Trang chính » Sáng Tác, Truyện ngắn Email bài này

Cuộc Săn thú Vô hình của Nhà văn An-Nam

0 bình luận ♦ 9.02.2016
tv1_thumb.jpg

 

 

Viết văn là một hành động đi săn. Săn nhân sinh, săn chính mình.

Mỗi nhà văn đích thật là một thợ săn.

tv1

Chúng tôi ưa đi săn, trò chơi giữa con người và dã thú. Thứ trò đùa mạo hiểm của thể xác thách thức cơ bắp lẫn trí óc. Không sáng nào cả đám không xách súng lùng sục những cánh rừng. Đôi lúc không tìm thấy thú, chỉ mùi củi mục hay tiếng động khô cháy của ngọn cỏ gẫy cũng đột ngột làm tăng thêm phần kích thích. Ðôi lúc, một tiếng ó vút giữa trời rồi mất hút. Không đứa nào kịp trông thấy giữa khoảng không trung bằng bặt cặp mắt tinh anh của loài ó. Tiếng kêu bản năng thú vật vang vang cho đến khi cả đám trở về thị tứ.  

Biển ở Hy xanh thẫm. Xanh như không phải biển mà thượng đế đã đổ sơn chung quanh hải đảo. Sự hoang dã cằn cỗi của đất đá chỉ làm nổi bật thêm vẻ đẹp của đại dương mê hoặc. Chúng tôi không sao rời mắt khỏi mặt nước. Không ai có thể nhấc mắt ra khỏi lượn thủy triều loang loáng dâng lên rồi rút xuống. Mặt nước nhấp nhô như cơn sốt, vỡ tung trên nền đá ướt đẫm rồi khô ran rồi lại vỡ tung bất tận. Nắng rát da, rải lên lưng chúng tôi lớp muối hâm hấp nóng đến cuối buổi chiều vẫn không nguội đi khi mặt trời chìm xuống Ðịa Trung hải.

Năm đó chúng tôi hẹn nhau ở quảng trường có ngôi nhà thờ trắng. Chim chóc bay ồn ĩ khi cả lũ xuống xe bus. Santorini, thủ phủ của quần đảo Cyclades sừng sững như sóng mũi của một vị thần cổ nằm ngửa mặt trên biển. Chúng tôi tụ họp một cách bất ngờ không báo trước cho nỗi ham muốn đi săn mà mỗi đứa mang trong mình như một vết sẹo làm ngứa ngáy. Chúng tôi quen biết nhau từ lúc nào không ai rõ, chỉ biết chưa hề rời nhau, thậm chí những lúc xa xôi cách trở vẫn mật thiết tựa những con người gắn bó nhất trên mặt đất. Trong nhóm, ai cũng có phép. Không phải ảo thuật nhưng là thứ phép màu vạn năng của thượng đế mà chúng tôi sử dụng thông thạo cho những trò phá phách. Những nghịch ngợm mà về sau cả lũ đều phải trả giá bằng chính linh hồn mình. Khi ấy, chưa ai hay, chấp nhận cuộc săn như một thách thức. Trong thâm tâm chúng tôi biết chuyến săn đầy liều lĩnh sẽ bứt phá mọi biên giới, thử thách sẽ làm tấm gương soi mỗi cá nhân chưa biết rõ mình là ai. Phép màu chưa giải ra điều đó.

