Huế, cũng như Hà Nội, Sài Gòn vốn là biểu tượng chung cho cả đất nước, vì cả ba, trên quá trình lịch sử, đã từng đóng vai trò “thủ đô”. Người Việt Nam, dù quê ở đâu, có lẽ ai cũng mang một chút Hà Nội, một chút Huế, một chút Sài Gòn ở trong lòng. Tổ tiên ta, trên con đường di dân tìm đất sống, mấy ai không phải đi ngang Huế, dừng lại ở Huế, làm người Huế trước khi vượt con đèo Hải Vân hiểm trở để xuôi Nam, trở thành người Đà Nẵng, người Nha Trang, người Sài Gòn, người Vĩnh Long… Triều Nguyễn, giòng họ lập ra Huế, vốn gốc Gia Miêu, Ngoại Trang, Thanh Hóa; vua Quang Trung, người Bình Định, chọn Huế để làm lễ lên ngôi. Nhiều phi tần nhà Nguyễn gốc miền Nam, theo chồng, mang theo cả bà con, cháu chắt ra định cư ở Huế. Nhiều người từ các nơi khác về Huế làm quan hay học hành, lấy vợ sinh con, trở thành dân Huế. Tôi cũng thế, tổ tiên vốn từ miền Bắc trên đường kiếm sống, đã đến Huế định cư đâu từ đầu thế kỷ trước (20). Chẳng lạ gì, nhiều gia đình “Huế chay”, nhưng lật gia phả ra, thì hóa ra, tổ tiên vốn gốc ở Quảng Nam, Bình Định, Sơn Tây, Hà Nội hay Cần Thơ, Rạch Giá…
Huế không của riêng ai.
Là thủ đô, Huế là cái nôi của mọi biến cố: thay vua đổi chúa, tranh chấp con trưởng con thứ, loạn Chày Vôi, thất thủ kinh đô, cướp chính quyền, thoái vị, truất phế… Đến thế hệ tôi – những người sinh ra vào những năm quanh quanh thập niên 1940 – khi lớn lên, thì Huế đã trở thành “cố đô”. Sau hiệp định Genève, cố đô Huế may mắn được “chia” cho miền Nam, nhờ thế, thoát khỏi hơn hai chục năm chịu đựng cái “lò” thí nghiệm phí phạm cả người lẫn của của miền Bắc xã hội chủ nghĩa; lại được giao tiếp với thế giới văn minh, tiến bộ bên ngoài, tạo cơ hội cho sự phát triển trên nhiều lãnh vực khác nhau.
Tưởng đã là “cố đô”, thì yên. Đột nhiên năm 1963, sau một thời gian ngủ vùi trong “xứ Huế mộng mơ”, “cố đô” sinh chuyện. Đêm đó, Phật Đản, tôi đạp xe qua cầu Trường Tiền, tiến theo dòng người đến đài phát thanh Huế để đòi hỏi được nghe phát thanh lại bài phát biểu của Thượng Tọa Trí Quang tại chùa Từ Đàm sáng hôm đó về sự kiện cấm treo cờ Phật giáo. Đang loay hoay nhích từng chút một giữa cầu, thì chợt nghe một tràng tiếng nổ vang từ phía bên kia cầu, tôi hốt hoảng quay ngược, vác chiếc xe đạp chạy bộ cùng đoàn người hoảng loạn dồn về phía phố, rồi vội vã đạp về nhà. Tám người chết! Sự kiện đơn lẻ đó bỗng trở thành một bước ngoặt lịch sử: phản ứng dây chuyền tạo thành một chuỗi biến cố mà cả thế hệ tôi bơi lội, vùng vẫy trong đó cho mãi đến…1975.
