Trang chính » , Tùy bút Email bài này

nỗi huế- kỳ cuối: vực thẳm tháng 4

Cũng là một trong những khuôn mặt tham gia trong phong trào đô thị Huế trước 1975, Trần Hoàng Phố – một người tôi biết khá rõ nhưng không thân -, về sau này, chọn lựa một thái độ trầm tĩnh, chừng mực trước thời cuộc. Anh làm thơ và trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Thơ anh, mới về cấu trúc ngôn ngữ, đậm đà triết lý và chan chứa suy gẫm nhân sinh, xuất hiện ở trong nước (cả trong luồng lẫn ngoài luồng) và ở hải ngoại. Anh trở về những đề tài đã từng “là hiện tượng phổ biến trong tư tưởng của những trí thức miền Nam giai đoạn 1954-1975 vốn được thụ hưởng một nền giáo dục mang triết lý “dân tộc, nhân bản và khai phóng” trên tinh thần đa nguyên nên mạnh dạn tiếp nhận nhiều tinh hoa ở các khuynh hướng tư tưởng triết học của nhân loại,” theo Trần Hoài Anh, một nhà nghiên cứu văn học chuyên nghiên cứu về Văn Học Miền Nam.[1]

Là một người sống trong cùng một không khí văn hóa thời đó, tôi tìm thấy trong thơ Trần Hoàng Phố đôi điều  gần gũi.

Đọc Trần Hoàng Phố, trước hết, là đọc chữ. Bên cạnh những nhóm chữ tương đối phổ thông như thiên thu tìm kiếm, dâu bể vô thường, giấc mộng vỡ tan, lênh đênh phận người, lang thang phiêu bạc, ta bắt gặp trong thơ anh nhiều nhóm chữ lạ, mang lại những ý nghĩa mới mẻ bất ngờ. Xin tạm kể ra một số: tán lá linh hồn, đồng tử lá, mái tóc cây, cơ thể đêm, miệng đêm, chén đêm, xao xuyến gió đêm, chiếc lưỡi chìa khóa, vương miện nỗi buồn,  hoảng hốt hoàng hôn, ngực nắng vàng, nỗi cô đơn mưa, mặt nạ bất an,  ký ức xanh, bóng khuya lịch sử, hư ảo trống, hòn bi số phận, kiếp người hoen rỉ, phố trần gian. Nếu lưu ý, ta sẽ thấy chúng được tạo ra do khéo tận dụng hình thức ví von giữa một sự vật cụ thể với một khái niệm hay hình ảnh trừu tượng: tán lá + linh hồn, vương miện + nỗi buồn, mặt nạ + bất an; hoặc giữa một sự vật cụ thể này với một sự vật khác không liên quan gì nhau: miệng + đêm, chiếc lưỡi + chìa khóa, ngực + nắng vàng. Cách tạo ngôn ngữ này khiến tôi nhớ đến Tô Thùy Yên: ngổn ngang câm, bất an già, khoảng cách đặc, án tử hình treo, lãng quên xanh, nỗi sầu vô dạng, u hoài mốc, gió hao đuối, nhớ hư hoặc, một phía mê tưởng, vũng vướng mắc, ráo gió, thiu hồn, ngất tạnh khuya…Nằm trong cấu trúc thơ, những nhóm chữ như thế trở thành, hay đồng hóa với, hay có khi tạo thêm, ý niệm. Nhiều chỗ, Trần Hoàng Phố còn vay mượn cả những thuật ngữ và hình tượng tôn giáo, nhất là trong Thiên Chúa giáo: mùa thương khó, phục sinh, các thánh tuẫn nạn, thiên thần áo trắng, lễ thanh tẩy, lễ tro, thánh lễ tình yêu, hồi kinh lễ sớm, đóng đinh…(Hạt bụi trần gian/ Bị đóng đinh vào cái đẹp); hoặc thỉnh thoảng, trong Phật giáo: ngũ uẩn, vô thường, sắc không…(lạ lùng ngũ uẩn). Nói chung, dù là sáng tạo hay vay mượn, chúng giúp làm sáng tỏ, làm phong phú thêm hay thậm chí, làm bật ra những khuất lấp chìm sâu trong ý niệm. Chính vì thế, thơ Trần Hoàng Phố rất ít hiện thực; nếu có, hiện thực chỉ lả một chất phụ gia. Anh dùng ý niệm, không hẳn chỉ để lý giải, mà hầu hết là để hình dung thế giới hay nói đúng hơn, hình dung cõi nhân sinh. Đó là một cõi buồn, tan vỡ, rạn nứt, lênh đênh, bấp bênh – một cõi ít thấy bóng dáng của hạnh phúc và niềm vui. Dẫu vậy, đó không phải là những thao thức hay suy gẫm đời thường (về một mối tình tan vỡ, một nỗi tuyệt vọng hay một cái chết cụ thể nào đó) mà là những thao thức, ray rứt đậm đà triết lý. Làm thơ như một tra vấn về hiện hữu. Như một khắc khoải siêu hình: hư vô, thời gian, bản ngã, linh hồn, phục sinh, cái bóng, tha nhân, luân hồi, bản thể, vân vân và vân vân.