Nhóm thuê phòng ở Akrotiri. Ngôi nhà quét vôi trắng cách Thira phố chính 5 cây số. Con đường leo dốc bằng lừa với những khoảng trống bát ngát của vực thẳm hút xoáy. Chúng tôi thường hay nghiêng người trông xuống lỗ hỗng bên dưới ước ao một ngã rơi thân xác. Kỳ quặc là cả đám in hệt nhau, cùng làm một cử chỉ, ở mỗi khúc quành, chồm nghiêng lưng lừa nhìn xuống hốc gió. Như thể chúng tôi được tạo mẫu, rập khuôn, phản xạ cùng một điều kiện. Phải nhiều năm sau, trở lại quãng đường đèo này, mường tượng những hình ảnh lúc trước, tôi mới nhận ra thời ấy cả lũ đã điên như thế nào.

oOo

tv2Hôm đầu tiên đến thuê nhà, Sa mang vẻ đẹp dại dại của một thiếu nữ bị cuốn hút từ những tảng đá ngầm triền miên chìm dưới nước. Ngôi biệt thự gần như một hầm mộ xây trên ghềnh đá đâm thẳng ra biển, giống một mũi tàu hứng những trận sóng. Sa nhận ra ngay sự bất thường của vị trí. Sóng tràn lên đánh ướt các bậc thềm càng làm tăng kích động trong Sa. Cả nhóm cùng ngắm những đợt sóng lớp lớp nện lên ngôi nhà như một thúc giục bí ẩn. Ánh mắt Sa tinh nghịch, tuồng chính Sa đang thôi miên và sai khiến mỗi lượn sóng biến thành một mũi lao không ngớt cắm vào mặt đất. Chúng tôi chờ đợi nhưng không xảy ra chuyện gì nữa. Khác với nhóm, phép thuật ở Sa chỉ xuất hiện những lúc không ai ngờ nhất, không dự báo và định trước. Biển êm trở lại bất chợt, như đã bất chợt trổi sóng lúc nãy.

Tuần lễ thứ nhất chúng tôi đi mua thức ăn để sống với nhau nhiều ngày không cần ra phố. Không rõ từ bao giờ cả lũ có nhu cầu sinh sống trong thế giới kín bưng không muốn tiếp xúc với bên ngoài. Nhu cầu đó tự nhiên như chúng tôi cần hít thở khí trời, bơi lội buổi sáng và nằm phơi trần mình trên cát. Hiệu Athenon bán bánh mì gyros và các thứ linh tinh. Lúc thanh toán, chủ hiệu không nhận Drachme khiến cả nhóm lúng túng, không ai trong chúng tôi biết đất Hy đã bước sang kỷ nguyên khác. Sa lấy tay vuốt nhẹ tờ giấy bạc, những con số Drachme uốn lượn chạy như một chốt cơ trên ván hòm cho đến lúc dừng lại hoá thành tiền Âu kim trước kinh ngạc sửng sốt của du khách. Chúng tôi cười phá. Chúng tôi hiểu rõ hơn ai hết sức mạnh của Sa chìm sâu trong trí não chỉ phát sáng những khi trêu chọc hay cần thiết, bình thường dấu kín trong u tối. Sa biến hoá tiếp đống giấy báo thành những xấp tiền giấy phân phát cho từng đứa.

Giấc chiều chúng tôi đi bộ xuống làng Kamari, rẻ xuống bãi tắm ẩm sương muối. Cả đám đi rất chậm vì tất cả đều muốn nghe tiếng chuông đánh đi từ nóc nhà thờ vang trên núi. Ðất Hy lạ, ban ngày sáng rựng, khoảng năm giờ chiều sương ở đâu đùn lên như khói từ những miệng núi lửa dưới lòng biển bốc lên che khuất mặt trời. Tiếng chuông giống như thả xuống từ vũ trụ vang vang trên mặt đất mà không một ai biết từ đâu. Có đi trong lũng sương dầy đặc, bước trên những tiếng chuông ngân nga dưới lòng bàn chân mới cảm thấu hết những lãng mạn bồng bột nổi gai trong lòng chúng tôi thủa ấy.

