Chậm nhất từ ba mươi trở ra, người ta – nhất là đàn ông – phải chịu trách nhiệm cho dung mạo của mình.
[Phạm Thị Hoài]
Nina McPherson, dịch giả chính thức của Dương Thu Hương kể lại kỷ niệm của mình khi tiếp xúc văn chương Việt: Năm 87, bao sân những vụ nổi dậy chống Bắc Kinh ở Tây Tạng cho Thông Tấn Xã AFP. Năm 89 bao sân biến động Thiên An Môn, bị thẩm cung và bị trục xuất. Chứng kiến những Lạt-ma bị đạn của công an Trung quốc rồi chứng kiến các sinh viên của mình bị bắt, phải thú tội trên truyền hình, đến phiên chính bản thân bị phát vãng, McPherson trở về Pháp với ám ảnh ray rứt của một Á châu bị đàn áp. Buổi sáng tháng Giêng 1991, lướt ngang qua một hiệu sách, McPherson vô tình trông thấy sau phiến kính bản dịch Pháp ngữ Thiên Sứ của Phạm Thị Hoài. Còn một Á châu khác với những thân phận muốn vượt thoát? Đẩy cửa bước vào. Và từ bấy, là cuộc phiêu lưu với những bản dịch.
Cá nhân tôi có kỷ niệm tương tự: Tôi cũng tình cờ đi qua một hiệu sách khu Maubert-Mutualité, nơi McPherson sinh sống, và, có thể đã nhìn thấy cùng tấm chân dung Phạm Thị Hoài bên cạnh quảng cáo La Messagère de Cristal sau tấm kính. Tôi cũng đã đẩy cửa bước vào, và mua, rồi giống McPherson, là một khám phá. Khi ấy, tuần lễ 24 tháng 1-1991 lúc bản dịch Thiên Sứ bày bán, Phạm Thị Hoài hãy còn xa lạ với độc giả bên ngoài. Editions des Femmes là một nhà xuất bản uy tín, việc quảng cáo rầm rộ Thiên Sứ và cho in dưới chân dung Phạm Thị Hoài câu văn của tác giả: "Je refuse tout uniforme. Ils sont toujours trop étroits ou trop larges pour moi. Qu’on me laisse nue, avec ce corps flétri qui, très tôt, s’est arrêté de grandir." (Tôi từ chối mọi đồng phục. Chúng luôn quá chật hay quá rộng đối với tôi. Hãy để tôi trần truồng với tấm thân chết khô mà đã từ rất sớm, ngừng lớn lên.) — là một hiện tượng.
Trước Những Thiên Đương Mù của Dương Thu Hương, trước Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh và trước Trái Tim Hổ của Nguyễn Huy Thiệp, Thiên Sứ là tiểu thuyết đầu tiên dịch sang Pháp ngữ của cao trào Văn học Phản Kháng. Các bản dịch khác, đều phát xuất từ bản dịch của Phan Huy Đường. Ít lâu sau, tôi đọc bản Việt ngữ Thiên Sứ in trong tạp chí Tác Phẩm Mới vào năm 86 khi Nguyễn Đình Thi còn làm tổng biên tập. Bản gốc này, với tôi, mới thật sự là một kinh ngạc. Tác giả hành văn như một kiếm thủ, am tường đao pháp và múa đao trên sân Tinh Võ. Không phải trước tác bằng cách viết lên trang giấy, nhưng là đâm, cứa và cắt bằng chữ trong một không gian được cân, đo, đong, đếm từng hạt bụi. Là Phạm Thị Hoài. Áp Tết Mậu Tuất, là dịp hiểu thêm nhà văn có cú pháp lưỡi lam này.