  • Tôi bước đi và chìm trong mù sương/ Bóng của một cái bóng/ Tôi tan ra trong giá đông (…)Tôi đối diện với chính mình” (Bóng của cái chết).
  • Đóa hoa thạch thảo tím biếc/ rơi vào bên trong khoảng trời ký ức/ Bạn lặng nghe tiếng nói bí ẩn/ từ đáy sâu nội giới thầm thì/ Gió/ Ra đi/ và/ Gió trở về/ Ngôi nhà xưa tịch mịch/ Hàng nghìn bóng ma kỷ niệm tìm về/ Trong tiếng rơi vỡ lặng lẽ thời gian (Tiếng rơi vỡ thời gian)

Ta dễ dàng nhận ra ngay: ngôn ngữ đan xen, chồng lấn, hòa tan với, hoặc trong, ý niệm.

Có vẻ như Trần Hoàng Phố thoát khỏi những ám ảnh đời thường”?  Không hẳn.

Trong “Lời ngỏ” của tập thơ “Quê quán tôi xưa” (2002), Trần Hoàng Phố thú nhận: “Một cơn “sốc” tâm hồn để đi đến mười hai năm “diện bích”, mười hai năm chiêm nghiệm những cõi mình đã sống, đã mơ, đã nhớ. Những bể dâu của lịch sử và con người. Những bão táp cuộc đời, những cuộc chiến tranh, những cuộc cách mạng là những tiếng vọng chập chờn và những hình bóng lung linh trên vách đá của tâm hồn thơ.”[2] Cao Thị Hồng, dường như bắt mạch được trạng thái tâm hồn khá phức tạp này của Trần Hoàng Phố, nhận xét: “Sinh ra và lớn lên trên một đất nước có quá nhiều biến cố lịch sử làm thay đổi vận mệnh dân tộc, cũng như phận số của biết bao người, lại mang trong mình phẩm tính của một trí thức dấn thân theo tinh thần tư tưởng triết học hiện sinh, Trần Hoàng Phố không thể “dửng dưng” đi “bên lề” những biến chuyển của lịch sử dân tộc, mà nhà thơ là một chứng nhân…” (…) “Nhưng rồi, cũng như bao lớp người cùng thế hệ, khi nhận ra những điều mình thần tượng, tôn thờ cuối cùng cũng chỉ là “ảo ảnh” được đắp xây bằng những ngụy tín và mọi danh vọng, lợi quyền trong cuộc đời suy cho cùng chỉ là hư ảo.”[3]

Theo tôi, đó là một khía cạnh khác – dù chỉ xuất hiện rải rác – trong thơ Trần Hoàng Phố. Khía cạnh này phản ảnh những ám ảnh lịch sử và đặc biệt, ám ảnh tháng Tư, hay nói theo ngôn ngữ Trần Hoàng Phố, “vực thẳm tháng tư”.

