Viết là vẽ trên giấy những con chữ.
Nhớ lại lúc mới bắt đầu đi học, phải cầm cây viết, chấm mực, móc lên kéo xuống, vòng bên phải quẹo bên trái…chẳng giống cái gì ra cái gì. Vẽ con mắt, lỗ tai, bàn tay còn vui, vì ít ra chúng cũng dính dáng đến những cái nhìn thấy hàng ngày. Đàng này, phải vẽ những đường, nét vô nghĩa, chẳng ăn nhập gì với một cậu bé chỉ biết ăn và chơi.
O tròn như quả trứng gà
Ô thì đội mũ, ơ là thêm râu.
Bị la bị rầy bị ép mãi rồi cũng phải viết được. Xê-hát-o-cho-sắc-chó, em-mờ-e-me-e-o-eo-là-meo-huyền-mèo, anh-nờ-hát-a-nha-huyền-nhà, đờ-i-đi xê-hát-ơ-chơ-nặng-chợ…
Khi viết trơn tru được chữ này chữ nọ để chỉ những vật dụng hay con vật quen thuộc, cậu bé bắt đầu hiểu ra mối liên hệ giữa nói, viết và sự vật chung quanh. Nói “mèo”, viết xuống chữ “mèo” và thấy con mèo. Thì ra vậy! Chữ mèo là con mèo. Khi nhìn thấy hay khi nghe ai nói về con mèo, là chữ M-È-O tự nhiên đến ngày trong đầu cậu.
Đến khi viết ra được câu kéo, và diễn tả được ý mình, cậu bé bắt đầu khám phá ra chữ dường như không chỉ có thế. Không cần hình minh họa kề bên, không cần vật nằm trước mặt, chữ vẫn có thể nói về chúng y như thể chúng có đó. Chữ không phải là vật, mà thay cho vật.
Đọc chữ người ta viết sẵn lại càng thú hơn. Chúng cho cậu bé biết vô số điều cậu không thể tìm thấy quanh cậu, là những việc, những chuyện ở nhiều nơi xa xôi, trên trời, dưới đất, hay là những gì xưa thật xưa. Chữ không những thay cho vật mà dường như còn làm ra vật.
Từ đó, thế giới chữ thay thế thế giới bên ngoài. Con mèo, con chó, con gà vẫn còn đó; cái cây cái nhà, cái chén, đôi đũa vẫn còn đó, nhưng cậu mất dần sự quan tâm. Cậu ít thích viết chữ gà, chữ chó đã đành, mà ngay khi viết ra, chữ “gà” không còn là con gà hay chữ “chó” không còn là con chó như trước đây. Chữ bây giờ có ý, có nghĩa thay vì là một thứ bù nhìn của vật. Chữ thoát khỏi vật mất rồi!
Đó là lúc cậu bắt đầu thích sự, thích chuyện. Tập làm văn, cậu bắt chước những câu kéo hay ho trong sách để nói ra ý mình. Nhưng thú nhất là với chữ, cậu có thể chế tạo ra hay thêm thắt những điều không có hoặc có khi chẳng hề dính dáng gì đến thực cảnh. Như chiếc đũa thần, chữ giúp cậu biến không thành có, biến có thành không. Tóm lại, bịa. Bịa, nói trắng ra là nói láo. Nói láo thì bị mẹ đánh đòn ngay. Nhưng bịa chuyện trời trăng mây nước, bịa chuyện của ai đó, có lớp có lang, có câu có kéo thì nghe ra…chẳng bịa tí nào. Chả là, ngay từ lúc còn thơ ấu, khi chưa biết viết biết đọc, cậu đã sống trong không khí của chuyện bịa rồi: thần, tiên, ma, cô Tấm cô Cám, hoàng tử nhái, cô bé lọ lem, Lâm Sanh – Xuân Nương, Thạch Sanh – Lý Thông…Toàn là chuyện và chuyện. Chuyện mang cậu bé vào một thế giới hoàn toàn khác, hư thực nhập nhằng.
Chuyện? Chẳng qua là ghép chữ thành câu, ghép câu thành sự, kết sự này qua sự kia thành một chuỗi, kể lại, viết ra nghe như thực.
Thoại Khanh cõng mẹ băng rừng
Bỗng đâu gặp cọp giữa đường đón ngang
Hai câu thơ kể chuyện Thoại Khanh Châu Tuấn hồi còn bé thơ mà đến bây giờ tôi vẫn còn nhớ như in vào trong trí. Thương quá là thương người vợ hiền, cô dâu thảo Thoại Khanh! Nhưng tìm ra đâu Thoại Khanh, tìm ra đâu Châu Tuấn, tìm ra đâu cái cảnh cõng mẹ băng rừng rồi gặp cọp giữa cuộc sống chỉ toàn là thực và thực này!