–oOo–
Trần Vũ: Từ giữa thế kỷ 16 ở Âu châu nổ ra một tranh luận mà mãi đến giờ chưa phân giải. Phái Thực hành tin như dân Việt từng tin: Đi một đàng, học một sàng khôn. Tức phải chứng kiến tận mắt, nhìn, nghe thấy và trải nghiệm mới có thể biết thế giới. Như Michel de Montaigne, triết gia của phái này, yêu sách: "Cần du hành để cọ sát và mài dũa trí não của chúng ta với trí óc của đồng loại." Hoặc St Augustin: “Thế giới là một quyển sách mà những ai không vi hành, chỉ mới đọc một trang duy nhất.” Phái Lý thuyết lập luận cách khác: Kiến thức của nhân loại nằm trong các pho sách. Chỉ cần đọc, sẽ hiểu hết vũ trụ. Vì một cá nhân đi bao xa, gặp bao gương mặt và làm sao trải nghiệm hết thẩy? Có những điều trừu tượng chỉ có thể giảng giải qua sách. Sự thật nằm trong chữ.
Một tranh luận không chấm dứt, vì bên Thực hành vẫn vững tin: Không thể cảm mùi hương của một bông hoa lạ nếu chưa thật sự ngửi thấy. Sách không cho hương.
Trên Talawas, Phạm Thị Hoài từng tin ngôn ngữ cần cọ sát cho vỡ ra các vấn đề. "Dẫn nhập" trên, chính là vì sau này Hoài ít viết hư cấu mà tập trung vào thể tiểu luận với những đề tài gai góc chính trị, giáo dục, văn hóa, y tế… Một Phạm Thị Hoài đã không cần "đi thực tế", không cần "nghiệm thu trên thực địa" mà vẫn có thể phân tích các vấn đề của quê hương sau hai thập niên vắng mặt, với cảm quan và bằng mỹ quan của một nơi khác. Thang điểm giá trị của "nơi khác", có luôn luôn toàn bích?
Phạm Thị Hoài: Phan Bội Châu ngồi ở Nhật viết Việt Nam vong quốc sử. Hồ Thích ngồi ở Mỹ viết những bài báo gây tiếng vang lớn trong phong trào Tân Văn hóa ở Trung Hoa. Thomas Mann ngồi ở California viết bài cho đài BBC về tình hình Đức Quốc xã. Huống hồ ở thời đại này, con ếch ngồi ở đáy giếng cũng có thể nhìn thấy những khoảng trời to hơn cái vung miễn là smartphone của nó có mạng. Ngồi trước màn hình ở Berlin, tôi dễ dàng sục vào từng ngõ hẻm ở Hà Nội. "Nơi khác" ở thời đại này không còn phụ thuộc vào tọa độ địa lý. Khoảng cách không gian biến mất, nhưng khoảng cách giữa những filter bubble, những bong bóng lọc cuộc đời chúng ta thì ngày càng tăng lên. Cái bong bóng của tôi chẳng có gì chung với cái bong bóng của những người Việt cũng sống ở Berlin nhưng cứ sểnh ra là vỗ tay hát "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng".