Từ đó, suốt cả một thời gian dài, địa danh Huế xuất hiện dài dài trên các bản tin nóng bỏng hàng ngày của truyền thông quốc tế, vượt qua cả hai “thủ đô” Sài Gòn và Hà Nội. Huế tuyệt thực. Huế tự thiêu. Huế xuống đường, Huế bãi khoá, bãi thị. Huế giới nghiêm. Huế “ghế đá công viên dời ra đường phố”. Huế hội thảo. Huế đốt phòng thông tin Mỹ. Huế bàn thờ ra đường. Huế Mậu Thân. Huế mùa hè đỏ lửa. Huế chạy giặc. Chưa có một giai đoạn nào trong lịch sử, Huế tự do, sôi động và tang thương như thế. Huế sẵn sàng cho mọi khả thể: phát biểu, hát hò, lên án, đòi hỏi, đàn áp, bắt bớ, tù đày…Dù chiến tranh khốc liệt, cả miền Nam mở toang. Huế mở toang. Khao khát tự do và dân chủ thôi thúc tuổi trẻ dấn thân. Bạn bè của tôi và tôi đã tham dự rất nhiều lần những cuộc bãi khóa, xuống đường, hội thảo chống độc tài, đòi tự do, dân chủ đòi bầu cử đa nguyên đa đảng, chống tham nhũng, độc tài. Bản thân tôi đã phải vào tù hai lần vì tội tham gia “tranh đấu”.
Bày tỏ quan điểm, lập trường và đòi hỏi của mình qua các cuộc biểu tình là một sinh hoạt cần thiết thúc đẩy cải cách và tiến bộ. Những quốc gia gần gũi như Đại Hàn, Đài Loan, Phi Luật Tân hay Indonesia, Mã Lai, Ấn Độ đều lần lượt trải qua những cuộc vùng lên như thế của nhiều thế hệ sinh viên học sinh, trước khi trở thành những nước dân chủ phát triển như hiện nay. Tiếc thay, Việt Nam bị hoàn cảnh lịch sử đẩy qua một số phận khác. Thay vì là một động lực giúp đất nước phát triển về hướng dân chủ và tự do như thế hệ tôi mơ ước, các phong trào đấu tranh trở thành những “con ngựa thành Troy” (The Trojan Horse)[1] của đảng cộng sản. Họ đưa người len vào hàng ngũ Phật giáo, cài cán bộ vào các tổ chức sinh viên học sinh và các phong trào tranh đấu để quay hướng theo mục tiêu định sẵn của họ. Thắng lợi xong, họ dùng chiêu bài “yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội”, lập tức đóng kín mọi cánh cửa, đẩy đất nước ngược về chính sách bế quan tỏa cảng của triều đại phong kiến xưa cũ. Hai chữ “giải phóng” trở thành phản ngữ: thay vì mở ra, nó trùm một bức màn đen kín mít lên toàn bộ đất nước. Sau 1975, cả một miền Nam hôi hổi nóng bỗng nhiên nằm im re như bị hóa đá.
