nó đã tồn tại trong suốt nửa thế kỷ. Nó khác hẳn với văn học trong nước. Khác về hoàn cảnh chính trị, kinh tế, và nhất là, về văn hoá. Khác về tâm thế. Có một điều cần chú ý: Trong suốt 50 vừa qua, có một số cây bút sống trong nước nhưng tác phẩm thì được phổ biến ở hải ngoại: Họ là những người lưu vong tại chỗ. Họ giống những người cầm bút ở hải ngoại ở chỗ: cả hai đều quan tâm đến chính trị và khao khát tự do. Họ cũng ở giữa (in-betweenness). Nhưng giữa họ vẫn có những chỗ khác. Những cây bút ở hải ngoại có những mối bận tâm khác hẳn với trong nước: Bận tâm về ký ức, về tương lai, về môi trường đa văn hoá, về ý niệm sở thuộc (belonging) và biên giới, về màu da, về kinh nghiệm vượt biên và bị kỳ thị, về một thứ bản sắc kép (double identity), và đặc biệt, về ám ảnh của cái khác (otherness), không phải chỉ là những cái khác ở ngoài mà còn những cái khác của chính mình: với họ, nói như Rimbaud, “Tôi là một cái khác” (JE est un autre). Bản chất của văn học hải ngoại là một thứ văn học lưu vong. Nhà văn Pháp gốc Tiệp Milan Kundera cho chỗ đứng thực sự của một nhà văn Pháp gốc Tiệp khác, Vera Linhartova – và, có lẽ của chính ông nữa – không thuộc về Tiệp cũng không thuộc về Pháp mà ở “đâu đó” (elsewhere). Giới nghiên cứu về Lưu vong học (Diaspora Studies) thì cho chỗ đứng của những người lưu vong không phải ở đất nước cũ và cũng không ở đất nước mới mà là ở trên cái dấu gạch nối giữa hai nước (Ví dụ: Việt – Mỹ, Việt – Úc, Việt – Pháp, v.v…). Sống trên những dấu gạch nối ấy, bản sắc của người lưu vong mang tính lai ghép. Nó nằm ở giữa. Giữa cố hương và vùng đất mới. Giữa quá khứ và hiện tại. Giữa hoài niệm và ước mơ. Giữa đây và đó. Nó có những đặc trưng riêng, nói như Azade Seyhan, trong cuốn “Writing Outside the Nation” (2001), “các tự sự xuất phát từ sự vượt biên (border crossings) không thể bị gói gọn trong biên giới quốc gia, ngôn ngữ cũng như các truyền thống văn học và phê bình.” (tr.4)

TDN: Vâng, văn học hải ngoại là một thực thể. Cũng như văn học miền Nam là một thực thể. Mọi nỗ lực tìm cách thay thế hai nền văn học này (dù chỉ về mặt danh xưng) đều sẽ không đi đến đâu.

Một trong những đóng góp lớn lao cho văn học hải ngoại là sự hiện diện của rất nhiều tạp chí (giấy cũng như mạng) phát hành từ nhiều nơi trên thế giới, nhất là các tạp chí “thuần túy” văn học, trong đó có hai tạp chí do anh chủ trương, là tạp chí Việt và trang mạng Tiền Vệ. Đọc được trong “Thư Tòa Soạn”, tạp chí Việt số 8/2001: “Chúng ta không thể thay đổi văn học, cả sáng tác lẫn phê bình, nếu trước hết, chúng ta không thay đổi cách nhìn văn học.” Với quan điểm rạch ròi đó, trong gần bốn thập niên, anh là một trong những cây bút viết nhiều, viết mạnh với một quan điểm dứt khoát: cách tân văn học. Điều này đã giúp phổ biến các lý thuyết văn học mới mẻ của nước ngoài đến với người viết và người đọc hải ngoại cũng như trong nước, góp phần thay đổi diện mạo của văn học Việt Nam nói chung.

Anh có thể cho một cái nhìn khái quát về quá trình hình thành và hoạt động của Việt và Tiền Vệ, mục đích hai tạp chí này nhắm đến cũng nhưcác thành quả mà chúng đạt được.