Tuy vậy, hầu hết các tác gia quan trọng của nhân loại đều là dân du mục. Từ thời Cổ đại đã thế, từ Khổng Tử ở châu Á đến Aristotle ở châu Âu. Tôi rất thích những nhà văn không có quê hương tự động mà chỉ có quê hương tự chọn, và nếu thấy chưa đủ thì phát minh thêm những quê hương khác của riêng mình. James Joyce tự nguyện lưu vong từ năm 22 tuổi và chỉ về thăm cố hương lúc 30 tuổi, một lần duy nhất ngắn ngủi, Dublin trong tác phẩm của ông thực ra là biến tấu của Trieste. Nabokov buộc phải lưu vong từ năm 20 tuổi và không một lần nào trong đời trở lại Nga. Cả hai là những nhà văn ngoại hạng. Song cũng có những trường hợp khác. Shakespeare cả đời cố thủ trên hòn đảo nước Anh. Tuy nhiên, đó cũng là một trong nhiều chỉ dẫn rằng tác giả thực của các vở kịch mang tên ông ấy là một hoặc nhiều người khác. Ở Đức cuối thế kỷ 19 có một nhà văn tên là Karl May, sống ở vùng quê hẻo lánh, chỉ xê dịch trong phạm vi đường kính 300 km thuộc địa phận bang Saxony ngày nay. Ông ấy chỉ biết tiếng Đức, một thứ tiếng Đức tầm thường, và cũng không học hành, nghiên cứu gì nhiều. Cứ ngồi nhà viết hàng ngàn trang tiểu thuyết du ký, đầu tiên chỉ ngập ngừng qua Sa mạc Sahara, Xích Hải, Thổ Nhĩ Kỳ, Kurdistan, Iran, Iraq, các nước vùng Balkan, sau trót lọt vọt sang tận Bắc Mỹ, và trở thành một trong những nhà văn Đức được đọc và dịch nhiều nhất trên thế giới, tác phẩm phát hành đến hàng trăm triệu bản. Thanh thiếu niên Đức bây giờ đa số không biết Karl Marx là ai, nhưng Karl May thì chắc chắn biết. Tôi chưa bao giờ đọc nổi một trang của ông ấy, nhưng một trong những tác gia Đức mà tôi quan tâm là Arno Schmidt lại nghiên cứu nhà du hành tại chỗ này rất kỹ, tuy không phải để khen ngợi. Thế giới da đỏ made in Saxony rất Kitsch đó cho thấy là tác giả của nó không cần phải đầu cài lông mông quấn khố gì cả. Mà đó là thời bản đồ còn vẽ tay.
–oOo–
“Sống ngay tại trụ sở 38 Hàng Chuối của Viện, tôi lại được cái thú là chiều tối thỉnh thoảng ngồi hàng nước góc phố Phạm Đình Hổ xem ông Đỗ Mười mặc pyjama kẻ sọc như quần áo tù ra trước cửa hóng mát và chuyện gẫu với lính gác, lời lẽ thô sơ hơn cả mặt mũi, tăm ngậm miệng, tác phong rất là nhân dân.” [Phạm Thị Hoài]
Trần Vũ: Đọc các tiểu luận Lời thề, Vĩnh biệt một thời đại, Tiễn chú Kiến Giang, Bóng tối, Ném đá và ân xá, Sự lạc quan vô tận, Ngoại giao Tháp Rùa, Đọ sức… tôi luôn cảm giác nhiều bản đàn đang trình tấu trong đầu mình. Chúng vang dậy âm thanh. Vì Hoài chú trọng nhịp, phách, tiết điệu, âm tấu của câu văn. Như thế, văn chương là một tập hợp cú pháp trong một ngữ điệu riêng với những ý tưởng cá nhân? Hay còn là một gì khác?
Viết văn, có giống như Marguerite Duras định nghĩa trong tiểu thuyết Entire Days in the Trees: "Viết, để tránh nói chuyện. Là im lặng. Nhưng là gào la không tiếng động"? Rộng ra, ý thức phải hoàn chỉnh cú pháp, chặt chẽ hóa ngữ pháp rồi dụng văn phải có đao pháp, để "đường đao đẹp như ánh lửa" đến từ đâu? Ai là bậc thầy tham chiếu?