Cho đến bây giờ tôi vẫn không hiểu vì sao cả đám thích tắm truồng trong sương không rõ mặt. Như thể nhóm chưa biết rõ nhau, còn muốn giữ kẽ dù đã thám hiểm những ý nghĩ của lẫn nhau nhưng vẫn còn muốn che chắn bề mặt. Chúng tôi khoả thân nằm ngửa ra cát. Lớp sương muối phả xuống môi mỗi đứa vị mặn của da thịt. Trong sương trắng tiếng sóng đập chậm rãi tựa hơi thở mệt nhọc của biển đang hô hấp. Giữa hai con sóng, Sa tuyên bố mắc bệnh. Giọng nói của Sa trổi lên bình thản, đơn điệu, lạnh tanh như ngọn gió biển đang rấy lên thân thể chúng tôi làn cát nhuyễn. Giọng nói của Sa đều đều tuồng giọng nói của bất kỳ một kẻ nào cũng có thể vang lên như vậy. Rồi Sa quả quyết, không phải chứng bệnh của thể xác nhưng của tâm hồn không bao giờ phẳng lặng. Và chúng tôi chấp nhận, cũng trong im lặng, như tất cả cùng chấp nhận bệnh tật của lẫn nhau. Tiếng gió khi ấy xé vào sâu hút đại dương nỗi thâm chín ruột da mà chúng tôi cảm thấy thật tự nhiên như già thì phải bệnh. Sa tiếp tục thao thao giữa gió, giữa vũng sương mờ mịt làm như trong lớp sương đan kín, lời thú tội là một sự thú tội vô danh cho chính kẻ khai báo lẫn người nghe. Giọng nói của Sa khẩn khoản, chúng tôi ghi nhận thành khẩn từng chi tiết sống sượng bình thường như cả lũ cũng đang tênh hênh một cách bình thường. Nhóm say mê theo dõi, những tình tiết cùng cực kín đáo mà Sa chỉ có thể chép trong nhật ký hay kể cho một bạn gái thân thiết nhất. Lúc màn sữa tím đục trở nên tối mờ, chúng tôi đứng lên rũ khăn. Bao giờ Sa cũng đứng lên trước nhất, chậm rãi hất mái tóc úa về hướng nhà thờ đá đẹp lạ lùng. Cả nhóm luôn nín thở chờ đợi giây phút Sa hơi ưởn ngực ra phía trước cài lại giây áo tắm. Cử chỉ Sa tự nhiên đến nỗi chúng tôi tin Sa đã khỏi bệnh, và câu chuyện kể lúc nãy chỉ là một trang điểm cho bãi cát giống những gốc dù cần phải có và xếp cánh khi du khách ra về.

Sau đó, chúng tôi mê Sa. Mê vẻ đẹp hoang dã bất bình thường của một dã thú biết thân thể mình dùng làm gì và chối từ sự hiến dâng cho cạm bẫy. Chính chối từ của Sa khiến chúng tôi say mê. Thứ say mê có từ trước chuyến săn, đợi chuyến đi rồi bứt phá.