Biến cố tạo nên nhân vật. Thế hệ trước, quý ngài: Ngô Đình Thục, Cao Văn Luận, Thích Trí Quang, Thích Đôn Hậu, Thích Trí Thủ, Thích Tiêu Diêu…và một khuôn mặt đặc thù: cố vấn Ngô Đình Cẩn. Thế hệ sau, mới toanh: những là Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phan, Nguyễn Đắc Xuân, Bửu Tôn, Vĩnh Kha, Trần Xuân Kiêm, Nguyễn Đính, Trần Quang Long, Phan Duy Nhân; những là Lê Hiếu Đằng, Nguyễn Hữu Ngô, Thái Ngọc San, (Tiêu Dao) Bảo Cự, Lê Khắc Cầm, Lê Đình Cai, Lê Hữu Bôi, Hồ Tính Tình, Chu Sơn, Võ Văn Đông…Quán cà phê, giảng đường và những cuộc tranh cãi đã làm tất cả chúng tôi không lạ gì nhau. Trong số họ, có người là thầy, có người là bạn học, bạn cùng xóm, bạn cà phê, bạn tranh đấu hoặc có khi là bạn “đối thủ”. Huế thời đó mang không khí của một thành phố phương Tây nào đó thu nhỏ. Paris chẳng hạn. Các tài năng cỏ đủ không khí và điều kiện tự do để phát triển, nhất là về văn học nghệ thuật. Chỉ xin nêu lên một số khuôn mặt điển hình: Đinh Cường (họa), Bửu Ý (dịch), Ngô Kha (thơ), Trịnh Công Sơn (nhạc), Huỳnh Hữu Ủy (biên khảo), Tôn Thất Lập (nhạc), Miên Đức Thắng (nhạc), Túy Hồng (văn), Nhã Ca (văn), Nguyễn Tuấn Khanh (họa, văn)), Trịnh Cung (họa), Vĩnh Phối (họa), Lữ Quỳnh (văn), Tôn Thất Văn (họa), Bửu Chỉ (họa), Hà Thanh (ca)…Nổi trội hơn hết là Trịnh Công Sơn. Đây là một hiện tượng Huế bất ngờ, có đôi chút trớ trêu. Hiện thực Huế và các biến cố Huế chật ních trong nhạc của chàng: hàng cây, nắng, mây, công viên, phượng, gió, ghế đá, mưa hồng, đại bác, đàn bò, xác người, những “chúa nhật buồn” và những “đêm khuya lạnh ướt mi”. Được nuôi dưỡng bằng không khí Huế, người nhạc sĩ này vừa “âm nhạc hóa” Huế, lại vừa cung cấp thêm dưỡng chất cho Huế.
Không có một Huế giai đoạn 1954-1975 như thế, chắc chắn sẽ không có những tài năng và một gia tài văn học nghệ thuật để lại cho đất nước như thế.
Tôi không nói ngoa.
Bửu Ý, một trong những nhà văn-dịch giả có nhiều đóng góp cho văn học miền Nam, hiện đang sống ở Huế, qua một cuộc phỏng vấn đăng tải trên tờ Sông Hương, cho biết một cách cụ thể không khí trí thức của thành phố này vào những năm cuối thập niên 1950 và đầu thập niên 1960:
“Lúc bấy giờ ở Huế cũng có một tờ tạp chí vô cùng quan trọng, đó là tờ Đại Học, tập hợp cả những cây bút nổi tiếng ở Huế lẫn Sài Gòn. Nhờ có báo chí cởi mở, nở rộ (dù chịu kiểm duyệt bởi Sở thông tin nhưng rất nhiều khi Sở thông tin kiểm duyệt chỉ cho có chứ không theo sát các tờ văn nghệ) trên một vùng đất như vậy thì nó sẵn sàng tiếp thu tư tưởng của nước ngoài, của Tây phương đến. (…) Hồi đó những tờ báo miền Nam luôn luôn sẵn chực để ngợi ca và kỷ niệm những gương mặt lớn trong văn học nghệ thuật thế giới. Khi có một hiện tượng như cái chết của nhân vật lớn hay kỷ niệm ngày mất của các tiểu thuyết gia thì miền Nam luôn luôn làm những số báo về họ. Những số báo này trở lại giúp đỡ cho sinh viên rất nhiều trong học tập. Sinh viên lúc ấy đọc sách, đọc báo nhiều lắm. Không chỉ sinh viên đọc thôi mà tầng lớp đọc còn xuống cả trường trung học, ở Huế thì có trường trung học lớn như Quốc Học, Đồng Khánh. Học sinh cỡ lớp 11, 12 đã tìm đọc các tờ báo đó rồi cho nên trình độ tư tưởng, tiếp thu rất mạnh và rất bao quát. Chừng đó thôi cũng đủ thấy những tư tưởng mới sẵn dịp là nảy nở trong lòng công chúng. Những tư tưởng mới này còn phản ánh trong nghệ thuật nữa mà đặc biệt là nhạc và họa. Hồi đó là thời cực thịnh của nhạc và họa ở miền Nam. Nếu kết nối với nữ giới và phong trào nữ quyền ở miền Nam thì lúc bấy giờ họa sĩ họ vẽ tranh thiếu nữ khỏa thân rất nhiều và đạt đến mức nghệ thuật cao. Những hiện tượng này cũng giúp cho phong trào nữ quyền lớn mạnh.