Phạm Thị Hoài: Trong 7 tỉ người trên thế giới, tôi đoán 1 tỉ là nhà văn. Trong số đó, hàng trăm triệu đã sạch nước cản, hàng chục triệu có năng khiếu, hàng triệu có nghề, hàng trăm nghìn có tài, hàng chục nghìn có đẳng cấp, hàng nghìn xuất sắc, hàng trăm kiệt xuất và hàng chục thiên tài. Nếu chỉ tham chiếu Kafka là thành Kafka thì khỏe quá, tôi xin làm thế ngay. Hồi trẻ, tôi vừa đọc 1984 của George Orwell và Brave New World của Aldous Huxley vừa ngáp. Đọc xong chỉ mệt nhoài chứ không sướng đến từng chân tóc. Đó là loại văn chương trình bày viễn kiến và ý tưởng, nghệ thuật chỉ đóng vai trò phương tiện, đúng như tinh thần "văn dĩ tải đạo". Bây giờ tôi rất mừng là đã đọc chúng. Nước Mỹ đang là một số mảnh ghép từ Brave New World, nhưng Trung Quốc sẽ là kết hợp hoàn hảo của cả hai thế giới phản không tưởng đó. Truyện Kiều của Nguyễn Du, về nội dung không có gì đáng để ý, chưa kể bối cảnh và các nhân vật xa lạ với xã hội Việt. Chỉ cần có một chút đầu óc độc lập là bạn sẽ phải phì cười về những thứ đạo mà người ta bắt nó oằn lưng tải. Chữ Tâm và chủ nghĩa nhân văn chẳng hạn. Giống như tư tưởng nổi bật của người Việt là chủ nghĩa yêu nước. Hay tư tưởng nổi bật của loài ong là siêng năng làm mật cho đời. Nhảm đến thế là hết. Nhưng Truyện Kiều thực sự đặc sắc về ngôn từ, nó tôn vinh một thứ tiếng Việt hàm súc, tinh tế, đầy âm điệu và màu sắc, gợi nhiều hơn diễn, một pha trộn thiên tài của ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ hàn lâm. Truyện Kiều là loại nghệ thuật vị nghệ thuật tuyệt vời nhất. Song đôi khi ta sôi máu muốn ngồi ngay vào bàn viết không phải do cảm hứng từ những tác phẩm kiệt xuất, mà vì quá bực bội trước những tác phẩm rẻ rách của người khác, cho đến khi ta nhận ra rằng mình cũng chỉ làm môi trường thêm ô nhiễm bằng những trang tầm phào.
Trần Vũ: Orhan Pamuk xác quyết: "Một tác phẩm hay phải làm lộ ra những gì ẩn chứa phía sau ánh mắt bình thường." Các nhà văn lùng kiếm điều này, nhưng đã bắt đầu từ đâu? Vì sao Thiên Sứ? Vì Günter Grass tuyên ngôn: "Sau khi mọi thứ tàn lụi, duy nhất chữ chiếu sáng" hay vì Heinrich Boll tiên tri: "Với thời gian, văn chương sẽ giải thoát con người bằng chính sức mạnh của văn phong"?
Phạm Thị Hoài: Ngôn ngữ có một sức mạnh nhất định và văn phong có sức mê hoặc của nó, nhưng tôi chỉ dám hy vọng rằng văn phong là thứ duy nhất phân biệt một nhà văn bằng xương thịt với một robot viết văn, vì nó không đơn thuần là việc đặt chữ này cạnh chữ kia, dù là đặt một cách tối ưu. Ở kỷ nguyên của trí thông minh nhân tạo sắp đến, những thứ không số hóa, không dữ liệu hóa được, chẳng hạn văn phong, sẽ chỉ đóng vai trò rất phụ. Tôi biết về văn chương đủ để không thần tượng nó. Pushkin cho rằng viết là để cho mình, xuất bản là để kiếm sống. Chúng ta đang bán văn kiếm sống thì tất nhiên phải rao cho thật rền vang, phải làm cho người mua tin rằng món hàng khá rẻ mà mình vừa tậu có những tác dụng siêu khủng. Bỏ ra trên dưới chục bạc cho một tập thơ, một cuốn tiểu thuyết là được giải thoát, được cứu rỗi, được gánh bớt nỗi đau, được thắp sáng và chắp cánh ước mơ, được hướng thiện và nâng đỡ tâm hồn. Tôi đang chờ thêm công bố rằng văn chương chữa lành cả ung thư, Alzheimer, Parkinson, HIV… Nhưng cuối cùng chỉ có các nhà văn là cần văn chương, còn lại người ta hoàn toàn có thể sống một cuộc đời đầy cống hiến và niềm vui mà không bắt buộc phải biết đến văn học. Văn chương không làm bất kỳ ai thông minh, nhân hậu, giàu có hay đẹp đẽ hơn. Đa số các nhà văn là những người hèn nhát, ích kỉ, hiếu thắng, háo danh, vô dụng và ham hố đủ thứ vớ vẩn.