Trong nhóm Tấn mê Sa hơn hết. Hắn tài hoa nhưng ít nói, luôn lẳng lặng quan sát, ghi nhớ rồi ghi chép. Tấn thách chúng tôi chinh phục được Sa, bằng học thuật không bằng sức mạnh. Trong nhóm những toan tính bắt đầu ngấm ngầm. Thứ tính toán khó khăn của sự si mê không rõ nguồn gốc, chưa định hình và phụ thuộc yếu tố con người. Ngân là yếu tố đó. Ở Ngân nét đẹp kiêu hãnh của thân xác óng ánh dưới nắng mỗi trưa bơi lội rồi duỗi thân thể dưới ánh mặt trời thiêu đốt. Ðôi lúc, nhận thấy nhóm quá ám ảnh, tập trung suy nghĩ vật chất lên thân thể Ngân kiểu mẫu, Ngân với tay tắt nắng, xoá ánh sáng dễ dàng như cất mặt trời bỏ vào túi áo. Những lúc đó chúng tôi hối hả che chắn bằng những tấm bạt phủ mưa mua vội vàng ở quầy trái cây, che giông biển bất thần rưới lên bãi trận cuồng phong đã mấy mươi năm Santorini chưa hề biết đến. Những trận mưa của Ngân mạnh bạo, dữ dội, không thương tiếc, không phát xuất từ đỉnh núi lửa sâu thẳm dưới đại dương nhưng chính từ thân thể bão tố của Ngân không kềm hãm. Những lúc trông thấy chúng tôi túm tụm ướt như chuột, Ngân cất tiếng cười đắc thắng. Tiếng cười nắc nẻ chuyên chở sắc đẹp làm mọi đàn ông ham muốn, từ đứa trẻ sớm có lông măng đến ông lão đã bạc những sợi tóc cuối cùng. Ngân khác Sa, tươi sống, hồn nhiên và khoẻ mạnh, có sức lực bơi giáp vòng biển và đủ sức truy hoan với một đạo quân La Mã. Chúng tôi chao đảo giữa Sa và Ngân, giữa khoảng sâu chín của linh hồn và khoảng sâu kín của thân xác. Chúng tôi không ngừng tự tra vấn và lời thách thức của Tấn vẫn còn là lời thách thức. Hãy chinh phục Sa với Ngân bằng học thuật. Nhưng học thuật nào? Chúng tôi không thuộc giai cấp phê phán, biết bình thản trước xung động làm mềm những sợi gân. Chúng tôi là những thợ săn. Nhưng săn gì và yêu Sa hay yêu Ngân? Chiếm hữu hay chịu khuất phục? Chúng tôi bất lực trước ham muốn của chính mình. Trong mỗi cá nhân, còn một thách thức khác. Vượt thắng thượng đế để thật sự là thượng đế.

Trên con đường đi tìm thượng đế Mẫn mang ám ảnh của thiên nhiên, thứ ám ảnh vượt tính con người. Với hắn, vũ trụ quyết định hết thẩy và so với hết thẩy, vũ trụ nhỏ bé nhất. Lối lập luận quái gỡ của Mẫn khiến nhóm ưa thích. Hắn hay viết những dòng chữ kỳ dị rồi quẳng cho cả nhóm trước khi biến hoá những con chữ thành sự thật. Giống mỗi thành viên trong nhóm, Mẫn có định nghĩa riêng của hắn về con người. Khác Sa, tự định nghĩa thân thể là một đền thờ mà chỉ tình yêu mới có thể chạm đến, hay Ngân, xem giá trị con người tùy thuộc vào cường độ của chuỗi âm vọng phát ra từ bất kỳ bộ phận nào của thân thể, Mẫn đánh giá khả năng một thanh niên ở sức ăn hết một hải cảng trong ba giờ đồng hồ và hắn khoái trá với bảng phân loại siêu thực đó. Chúng tôi đã có lần chứng kiến hắn ăn hết một hòn non bộ thực sự trong ba giờ đồng hồ dù chín tháng sau hắn không màn ăn uống gì nữa.  

oOo

clip_image002Không rõ từ khi nào chúng tôi bắt đầu trông thấy một người đàn ông luống tuổi hay ngồi cắm cúi ghi chép một mình trước quảng trường đá. Hình ảnh ông lão cô đơn đến lạ lùng giữa chợ Périssa tấp nập. Chúng tôi để ý, những buổi xuống chợ thổ sản trời quang nhưng hình ảnh ít khi nào rõ nét. Trong không khí thơm lá chanh còn hăng hắc các cuống lá gẫy dập, ông lão ẩn thoáng giữa các thổ dân Hy qua lại, xen lẫn du khách, lúc biến mất, khi bị che khuất, rồi bất chợt vụt in chiếc bóng vững chắc nâu sầm trên nền đất phủ bụi đang trổ nắng trước cổng đền Apollon.