Thế mới hay, chữ không còn chỉ là o tròn, ô đội nón, ơ thêm râu hay nét móc, nét thẳng. Không còn viết mực, viết máy, viết chì; có khi, cũng chẳng còn hành động ‘viết” nữa, mà là đánh (máy), là gõ (bàn phím), là sao chép và dán (copy & paste). Từ chữ thủ công lên đến chữ công nghiệp. Từ chữ thực đến chữ … ảo. Ảo hay thực thì chúng cũng đều có thể tạo ra chuyện.
Kinh nghiệm chữ thú vị nhất, mang chút ít sáng tạo đầu tiên trong đời tôi là …viết thư tình. Bị một cô hàng xóm ám ảnh, tôi sử dụng số vốn chữ ít ỏi của mình để bịa tình bịa cảnh. Và cho thêm nhiều gia vị. Có khi còn pha chút nước mắt. Gửi tới nàng. Chữ như cái hộp chứa đồ, tôi bỏ món tình tôi vào đó. Nàng mở hộp, lấy món tình ra và … đọc. Đọc nhiều lần quá, nàng (có lẽ) cảm động bèn gửi biếu lại tôi món tình nàng, cũng bằng … chữ. Cuối cùng, bịa mà thành thực. Nàng yêu tôi. Ba chữ.
Sau này, nghiện văn thơ, tôi sa hẳn vào thế giới chữ. Đọc chữ, viết chữ. Không còn là vẽ từng con chữ một, mà là từng loạt chữ, nói cho văn hoa là … sáng tác. Lúc đầu, tôi cố viết, à quên, cố đẻ chữ, chế chữ, vặn vẹo câu kéo với mục đích rất chân chính là đưa vào trong chữ của mình những điều có thực. Tôi dùng chữ để phản ảnh những điều diễn ra chung quanh. Tôi tìm cách gói ghém những gì tôi trải nghiệm trong đời sống vào chữ. Nhưng chữ không chiều người. Chữ có hạn, mà chuyện thì muôn màu muôn vẻ. Chúng không kham nổi khối lượng bề bộn, ngổn ngang của hiện thực. Nếu ví chữ như một loại bao bì, thì kích cỡ của chúng quá nhỏ so với hiện thực. Bọc được đầu này thì lòi đầu nọ, túm phía bên này thì hở phía bên kia. Mà chở nặng quá, chữ không bay được lên trời, không bơi được ra biển lớn. Không…văn chương.
Vả, chữ cột với nghĩa. Mà nghĩa thì chao ôi, mông lung, bất định. Lắm khi, chữ một đàng mà nghĩa thì một nẻo! Văn dĩ tải thực đã khó, nói gì đến chuyện văn dĩ tải đạo. Tải đạo? Nội chữ “đạo” không thôi cũng đã tốn giấy tốn mực tốn thời gian cãi vả để rốt cuộc chỉ có mấy chữ văn/dĩ/tải/đạo nằm tênh hênh trên giấy!
Thôi thì chỉ còn cách là đùa chơi với chữ. Có chứa chút nào hiện thực thì tốt, không có cũng chẳng sao. Nghiệm lại, những áng văn hay thường bịa nhiều hơn thực. Trong văn, chữ còn gói được dăm điều ba chuyện bên ngoài. Thơ đi xa hơn. Trong thơ, chỉ có chữ gói lấy chữ.
Cái hay khó tách lìa khỏi cái bịa!
Nói bịa, nghe bôi bác.
Xin nói lại: hư cấu.
Hư cấu chẳng phải là bịa hay sao, nhưng nghe lọt lỗ tai hơn nhiều! Vì sao? Có lẽ vì chúng là…chữ.
Hàng ngày, chúng ta sống với chữ. Mọi chuyện trên đời đến với ta đều phải băng qua ngưỡng chữ. Chữ vây hãm chúng ta. Tới trường, học chữ. Tới sở, đọc chữ. Ra phố, nhìn chữ. Vặn máy thu thanh, nghe chữ. Gặp bạn, nói chữ. Tỏ tình, chữ. Chia tay, chữ. Xin việc, chữ. Suy gẫm chuyện đời, chữ. Sáng tác, tìm chữ. Viết tiểu luận, nghĩ chữ. Lên mạng, chạm ngay từng rừng chữ. Trùng trùng điệp điệp chữ, mênh mông chữ!
Chữ có lẽ là món hàng thừa mứa và rẻ nhất mà chúng ta có. Tuy thế, nói như N. A. Berdyaev: “Chữ có một quyền năng lớn lao trên đời sống chúng ta, đó là một quyền năng huyền bí. Chúng ta bị chữ quyến rũ và với một mức độ đáng kể, chúng ta sống trong vương quốc của chúng. Chữ hành động, giống như những quyền năng độc lập, và độc lập với chính nội dung của chúng.” (1)
Chữ không phản ảnh hiện thực (bịa mà!), nhưng lại có tác động vô cùng to lớn vào hiện thực. Làm biến dạng, thay đổi hay thậm chí tạo ra hiện thực.