Trần Vũ: Pamuk còn đưa ra một giả thuyết bí mật: "Nhà văn, là kẻ dành nhiều năm dài để thử khám phá con người thứ nhì sinh sống trong mình hắn." Khi rời Viện Sử học, Phạm Thị Hoài bắt đầu đi tìm "con người thứ nhì" này trong cơ thể mình? Đến truyện ngắn Người Đoán mộng Giỏi nhất Thế gian thì tìm thấy và khi chuyển sang thể tiểu luận, tìm ra một phụ nữ khác đang ẩn nấp? Phạm Thị Hoài là ai?
Phạm Thị Hoài: Tôi là một phụ nữ cao 152 cm, nặng 47 kg, mặc cỡ S, đi giày số 34, huyết áp 110/70, đeo kính, tóc cắt ngắn, không sơn móng tay, có cấu trúc mạch lạc, làm từ một số vật liệu bền chắc, chịu được nhiều cọ sát và áp lực. Nếu không viết văn, tôi có thể làm rất nhiều nghề, trừ làm người mẫu, ca sĩ, vận động viên, diễn viên và giáo viên. Nhưng tôi đã chọn văn chương làm cách sống, từ năm 11 tuổi. Đơn giản là một trong những lựa chọn có thể. Không có gì huyền bí cả. Không có thiên chức, sứ mệnh gì. Tôi vẫn đang hài lòng với lựa chọn đó. Ngay cả khi không viết gì hết, văn chương với tôi vẫn là cách sống quy định mọi mặt khác của cuộc đời.
Trần Vũ: Vẫn Orhan Pamuk, đã kể một kinh nghiệm cá nhân: Sinh ra ở Istanbul nằm vắt lên hai miền Âu-Á, Pamuk bị dằn xé giữa Đông và Tây, giữa truyền thống và hiện đại, giữa bảo thủ và cấp tiến, giữa thế tục và phạm thánh. Trong mình Pamuk thường xuyên phát vang những đồng cảm với dân tộc bị thất lạc phải quay về cội nguồn tìm cứu rỗi, cùng lúc là những trỗi dậy của lý trí giận dữ tệ u mê sùng bái. Xâu xé tinh thần của Pamuk dữ dội, vì càng đến gần các giá trị nhân bản bác ái của Tây phương, Pamuk càng đến gần Thiên Chúa giáo, trong lúc bản thân là một tín đồ Hồi giáo. Tuy nhiên, Pamuk đã tranh đấu duy trì một nhà nước thế tục và là nhà văn chống tử lệnh Fatwa của Ayatollah Khomeini xử tử khiếm diện Salman Rushdie. Pamuk còn công nhận thảm sát dân Kurdes dưới đế chế Ottoman, khiến bị kết án "sỉ nhục căn cước Thổ", phải lưu vong sang Hoa Kỳ. Pamuk, cũng là nhà văn thú nhận: "Những quyển sách của tôi là những ý tưởng ăn cắp không xấu hổ từ thử nghiệm tiểu thuyết của Tây phương, rồi pha với cổ tích và truyền thống Hồi giáo. Sự trộn lẫn nguy hiểm của hai khuynh hướng tương khắc, làm nên ánh lửa mạnh mẽ." Còn Phạm Thị Hoài? Sống lâu ở Đức, nhà văn có bị "hội chứng Pamuk"? Những khi nhìn đồng hương bị lôi ra tòa Bá Linh vì phạm pháp, làm thông ngôn, Phạm Thị Hoài có trắc ẩn?