NHQ: Tạp chí Việt do tôi chủ trương từ năm 1998 đến năm 2001. Mỗi năm ra hai số. Đó là tạp chí văn học nghiêng về các khía cạnh lý thuyết đầu tiên ở hải ngoại. Nó hô hào đổi mới; nó cổ vũ cho việc xây dựng một nền cộng hoà văn học; nó gây khá nhiều sôi động trong dư luận. Trong mục “Sổ tay” đăng trên tạp chí Văn tại California số tháng 8,1998, nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng viết: “Nụ cười của nước Pháp, nước mắt của Ba Tây trong World Cup 98 chưa đủ sức làm trái đất nóng lên. Thế nhưng, tạp chí Việt của Nguyễn Hưng Quốc ở Úc vừa phát hành số 2, với chủ đề Sống và Viết ở hải ngoại có khả năng làm những người cầm bút Việt Nam giật mình.” (Ghi chú: tất cả 8 số Việt này đều được đưa lên mạng, có thể đọc trên www.tienve.org.)

Đúng một năm sau khi Việt đình bản, tôi và Hoàng Ngọc-Tuấn cho ra mắt tạp chí Tiền Vệ. Đó là tờ báo mạng về văn học bằng tiếng Việt đầu tiên ở trong cũng như ngoài nước (Da Màu ra đời từ năm 2006, tức 4 năm sau). Trong nhiều năm, đó là tờ báo mạng duy nhất có bài vở được cập nhật hàng ngày. Giống tạp chí Việt, Tiền Vệ cũng cổ vũ cho các nỗ lực cách tân văn học. Khác với Việt, Tiền Vệ tồn tại trong không gian mạng, gắn liền với không gian mạng với hai đặc điểm nổi bật là: Tính chất giải lãnh thổ hoá (deterritorised) và phi tâm hoá (decentred). Nó quy tụ nhiều cây bút ở trong cũng như ngoài nước. Nó được phổ biến rộng rãi ở bất cứ nơi đâu được kết nối với internet. Sau mười mấy năm hoạt động, Tiền Vệ giúp người viết cũng như người đọc làm quen với chủ nghĩa hậu hiện đại và một số cách nhìn mới về văn học. Nó cũng là kho lưu trữ hàng ngàn bài thơ, bài viết văn xuôi cũng như dịch thuật. Nhiều nhà văn và nhà thơ thú nhận nếu không có Tiền Vệ, sáng tác của họ sẽ không thể giống như họ đang là. (Hầu hết những ý kiến ấy đều được đăng trên www.tienve.org.)

TDN: Hình như Tiền Vệ ngưng hoạt động vào năm 2019, một cách lặng lẽ. Không thấy Tiền Vệ đưa ra một thông báo gì cả. Anh có thể cho biết lý do được không?

NHQ: Vâng, anh nói đúng, Tiền Vệ ngưng hoạt động “một cách lặng lẽ” từ năm 2019. Không có thông báo chính thức vì anh em trong Ban biên tập, thoạt đầu, cho đó chỉ là việc tạm nghỉ ngơi, và vẫn nuôi hy vọng là một lúc nào đó nó sẽ hoạt động trở lại. Tuy nhiên, cho đến nay cái gọi là “lúc nào đó” vẫn chưa xảy ra. Lý do là mọi người dường như không còn nhiệt hứng như lúc trước. Các cộng tác viên xa gần cũng rã rời. Rất hiếm người tiếp tục viết lách. Bài vở có chất lượng gửi về toà soạn hầu như không có. Xin lưu ý là, dù ngưng hoạt động, tất cả bài vở trên Tiền Vệ (www.tienve.org) vẫn giữ nguyên, ai muốn đọc vẫn đọc được.

TDN: Thực đáng tiếc! Dù thích hay không, phải nhận rằng Việt và Tiền Vệ là một đóng góp lớn đã tạo nên một không khí mới mẻ trong văn học hải ngoại. Không khí đó lan tỏa vào cảvăn học trong nước. Theo anh, có nên xem đó cũng là một trong những thành tựu của văn học hải ngoại? Còn những thành tựu khác là gì? Tôi muốn nói đến các tác phẩm hải ngoại theo xu hướng truyền thống (không cách tân) của những nhà văn khác (những nhà văn của VNCH nối dài chẳng hạn).