Bóng chúng ta in trên tấm thảm giấc mộng

Tháng tư xanh như nỗi đợi chờ

Tháng tư đỏ như niềm vô vọng cây trái bơ vơ

(…)

Ôi tháng tư tháng tư

Xin cho linh hồn tôi bước qua được cây cầu phân ly

Bắt qua trái tim đầy những bóng mây xám u buồn lịch sử (Bài ca chiếc bóng tháng tư)[4]

Đã kinh qua vực thẳm này, Trần Hoàng Phố tra xét lại cái gọi là “lịch sử”.  Đó là một sự gặp gỡ giữa hai khái niệm “dối lừa” (đỏng đảnh) và (giấc mơ) “quyền lực”:

Lịch sử đóng kịch diễn trò trước sân khấu đám đông tháng tư

Nó tạo nên những kịch tính thiện ác địch ta tốt xấu

Nhân dân buồn thay chỉ là những con tốt thí qua sông

Cho sự dối lừa đỏng đảnh

của những giấc mơ quyền lực (Khúc hát về sự vô thường của lịch sử) [5]

            Những hình ảnh chứa đựng trong thơ mang ý nghĩa kép: vừa là ẩn dụ lại vừa bóc trần ẩn dụ. Vừa đóng vừa mở. Vừa cụ thể lại vừa trừu tượng. Vừa giấu vừa bày. Vừa ý niệm lại vừa hiện thực. Anh xé toạt từng góc khuất ẩn chứa trong khái niệm lịch sử. Nói về khái niệm mà đồng thời lại  như một lời tự thú:

  • Lịch sử

như

một kẻ ngây thơ tội đồ dại khờ

(…)

Nó loay hoay

với đám bòng bong sự  kiện giữa thật và dối trá

Nó quay cuồng bối rối

giữa các lằn ranh ngoằn ngoèo ma quái con người và các giáo điều khô cứng

                                                                                                (Bài ca về sự dại khờ)[6]

  • Lịch sử đôi khi được dẫn dắt bởi bầy cáo mù

    chúng xảo quyệt ranh ma

    cắn xé lẫn nhau như hổ dữ tranh ăn

    nhưng chúng sờ soạng cứ đi ngàn bước loanh quanh

    mà cứ tưởng như đang thẳng tiến tới tương lai rạng rỡ

    mà chẳng ngờ đẩy cả cả bầy đàn

    xuống hố lầm than

                                          (Đi về đâu hỡi lịch sử)[7]

Những “tội đồ dại khờ” bị các “giáo điều khô cứng” phỉnh gạt chẳng ai khác hơn là “nhân dân”:

Bị tước đoạt

Bị lãng quên

Nhân dân

chính là người tù nhân vĩ đại của lịch sử (Bài ca về sự dại khờ)

Hậu quả là sản sinh ra một thời đại mà Trần Hoàng Phố gọi đích danh là “thời thổ tả”. Ngôn ngữ ở đây không nằm an toàn và sang cả trong lãnh vực ý niệm, mà quấn quýt lấy hiện thực, phản ảnh một cách trần trụi nhiều mặt của khung cảnh đất nước hiện nay.

Thời thổ tả

Bầy bướm quỷ bay đầy đêm liêu trai

Quan bỗng dưng hóa thành cướp

            (…)

Mặt trăng đỏ màu máu

Tiếng quạ kêu thê lương đầy thành phố thôn làng

(…)

Cả nước đua nhau

bán buôn ăn thực phẩm bẩn

Cửa công

Quan trường người ta đua nhau

mua quan bán tước

(…)

Nhân dân là kho của cải vô tận

Cho các nhóm lợi ích thi nhau vặt lông

(…)

Tài nguyên

rừng biển núi đất đá

khoáng sản hàng triệu triệu năm

Bị khai thác 

bị vắt kiệt

xuất khẩu vô tội vạ

            (…)

Nợ công cứ vay tràn đìa

cho các dự án đa phần bánh vẽ

Nợ chồng lên nợ

Bẫy thòng lọng giăng ra

Các quan tham lao vào như những con thiêu thân đớp

Và nhân dân bị treo cổ

            (…)

Học đường thiêng biến thành nơi phô diễn bạo lực

Ngay cả nữ sinh biến thành thú dữ

Đánh hội đồng màn man rợ như một bầy thú hoang

Thầy hiếp dâm học trò vừa buông lời kinh sách

(…)

Các toà nhà cao tầng lộn ngược

Thánh thần đu dây làm xiếc

            (…)

Các đền đài chảy mồ hôi máu

Ruộng nứt những khe sâu rộng bằng dòng sông mùa lũ


            (…)

Cả nước ăn bùa mê thuốc lú

Tỉnh mê mê tỉnh như nhập đồng

khi tinh hoa cặn bã lên ngôi cửu đỉnh

(…)

Rồng lộn đầu thành con cá chết trôi

Trong dòng sông lịch sử ô nhiễm

(Bài bi ca thời thổ tả)[8]

Hiện thực mà tưởng như siêu thực!