Phạm Thị Hoài: Giữa Việt Nam và Đức không chỉ là một khoảng cách về không gian mà trước hết về thời gian. Đa số người Đức đang sống ở thế kỷ 21, trong khi đa số người Việt còn ở thế kỷ 20, thậm chí thế kỷ 19, riêng Bộ Chính trị là đã vọt lên trước, ở thế kỷ 29, là thời đại thiên đường cộng sản. Hai xã hội đó vận hành khác nhau căn bản. Ở Việt Nam, đó là một đám đông vừa tán loạn vừa dính chặt vào nhau, vừa bịt mồm nhau vừa chửi nhau, vừa mất tiền vừa làm tiền nhau, vừa giành nhau từng centimet vừa nhích từng centimet về phía trước, trên những phương tiện lạc hậu nguy hiểm và bóp còi inh ỏi. Ở Đức, đó là một tập hợp lỏng lẻo của những cá nhân tự do nhưng có hình khối kết nối rõ ràng, rất kềnh càng tốn chỗ, nhưng trật tự di chuyển trên những phương tiện hiện đại an toàn và khá yên tĩnh. Tôi thấy mình rất may mắn được quan sát cùng một lúc cả hai thế giới đó, cộng đồng Việt ở Đông Berlin là một xã hội Việt Nam thu nhỏ. Nhưng người Việt phạm pháp ở Đức không thấm vào đâu so với ở chính trong nước. Tôi không hiểu vì sao người ta thấy nhục cho quốc thể khi đồng bào mình lừa đảo, ăn cắp hay buôn lậu ở nước ngoài bị phát hiện. Việt Nam đang là đất nước của lừa đảo, ăn cắp và buôn lậu. Nếu người Việt ra nước ngoài cũng lừa đảo, ăn cắp và buôn lậu thì đó chỉ là thể hiện đúng diện mạo dân tộc, không hơn không kém, họ chỉ trung thành với bản sắc và căn cước Việt Nam hiện tại.
(Còn tiếp 1 Kỳ)
Bản giấy in trên Đặc san Xuân Mậu Tuất của tuần san Trẻ Dallas
1) Đọc câu hỏi của Trần Vũ và trả lời của Phạm Thị Hoài tôi rất thích.Tôi rất thích nhà văn PTH, nhất là ở văn phong.
2) Nhưng điều đó chưa là điều tôi muốn nói ở đây. Điều muốn nói là tại sao góp ý phải “bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính “?. Tết năm ngoái tôi vào Google tìm bài dạy cách gói bánh chưng, nhưng lại lạc vào bài dạy kho thịt Nam bộ và tình cờ đọc được các phẩm bình:” đéo mẹ! già rồi mà còn lên mặt dạy đời. Đéo mẹ đồ ăn Nam bộ có gì mà dạy. Đéo mẹ cái gì cũng ngọt cả…”
Cũng trên một tờ báo ở Mỹ (năm 2013), tôi đọc được một bình luận mà tác giả dùng cụm chữ “THẰNG MỌI ĐEN” để chỉ Tổng Thống Obama
Hiện thời chưa thấy có một nghiên cứu sâu rộng nào về con người, xã hội Việt Nam.v.v. trong cũng như ngoài nước.
Phải chăng những “góp ý” như trên, nếu dược tự do diễn đạt, không cấm kỵ, sẽ giúp chúng ta hiểu được một phần nào văn hóa, đạo đức, trình độ giáo dục v.v. của con người và xã hội VN trong cũng như ngoài nước trong lúc chờ đợi một cuộc nghiên cứu sâu rộng ? Phải chăng qua đó ta cũng hiểu được hậu quả của cuộc chiến tranh “chiến đấu cho tự do và Tranh đấu cho độc lập dân tộc” ?
Nkp