(…)
Đó là những người vừa vẽ vừa đọc sách. Họ có rất nhiều tập hội họa trên thế giới nên trước khi vẽ họ đã xem tranh. Chẳng hạn như tranh thiếu nữ hoặc thiếu nữ khỏa thân rất đẹp của Miró, Mondrian… Những họa sĩ miền Nam lúc bấy giờ xem những bức tranh này mà mê mẩn. Và những tác phẩm này không ai kiểm duyệt cả. Họ là Trịnh Cung, Đinh Cường, Nguyễn Trung… Họ vẽ không thua gì họa sĩ nước ngoài. (…) Hồi đó trong xã hội những thú vui tiêu khiển không nhiều nên học trò từ trung học như Đồng Khánh, Quốc Học đều đọc sách triết cả. Họ đọc triết học qua sách/ tạp chí dịch nhưng cũng rất giỏi tiếng Pháp. Năm 1957, tôi vừa học đại học vừa đi dạy ở trường Quốc Học Huế. Vào lớp Đệ Nhị, Đệ Nhất là toàn nói tiếng Pháp chứ không bao giờ nói tiếng Việt, chỉ khi tôi thấy từ nào khó quá tôi mới viết nghĩa lên bảng. (…) Hồi đó sinh viên, học sinh Đồng Khánh, Quốc Học có cái mốt thời thượng: các tác phẩm của tác giả phương Tây vừa ra mắt trên thế giới là có mặt ở Sài Gòn và Huế liền. Chẳng hạn cô học sinh học lớp Đệ Nhị trường Đồng Khánh nhét một chiếc khăn mùi soa nhỏ vào tập thơ bằng tiếng Pháp, cầm trên tay đi học. Cái mốt rất đẹp, rất dễ thương. ”[2]
Vâng, Huế của tôi!
Thử hình dung lại vài nét Huế của những ngày không-cộng-sản đầu thập niên 1970, dưới ngòi bút của Chu Sơn, một cán bộ cộng sản hoạt động nằm vùng:
“Một sớm cuối thu 1972, sau “đêm không ngủ” hừng hực khí thế tranh đấu cùng các anh em học sinh, sinh viên, tôi và anh Ngô Kha cùng rời sân trường Đại học Văn khoa Huế. Không khí mát mẻ, mù sương của buổi tinh mơ khiến chúng tôi tỉnh táo và sảng khoái lạ lùng. Dường như cả thành phố Huế tràn ngập trong sương mù.Vòm các nhịp cầu Trường Tiền trông như những con thuyền bồng bềnh trên khói sóng. Chúng tôi không băng qua cầu để về nhà anh Ngô Kha làm một giấc ngủ bù như dự định, mà đi dọc theo đường Lê Lợi, con đường đẹp nhất theo cảm nhận của một người bạn đã đi khắp góc bể chân trời. Đường Lê Lợi sáng hôm ấy hiện ra trước mắt chúng tôi tựa một dải lụa hoa màu nguyệt bạch rủ xuống từ trời cao. Các ngọn đèn vàng đi ngủ muộn ẩn hiện trên những vòm lá muối có vẻ không thực. Lác đác mấy nữ sinh lớp nhỏ áo dài trắng từ ngoại ô đi học sớm đang tung tăng đuổi bắt nhau hay nhảy dây trong sân trường Đồng Khánh cũng có vẻ không thực. Cái đẹp thường là mong manh, ẩn mật. Chúng tôi lẳng lẽ đi bên nhau như sợ một động thái vô tình nào làm cái đẹp huyền hoặc tan biến đi. Quán cà phê cô Ba ở phía bên kia cầu Nam Giao như vừa mới bịn rịn làm một cuộc giã từ. Mấy sợi tơ trời còn vương vấn