NHQ: Văn học hải ngoại từ năm 1975 đến nay có khá nhiều thành tựu. Đơn giản và dễ thấy nhất là về phương diện sinh hoạt: chúng ta có những tạp chí văn học có giá trị như Văn, Văn Học, Hợp Lưu và Tạp chí Thơ rất khó tìm thấy ở trong nước. Ở trong nước cũng không có những tờ báo mạng phong phú và đa dạng, sâu sắc và mới mẻ, cập nhật bài vở thường xuyên như Tiền Vệ hay Da Màu. Còn về ảnh hưởng thì khó nói hơn. Tôi sực nhớ một nhận định của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên trên Talawas ngày 21.4.2005: “Một số người ở hải ngoại đã nuôi ảo tưởng rằng nếu được tự do phổ biến thì văn học hải ngoại sẽ như một làn gió mới, gây nên những chấn động gì kinh khủng lắm. Có lẽ không như vậy. Gây chấn động bây giờ có phải dễ đâu. So với những sáng tác của hải ngoại thì có khi lối viết phê bình của Nguyễn Hưng Quốc lại gây tác động với trong nước nhiều hơn. Ông Quốc hội tụ được cả ba điểm: Một, tiếp thu được những lí thuyết mới; hai, nắm chắc văn học Việt Nam […]; ba, có một lối viết vừa là khoa học vừa là văn chương.”

TDN: Tiện đây cũng hỏi anh luôn: Anh vừa là người nhiệt thành cổ vũ cho cách tân trong văn học, lại vừa là người nghiên cứu một cách sâu sắc tác phẩm của Võ Phiến, một nhà văn miền Nam thuộc xu hướng (tạm gọi là) truyền thống hay phi-hậu hiện đại. Có gì mâu thuẫn trong thái độ này?

NHQ: Việc tôi đề cao sự đổi mới và đề cao Võ Phiến không có gì mâu thuẫn. Đổi mới không phải là phá phách. Phá phách là xô đổ mọi giá trị. Đổi mới là xây dựng. Phá phách là phủ nhận, cái còn lại là hư không. Đổi mới là trên cơ sở truyền thống, tìm cách mở ra một lối đi khác. Sự đổi mới nào cũng có sử tính, bao gồm hai yếu tố chính: kế thừa và sáng tạo. Vì vậy người chủ trương đổi mới vẫn trân trọng quá khứ. Khác với những người bảo thủ vốn coi quá khứ là nhữngn gì đã hoàn tất và bất biến, những người đổi mới xem quá khứ như một dự án vừa bất toàn vừa dở dang, không ngừng được tái thiết, và họ, một cách tự giác, sẵn sàng tham gia vào công cuộc tái thiết ấy. Huống gì Võ Phiến, không còn hoài nghi gì nữa, là một trong những nhà văn lớn nhất ở miền Nam trước năm 1975 và là một trong những cây bút tiêu biểu nhất trong nền văn học hải ngoại sau năm 1975. Muốn nghiên cứu về văn học miền Nam cũng như văn học hải ngoại, không thể không tìm hiểu về ông.

TDN: Xin được trở lại với sự kiện Tiền Vệ ngưng hoạt động. Lý do, theo anh, là “mọi người dường như không còn nhiệt hứng như lúc trước. Các cộng tác viên xa gần cũng rã rời. Rất hiếm người tiếp tục viết lách. Bài vở có chất lượng gửi về toà soạn hầu như không có.” Đó là một hiện tượng bình thường như mọi hiện tượng bình thường khác của văn chương, có cao trào có thoái trào, hay là hậu quả của sự kiện “Sau gần hai chục năm thịnh phát [ở Tây phương], đặc biệt trong môi trường đại học, bước sang đầu thế kỷ 21, cơn sốt hậu hiện đại chủ nghĩa đã lắng xuống” như anh đã từng phát biểu trong “Chủ nghĩa hậu hiện đại và những cái (cần) chết trong văn học Việt Nam” vào năm 2008? Phải chăng chủ nghĩa hậu hiện đại đã trở thành quá khứ “như một dự án vừa bất toàn vừa dở dang”, cần được tái thiết?