  1. Một bài thơ: Nỗi Huế

nơi đó

thành quách nhiều hơn người

giai thoại đè lịch sử

thuở nhỏ

tôi đi dọc theo những con đường vuông

góc thành này đến góc thành kia

lớp lớp rêu bám đầy

nhẫn nhục, cổ sơ

nghiêm cẩn đến nao lòng

nhìn hoài vẫn cứ tự hỏi …

*

tôi giẫm bước vô danh trên những địa danh

quá khứ được ăn tiêu rất kỹ

những khu vườn có cổng chắn

tường lở nhiều chỗ

vài đoạn rào thép gai

chắp vá hờ hững

ngôi nhà thấp

chật ních kỷ vật

câu đối sơn son thếp vàng hồn nhiên ngủ kỹ

ngang và dọc

mục và quý phái

cũ và kiêu sa

giai thoại mọc lên từ mỗi góc nhỏ

ngày tháng co giãn

đậm đặc nỗi tự hào

*

thuở thanh xuân

mân mê những livre-de-poche Ưng Hạ

đọc cọp báo Sài Gòn Mới Gia Long

tà tà Phan Bội Châu

nhìn trộm Phương Lan

dựa cột đèn Trần Hưng Đạo

ngắm từng em từng em đi qua

rỡ ràng phố chật

cốc cà phê Lạc Sơn chiều muộn

hơi người hơi ruốt

nhớ bâng quơ

*

chiều mưa giông Đồng Khánh

những con chim bồ câu

túa ra

ướt mèm áo trắng

cậu học trò không chịu về nhà

nép dưới tàn cây

hiên phố

ngẩn ngơ

*

huế rất lạnh mà rất nắng

mưa thì phùn và gió rất khô

trời mênh mang mà người thì lặng

những buổi chiều hiền

thẩn thơ đường nhỏ

em đi như tĩnh vật

tôi rụng rời cơn mơ

*

nhiều lần lang thang quanh hoàng cung

nghe gạch ngói thở

sờ đám tượng trên sân chầu

ẩn nhẩn

đìu hiu

leo lên lầu ngọ môn

thấm thía dòng hư tự

quan ở đâu vua ở đâu cờ quạt ở đâu

chỉ là mấy bông sứ lặng lẽ rụng

trong hồ sen ngơ ngác

hít hà chút cổ sử

ngậm ngùi thơm

*

đó là nơi tỏ ra rất tiện lợi

cho nhiều màn trình diễn

ngoạn mục bất ngờ

có khi trịnh trọng có khi bình dân

có khi rất chuyên nghiệp

và những tan vỡ liên tục diễn ra

thật chậm rãi

đủ để người ta thưởng thức nỗi mất mát

của chính mình

*

lắm khi

từ trong cái ù lì lặng lẽ

bỗng vươn vai đứng dậy

y như thể đã chuẩn bị từ bao giờ

vội vội vàng vàng

băng cờ la hét

đường phố hừng hực

khát khao thu gọn chiều dài lịch sử

*

dưới kia

sông vẫn lặng

đò vẫn trôi

sông còn thơm

mà đò thì chật

*

những ngày xuân âm khí năm nào

thành quách nín

đất đá nghẹn

cỏ cây câm

hố hầm co quắp

ngột

âm bản cuộc liêu trai

*

lại có khi

thành phố bồng bế nhau

vứt cả rực rỡ hè mới chớm

rùng rùng bỏ chạy

đi đâu?

không biết đi đâu

miễn là xuôi Nam

để lại một cõi lặng

không gian rỗng

sàn diễn trống trơn

những con chó mất chủ chạy rất tự do

và vô vọng

hàng phượng lạc loài

chấp chới bay

gió nắng rong chơi

vòng vèo quanh nội thành ấm ức

*

kiêu binh về

bắt đầu mắng mỏ nhiếc móc

thậm chí oán thù

những người đã chết

y như thể không có họ

thì đất nước sẽ thành cường quốc từ thế kỷ 18!

bỗng nhiên

mọi thứ được vội vã  hóa thân

hội hè đình đám

những ngợi khen đẫm mùi tiếp thị

phục chế/tân trang kẻ thù

đem ra bày bán

*

chữ nghĩa không xương…

*

sorry huế!