trên mái ngói tàng cây.” (…) “Quán cà phê đã có lác đác thêm nhiều khách hàng. Cuộc độc thoại của anh Ngô Kha về tình hình đất nước, về những người học trò của anh (Chỉ, Hiền, Quê, Cước, Nhân, Dung…) về phong trào học sinh, sinh viên Huế, về thân phận của người trí thức, về chiến tranh, về hoà bình…tưởng chừng không bao giờ dứt. Dường như anh Ngô Kha không hề biết hoặc không màng để ý rằng nơi này (quán cà phê cô Ba) ngoài chúng tôi còn có nhiều người khác nữa. Và tất nhiên không phải ai cũng đồng tình, chia sẻ với anh ,và chắc chắn không thiếu những ánh mắt nhìn về phía chúng tôi nghi ngại, căm thù. Cô Ba, bà chủ quán thì biết hết. Cô kín đáo khẽ đá vào chân tôi khi mang thêm nước trà. Chúng tôi rời quán cà phê khi mặt trời đã lên cao. Một ngày nắng gắt lại bắt đầu. Mùa thu năm đó thời tiết đặc biệt vào ban ngày hết sức ngột ngạt oi bức. Có lẽ cái nóng cháy của “mùa hè đỏ lửa” vẫn âm ỉ, lẩn quất đâu đây. Giá mà lúc đấy có ai nói về một thành phố Huế bồng bềnh trong sương khói mới chỉ cách đó hơn một tiếng đồng hồ thôi thì sẽ có một người Huế khác bảo là dối trá lừa bịp. Cũng dể hiểu thôi bởi bấy giờ họ đang ngon giấc, hoặc không ít người trằn trọc, rã rời mệt mỏi suốt đêm chỉ vừa kịp chợp mắt trước bình minh.”[3]
Tuy Chu Sơn cố ý nhấn mạnh đến khía cạnh tích cực của phong trào đô thị do cộng sản giật dây và bộ mặt tiêu cực của chính quyền VNCH (theo dõi, bắt bớ, đàn áp…), một khung cảnh như thế là khá tiêu biểu của Huế thời chiến: mở. Nó có chỗ cho chuyện “hừng hực đấu tranh” của tuổi trẻ hay cho một người chống chế độ như Ngô Kha “độc thoại về tình hình đất nước”, điều hoàn toàn không bao giờ có dưới chế độ cộng sản sau này, dù trong thời bình. Về mặt trấn áp, so ra, chuyện theo dõi, bắt bớ, tù đày, tra khảo thì công an cộng sản còn tinh vi, bài bản, quy mô, liên tục và tàn bạo hơn nhiều.
(còn tiếp)
[1] Theo thần thoại Hy lạp, “con ngựa thành Troy” là một con ngựa gỗ rỗng ruột, trong đó, một số lính Hy Lạp ẩn mình, bí mật lọt vào cửa và chiếm được thành Troy, nhờ thế mà cuộc bao vây thành 10 năm mới chấm dứt. Nghĩa ẩn dụ: một người hay vật bí mật tham gia một tổ chức để tấn công phá hoại nó từ bên trong.
[2] Võ Bảo Trâm, Bửu Ý nhìn lại đời sống văn học miền Nam giai đoạn từ 1954 – 1975, tạp chí Sông Hương,
http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c371/n25459/Buu-Y-nhin-lai-do-i-so-ng-van-hoc-mien-Nam-giai-doan-tu-1954-1975.html
[3] Chu Sơn, Bửu Chỉ: bằng chính mình đến với cuộc đời
https://damau.org/8650/buu-chi-bang-chinh-minh-den-voi-cuoc-doi