Một lý thuyết hay có thể chuyển đổi khuôn mặt xã hội và nếp sống hàng ngày.
Một cuốn sách, một bản tuyên ngôn, đôi khi một câu khẩu hiệu có thể huy động người ta lao vào chỗ chết.
Trong cuộc đời thường, chữ làm vui nhau mà cũng làm đau nhau.
Giận, lấy chữ mà giận. Thù, lấy chữ mà thù. Yêu, cần chữ để yêu. Nhớ nhung cũng phải có chữ mà nhớ.
Lắm lúc, thêm một chữ thì chia lìa, bớt một chữ mà đoàn tụ.
Đôi khi tôi hoang mang tự hỏi: khi làm một việc gì, tôi làm vì chữ hay vì việc. Viết chẳng hạn. Cứ mỗi khi viết một bài gì đó, ngoài chuyện lấp đầy trang giấy, loanh quanh trong đầu óc tôi là những chữ: hay, cách tân, độc đáo, tuyệt, sâu sắc, nổi tiếng, khen, ngưỡng mộ…Cứ mỗi lần định làm một điều gì cho thỏa mãn ước vọng sâu kín của mình, thì ngay lập tức trong đầu hiện ra một loạt chữ: danh dự, tiếng tăm, trách nhiệm, chê cười, xa lánh, lên án, chỉ trích, đạo đức, gia thế. Vân vân và vân vân. Chữ quấn quýt quanh ta không rời. Như hình với bóng. Như mặt trái mặt phải của một đồng tiền. Quay phía nào cũng đụng bức tường chữ. Bên kia bờ chữ là gỉ, ai mà biết.
Có cách gì chúng ta có thể bước ra ngoài ngôn ngữ để tiếp cận một thế giới thực sự?
Câu trả lời là: không!
Biết thế, các nhà nước toàn trị trị dân bằng chữ. Họ bắt người dân xài một số chữ và cấm xài một số chữ khác. Ở Trung Quốc, theo tin cho biết, người ta không thể google hai chữ “dân chủ” hay “nhân quyền.” Và nhất là ba chữ “Thiên An Môn.” Ở Việt Nam, chữ phải xếp hàng về một phía. Bước qua phía bên kia thì sẽ nhận ngay một chữ: tù.
Tôi, khi viết lách, cũng tự cấm mình không dùng một số chữ (tục). Vì sao? Vì bị kẹt vào một số chữ khác: danh dự, tiếng tăm, nhân cách…Kẻo không lại bị gán cho một số chữ khác nữa: già mà không nên nết. Nhưng chữ (tục) đâu có chịu thua: chúng vẫn cứ hồn nhiên mọc lên trong trí. Lạ thật!
Chữ, nói như I.A. Richards, tự bản chất là không xấu không tốt không đúng hay sai (2). Chữ “dữ” không có gì là ác hết; chữ “hiền” chẳng có gì là “không ác”, chữ “cách mạng” không có gì là thay đổi, chữ “phản động” không có gì là chống nhà nước, hay chữ “nhân quyền” không có gì là quyền con người…, vân vân và vân vân. Nhưng do cách dùng, chúng đến với chúng ta y như mỗi chữ đều có cá tính riêng, nội dung riêng, có thể quy định tính cách, trạng huống của sự vật, và lắm khi quy định cả nhân cách, bản sắc và số phận của từng người.
Tên chẳng hạn: mỗi người chịu đựng một cái tên; đôi khi mỗi tên đeo theo một nhãn hiệu. Khi thấy tên mình xuất hiện trên mặt báo kèm theo những lời chê bai, chỉ trích chẳng hạn, ta cảm thấy y như ai đó lấy tay véo vào da thịt đau nhói. Vậy cho nên, nhái theo TCS,
Làm sao em biết con chữ không đau!
Ðến đoạn này, là tôi đã “viết” được đúng 2028 chữ rồi đó. Ðộc giả nào chịu khó đọc hết, thế nào cũng xuất hiện trong đầu một trong những chữ: hay, dở, tệ, nhảm, xuất sắc, khá, láo, kém, dốt, lủng củng, lẩm cẩm…
Lưới chữ tuy thưa nhưng xem ra khó thoát!
Nghĩ lại, lúc đánh vật với những xê-hát-a-cha em-mờ-e-me-nặng-mẹ i-ê-u-yêu anh-nờ-hát-a-nha-a-u-au-là-nhau…
…hồi xửa hồi xưa mà buồn cười!
Trần Doãn Nho
(4/2010)
__________________________
(1) Nikolai Alexandrovich Berdyaev (1874-1948), Words and Reality in Societal Life
http://www.berdyaev.com/berdiaev/berd_lib/1915_206.html
(2) Xem I.A. Richards, The Philosophy of Rhetoric, Oxford University Press, New York 1965, tr. 48