NHQ: Vâng, cái gì cũng có cao trào và thoái trào. Văn học hải ngoại chỉ có một thời vàng son là từ giữa thập niên 1980 đến giữa thập niên 1990. Hầu hết những cây bút mới và có tài năng đều xuất hiện trong thời kỳ ấy. Sau đó là hiu hắt dần, dần dần. Hiện nay, ở hải ngoại, số người còn viết lách được như anh rất hiếm hoi. Với chủ nghĩa hậu hiện đại (postmodernism), tình hình cũng tương tự. Nó chỉ thịnh phát ở phương Tây trong nửa sau thế kỷ 20. Bây giờ dù vẫn có một số người tiếp tục sáng tác theo phong cách hậu hiện đại nhưng, thứ nhất, nó không còn là một khám phá mới mẻ nữa; thứ hai, nó không còn là một phong trào, cả trong sáng tác lẫn trong học thuật. Dù thuộc về quá khứ, nhưng dư chấn của chủ nghĩa hậu hiện đại vẫn còn: đó là sự tan rã của các đại tự sự (grand narrative), tức những cách nhìn bao quát, như cái nhìn của Thượng đế, với tham vọng xuyên suốt toàn bộ hiện thực và lịch sử, kiểu học thuyết của Hegel hay Karl Marx. Hậu quả là sự ra đời của cái gọi là hậu lý thuyết (post-theory). Thời đại chúng ta sống là thời đại “sau lý thuyết” (after theory), ở đó, không có một lý thuyết nào nổi trội và thống trị cả.

TDN: Sự ra đời của “hậu lý thuyết”, theo anh, là vì con người đã cạn nguồn ý niệm, hay đã chán chê thế giới ý niệm, hay phải chăng đơn giản chỉ vì lý thuyết, với tham vọng nhốt toàn bộ hiện thực vào cái lồng ý niệm để dễ dàng thao túng, trong bản chất chỉ là ảo tưởng, một ảo tưởng đáng yêu của các lý thuyết gia (từ cổ chí kim)? Tương tự, văn học hải ngoại, sau thời kỳ bùng phát, bây giờ trông “hiu hắt”, “hiếm hoi”! Phải chăng chúng ta đang ở thời kỳ (tạm gọi) là “hậu-văn học hải ngoại”? Và nếu thế, liệu chúng ta có thể bàn về “triển vọng”, về “tương lai” của văn học hải ngoại?

NHQ: Nói đến văn học hải ngoại, tôi chỉ thường dùng chữ “thành tựu” chứ hiếm khi nói đến “triển vọng”. Thành tựu là những gì thuộc về lịch sử. Triển vọng hướng đến tương lai. Mà văn học hải ngoại thì hầu như không có tương lai. Nó đang hấp hối. Số người còn tiếp tục viết, và viết hay hoặc tương đối hay, trên khắp thế giới ngoài Việt Nam, theo tôi, không quá 10 người. Đọc Da Màu chẳng hạn, thấy chỉ quanh đi quẩn lại một số tác giả quen thuộc. Khi thế hệ thứ nhất như anh và tôi qua đi, văn học hải ngoại, nếu còn, cũng sẽ biến dạng hẳn. Biến dạng đến nổi không còn cả cái gốc. Nó sẽ được viết bằng một ngôn ngữ khác, như tiếng Anh, tiếng Pháp hay bất cứ ngôn ngữ nào có người Việt sinh sống. Thuộc thế hệ thứ hai hay một rưỡi, đã có một số tên tuổi nổi lên ở tầm quốc tế, như Nguyễn Thanh Việt và Ocean Vương ở Mỹ, Kim Thuý ở Canada, Linda Lê ở Pháp và Nam Lê ở Úc. Đó là những tài năng lớn có thể khiến chúng ta tự hào. Có điều, văn học là một nghệ thuật ngôn ngữ, trong đó, ngôn ngữ là yếu tố chủ đạo. Bởi vậy, không được viết bằng tiếng Việt, văn chương của họ không thuộc về Việt Nam, dù là Việt Nam hải ngoại hay Việt Nam nói chung.