Những khi ấy, cảnh quang ửng sáng, bừng lên tựa một bức họa. Tuồng ông lão hiện ra giữa nền trời lam với chủ đích khắc ghi vĩnh viễn nhân dáng vào trí não chúng tôi. Ðiều bất thường là nhóm cùng trông thấy ông lão viết những dòng chữ bất tận trên các trang giấy mà ngay khi chữ vừa dứt, tờ giấy vút bay lên thinh không mãi mê chao lượn như cánh diều làm trò quỷ thuật mà ngoài chúng tôi ra không một ai khác nhìn thấy. Ngay buổi đầu tiên chúng tôi đã chú ý. Những lần sau, cảnh quang lại lập lại, vẫn những tờ giấy đặc chữ bay bổng trêu ghẹo trước khi đáp xuống. Lần thứ tư Tấn nhặt lấy, nhưng không một ai trong nhóm hiểu ông lão viết gì, chỉ nhận ra ở mớ chữ rắm rối xa lạ đầy ắp các mẫu tự La tinh. Chúng tôi hay chạy đuổi bắt hối hả rồi tẩn mẩn đọc các trang giấy đã vàng úa, như đã được viết ra từ lâu lắm mà không ai hiểu nghĩa. Kỳ quặc, mỗi khi chúng tôi ngửng lên, là mỗi bận ông lão biến dạng lạ lùng. Tuồng các dòng chữ đã làm thay đổi hình ảnh trước mắt. Ở chỗ vừa nãy, ngay phía trước các bậc thềm không còn là tượng Apollon đang đứng dương cung nhưng thay bằng tượng Dionysos cúi mặt tư lự, đôi khi hoá thành Poséidon Pélagios và dưới chân các vị thần Zeus hiện ra mái tóc đen bóng uốn dợn của một thanh niên vạm vỡ.

– Inglés, qué tal? Que pasa cobardes?

Thanh niên nhìn chúng tôi tinh quái.

– Qué busca?

Hắn lập lại. Chúng tôi chửng người. Cách phát âm sống động đặc sệt của vùng Castillan miền trung Tây Ban Nha vang dội núi. Tấn dợm bước, dợm trả lời, nhưng xấp giấy đã lại tung bay rối mù che lấp tất cả cho đến lúc mớ tóc vàng rơm của một gã Ái Nhĩ Lan ở đâu hiện ra, đang viết sùng sục đột ngột buông bút, ngửng phắt lên dò xét bằng ánh mắt đầy đăm chiêu, rồi lại cúi vục xuống mớ chữ ngổn ngang không hàng lối. Chúng tôi không thể tự kiểm soát, say mê theo dõi cho đến khi những lọn tóc bạc của ông lão mọc trở lại, trở về rũ xuống gọng kính đồi mồi quyện sương mù của một không gian xưa cũ nào đó trong một nhân dáng mà chúng tôi đoán cuối cùng.

Tấn thì thầm: Ernest… nhưng hắn không làm sao đoán ra gốc tích của ông lão và không làm sao giải thích từ đâu âm tiết Ernest ập đến, hắn cũng không thể kết nối Ernest vào bất kỳ một tên họ nào khác vì ông lão không thật sự có thật. Mỗi khi chúng tôi bước đến vài bước, chiếc bóng ông lão lại lùi xa vài bước. Khi chúng tôi tiến sát chân đền, hình ảnh ông lão thoắt sang bên hông. Khi chúng tôi đi dọc dẫy tường đá, gương mặt ông lão trêu ghẹo giữa những cột nham phún thạch. Ngân kêu nhỏ: Chỉ là một chiếc bóng. Một chiếc bóng mà chúng tôi vụt thấy, hay một chiếc bóng in sâu trong tâm trí vụt trồi lên mà chúng tôi chưa biết khống chế.