đành phải ra đi

*


bỏ phía sau nhìn phía trước.

lạc lõng giữa đất trời lạ hoắc

*

ăn cũng huế

nói cũng huế

đi cũng huế

chào cũng huế

thương cũng huế

nhớ cũng huế

ngày huế

đêm huế

lao xao những ôn những mụ những o những dì

đám trẻ con ngỡ ngàng

tưởng còn thời khuyết sử

cô cháu nhỏ tò mò

what’s hue, ngoai?

hue here! tôi chỉ vào bà ngoại

really, ngoai?

yes

ngoai oi, so i love hue so very very much.

*

tháng bảy quay quắt huế

đến hẹn

nước lại lên

nước tràn Đập Đá nước lút bến đò Cồn nước ngập Bao Vinh nước ngâm quốc lộ

…đãng trí

tôi không về

ai lội lụt thăm em

*

một thuở

vỉa hè/góc phố

nắng/mưa

lụt/bão

nghèo/thiếu/đói/no

tù/ngục

*

…một thuở…

*

thành phố thì còn


huế đã đi

vĩnh viễn đi!

  1.  

Aristotle bảo: Con người là một con vật xã hội.

Vâng, tôi là con vật Huế: những biến cố Huế đã định hình tôi.

Ở xa, tôi nhớ Huế.

Đi giữa lòng Huế, tôi lại càng nhớ…Huế!

Nỗi nhớ lớn hơn cả tôi.

Tôi, một vết quá khứ nhỏ nhoi xẹt vào hiện tại; một thoáng thời gian rớt xuống không gian. Bất cứ cái gì còn lại cũng gợn lên những điều đã mất. Đi mà như thể chẳng đi. Về mà như thể chẳng về. Thực mà hoàn toàn ảo! Thời gian ở đây đã nhanh, lại ít oi, nhưng tôi để giành mỗi buổi sáng, đến đó theo một tiếng gọi âm thầm của ngày tháng cũ. Một con đường nhỏ Thành Nội, vắng và xưa. Lề đường lổn chổn đất, đá, cỏ xanh, lá úa, tường rêu, những chậu bông nhỏ, gốc cây già dưới tàn lá rộng, ghế bàn nhỏ nhắn, cốc cà phê đơn sơ, tách trà tém tủm, nữ chủ quán nhu mì, khách quen nhẵn mặt. Người cổ vật xưa, đạm bạc. Chuyện thì cũ, rất cũ. Những nụ cười. Những câu chuyện. Quyện vào trong không gian tràn đầy quá khứ. Những Huếs tôi. Huế thu nhỏ lại. Nhưng vô cùng lớn.

Hue 1

Những Huếs

(Hình: Tín – 10/2022)

Thì Huế là nỗi huế nỗi huế nỗi huế nỗi huế…

TDN

(8/2020-11/2023)

[1] Trần Hoài Anh, Cảm thức hư không và nỗi cô đơn bản thể trong thơ Trần Hoàng Phố

Cảm thức hư không và nỗi cô đơn bản thể trong thơ Trần Hoàng Phố

[2] Dẫn theo Cao Thị Hồng, Cảm thức thời gian trong thơ Trần Hoàng Phố

Cảm thức thời gian trong thơ Trần Hoàng Phố – Tiểu luận Cao Thị Hồng

[3] Trần Hoài Anh, Cảm thức hư không và nỗi cô đơn bản thể trong thơ Trần Hoàng Phố

Cảm thức hư không và nỗi cô đơn bản thể trong thơ Trần Hoàng Phố

[4] Trần Hoàng Phố, Bài ca chiếc bóng tháng tư.

Trang mạng Nguyễn Đức Tùng: https://nguyenductung.org/?p=601

[5] Trần Hoàng Phố, Khúc hát về sự vô thường của lịch sử

https://vandoanviet.blogspot.com/2023/06/tho-tran-hoang-pho.html#more

[6] Trần Hoàng Phố, Bài ca về sự dại khờ

[7] Trần Hoàng Phố, Đi về đâu hỡi lịch sử

Trang mạng Nguyễn Đức Tùng: https://nguyenductung.org/?p=601

[8] Trần Hoàng Phố, Bài bi ca thời thổ tả. Xem:

https://vandoanviet.blogspot.com/2023/11/bai-bi-ca-thoi-tho-ta.html#more

bài đã đăng của Trần Doãn Nho

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)