TDN: Dù nghe không mấy vui, nhưng khó mà không đồng ý phần nào với nhận xét của anh. Tôi nhớ đến ý kiến của nhà văn Nguyễn Mộng Giác trước đây (1999) về tình trạng lão hóa trong sinh hoạt văn học [hải ngoại], mà tạp chí Da Màu vừa đăng lại: “Văn chương [hải ngoại] đang thành ông cụ lỗi thời. Chẳng mấy chốc, cụ ngã bệnh… rồi ngậm cười nơi chín suối.” (https://damau.org/103186/tinh-trang-lao-hoa-trong-sinh-hoat-van-hoc). Ấy thế mà rồi VHHN vẫn tiếp tục…

Hai yếu tố để một nền văn chương tồn tại là tác giả và độc giả. Nhờ Internet, không chỉ người ngoài nước mà cả người trong nước cũng có thể tiếp cận các tác phẩm hải ngoại một cách dễ dàng. Như thế, độc giả của văn học hải ngoại bây giờ không thiếu, nhưng tác giả (đóng góp cho văn chương hải ngoại), như anh nói, hầu như cạn kiệt. Lý do nào, theo anh? Liệu chúng ta có thể bàn về hay gợi ýmột giải pháp?

NHQ: Cái mất đầu tiên là độc giả. Số người Việt định cư ở nước ngoài càng ngày càng đông nhưng số người đọc sách thì ngược lại, càng ngày càng ít. Họ có thể đọc trên internet nhưng không còn đọc sách báo in. Trong thập niên 1980 và 1990, nhà xuất bản Văn Nghệ ở California in mỗi đầu sách 1000 cuốn. Sau khi nhà Văn Nghệ ngưng hoạt động, nhà xuất bản Văn Mới ra đời, in mỗi đầu sách 500 cuốn. Sau đó, do ế ẩm, nhà Văn Mới cũng ngưng hoạt động. Các tiệm sách cũng lần lượt đóng cửa. Ở thành phố Melbourne (Úc), nơi tôi sống, trước đây có ba tiệm sách, bây giờ không còn tiệm nào cả. Khu sách tiếng Việt ở các thư viện cộng đồng càng ngày càng hiếm người đọc. Hiếm đến độ thư viện hạn chế hẳn việc mua sách tiếng Việt. Đó là chuyện ở Úc. Ở các nơi khác, chắc cũng thế. Người ta có thể cãi: Họ ít đọc sách báo in trên giấy nhưng vẫn đọc online. Hơn nữa, báo văn học trên mạng vượt mọi biên giới, ở đâu cũng đọc được. Độc giả có thể được mở rộng, từ trong đến ngoài nước. Tuy nhiên, tôi vẫn ngờ. Hầu hết người quen của tôi, dù vào internet mỗi ngày, chỉ đọc facebook hay xem Youtube. Rất hiếm người vào đọc các tờ báo mạng như Da Màu. Đó là chưa kể hầu hết các tờ báo mạng ở hải ngoại đều bị ngăn chận ở Việt Nam. Không phải ai cũng biết cách vượt tường lửa. Độc giả ít, họ cũng không có sự tương tác nào với tác giả. Khi tôi mới bắt đầu viết văn vào cuối thập niên 1980, không khí thật tưng bừng. In một bài trên báo, xôn xao bao nhiêu tiếng phản hồi. Bạn bè trầm trồ, người này viết thư khen, người nọ điện thoại viễn liên để tán gẫu. Sau, dần dần, nhiệt tình ấy càng lúc càng giảm, đến lúc nào đó, mất hẳn. Sách tặng bạn bè, họ chỉ báo tin đã nhận được, nhưng không bàn luận gì thêm. Tôi không chắc là họ đã đọc. Trong bối cảnh ấy, công việc viết lách, vốn cô đơn, càng trở thành cô đơn hơn bao giờ hết. Có lúc tôi ví việc viết văn ở hải ngoại như việc nói vào chiếc điện thoại chưa nối đường dây. Lặng ngắt. Không có gì đáng ngạc nhiên khi nhiều người buông bút. Tôi, sau hơn 30 năm say sưa, cũng buông bút.

Có giải pháp nào cứu vãn tình trạng trên hay không? Theo tôi, không có. Không có cách gì làm cho người đọc quay trở lại với văn chương. Cũng không có cách gì đem lại cảm hứng cho người viết trong hoàn cảnh cực kỳ hiu quạnh như ở hải ngoại hiện nay. Buồn. Nhưng đành chịu.

TDN: Nghe như một tiếng thở dài!Xin anh cho một nhận xét cuối cùng trước khi chấm dứt cuộc trò chuyện (dù “buồn” và “đành chịu”, nhưng lý thú) này.

NHQ: Không có vấn đề nào có thể được đào xới đến tận cùng. Bao giờ cũng còn góc cạnh này, góc cạnh nọ cần được bàn bạc tiếp. Thế nhưng không có cuộc trò chuyện nào lại không có lúc kết thúc. Nghệ thuật viết văn là nghệ thuật biết cách đặt dấu chấm hết. Cám ơn anh đã có sáng kiến mở đầu cuộc đối thoại này.

TDN: Cám ơn anh Nguyễn Hưng Quốc.

 

bài đã đăng của Trần Doãn Nho

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

1 Bình luận

  • Long Nguyen says:

    Văn học là một nghệ thuật ngôn ngữ (Nguyễn Hưng Quốc.

    Đúng. Tôi nhớ có đọc nhà văn Võ Phiến trong bộ Văn Học Miền Nam, ông viết đại ý nghệ thuật nhằm làm đẹp cuộc đời. Không thở không ăn không uống thì nguy hiểm đến tính mạng, chứ không treo tranh Picasso, không nghe nhạc giao hưởng, kể cả không đọc Nguyễn Du thì cũng đâu có sao.

    Không sao thật. Tuy vậy, một khi người ta đã có đủ ăn mặc ở rồi thì con người có khuynh hướng tìm đến nét đẹp. Theo Võ Phiến, tuy là không sao nhưng đời người có vẻ như ít lý thú hơn, ít cảm hứng hơn, nhàm chán hơn, vô duyên hơn. Có người lại chủ trương ít nhu cầu hơn, như thiền định chẳng hạn, thì tự dưng sẽ giải quyết được cái khâu nhu cầu đầy “cảm tính” nầy. Nhưng mà, thực tế không phải dễ. Cầm cái búa chặt vào thân cây còn dễ hơn là chặt vào không khí.

    Văn học hải ngoại, nếu nó là một thực thế, thì thực thể này yếu. Tính chuyên nghiệp người viết yếu, nguồn đọc giả nuôi dưỡng tiếng Việt yếu. Yếu một phần cũng do yếu tố không hải ngoại (hải nội) lại rất mạnh. Ngày nay, chuyện người viết người đọc hải ngoại tìm về “hải nội” hình như hơi bị nhiều và rất bình thường.

    Tôi không có ý kiến về chuyện này. Không thể ngăn cản nhu cầu và tự do của người khác. Có điều, nếu họ cảm thấy nhu cầu đẹp trong văn hóa nghệ thuật của họ đang được đáp ứng thì tốt thế thôi. Nếu không? Tôi tin, văn học hải ngoại sẽ còn dài dài. Mặc dầu là thế yếu. Nhưng yếu, ít, nhỏ, không hẳn là vấn đề trong nghệ thuật sáng tạo. Bằng cớ là hiện tượng ca khúc tân nhạc cổ nhạc thời VNCH để lại, suốt 1/2 thế kỷ (rất lâu) bị thế quyền phủ nhận, người Việt Nam hiện tại vẫn tiếp tục hát và nghe, kể cả kinh doanh kiếm tiền. Đó là một điều đầy hàm ân và khá lý thú.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)