Ngôi chợ luôn tắt nắng sau đó, phủ bóng râm rậm rạp của các tàng ô liu. Hải đảo như lún dần vào trong lũng sương vừa nhú của buổi chiều vừa đến, đang dâng lên từ tốn ở ngoài khơi. Ông lão biến mất chậm rãi giữa đám đông du khách tản bộ rảo qua các quầy hàng bày bán mật ong và phó mát. Chúng tôi cũng tản mát vào trong những ngõ ngách của chợ Périssa, mỗi đứa cười nói, chúc mua sắm nhưng kỳ thật trong thâm tâm đầy những băn khoăn. Vì sao ông lão chỉ hiện ra cho chúng tôi thấy? Hay chỉ duy nhất tự chúng tôi muốn thấy? Vì sao hình hài ông lão thay đổi theo các dòng chữ La tinh trên trang giấy? Và các mật mã bay lượn giữa không trung như một thách đố? Không ai hiểu. Chúng tôi tản vào các lối đi quanh co chật hẹp, rồi tìm gặp lại nhau ở những góc chợ ồn ào như không có chuyện gì xảy ra. Nhưng mỗi chúng tôi cùng ngầm theo dõi, cùng nhận ra ánh mắt xao xuyến phản chiếu nghi hoặc của từng đứa. Và hiểu, ông lão đã trở thành một phần tiềm thức của nhóm. Một bí mật.

Thời gian ấy, sang tuần lễ thứ ba, nhóm bắt đầu có những cợt nhã. Song song với hiện tượng ông lão kỳ dị, chúng tôi ngày một gần gụi với nhau. Bắt đầu nhận rõ cá tánh, bắt đầu bạo dạn. Ngân ngổ ngáo, thường đùa cợt huyên thuyên lôi mọi thứ về chuyện tình dục. Theo Ngân, thời trai trẻ ông lão phải làm tình rất khỏe, chỉ cần nhìn những ngón tay gân guốc bấu vào cán viết, mà nhịp viết là nhịp thở, thì ông lão phải vô cùng dai sức. Qua đêm với ông lão sẽ đã như vách trời. Chúng tôi cười phá. Nhóm bàn tán trêu chọc, sắp xếp thứ tự cao thấp vách trời của lẫn nhau. Tấn nói vách trời của hắn cao bằng dẫy Hy Mã. Ngân đưa đẩy: Leo vách trời giấc mười hai giờ đêm, giấc ba giờ khuya và giấc sáu giờ sáng, lên xuống ba lược mới thật sự đã. Còn Hy Mã, phải cắm cờ trên đỉnh Vénus… Trong lúc Ngân thích thú với câu đùa vừa tung hứng, Sa nhận xét: Ông lão phải là một ngư phủ Ái Nhĩ Lan. Chỉ cần ngửi không khí ẩm ướt rêu phả phất mùi muối mỗi bận xấp giấy tung bay nhiểu giọt giọt nước là có thể đoán ra điều đó. Trong không khí còn có mùi cá và quảng trường như một bến tàu những khi ông lão xuất hiện. Chắc chắn ông lão đã qua những hải trình thăm thẳm, đã lặn sâu trong lòng biển khơi, đã săn những con cá mập hung hiểm nhất, Sa quả quyết.

Nhóm trầm ngâm, trong lúc Mẫn đánh giá: Ông lão có lối viết rối rắm nhưng có thể nối tờ này sang tờ khác, và mặc dù không hiểu gì hết, cho dù không đầu đuôi, hắn vẫn cảm giác vũ trụ lớn rộng ra và con người lớn hơn vũ trụ dưới lớp chữ. Tấn nói chắc: hắn sẽ là người đầu tiên khám phá ra bí mật, hiểu thấu đáo các mật mã. Chúng tôi đặt tên cho ông lão là Ngư ông và Biển cả, rồi mặc sức bình phẩm.

Dần dà ông lão trở thành một trò đánh đố. Nhóm thường xuyên đặt những câu hỏi: Ông lão đã có một thời xuôi ngược khắp mặt đất? Đã có nhiều người tình? Có tài xuất qủy nhập thần thổi cho giấy bay từ lục địa này sang lục địa khác? Hay ông lão chính là một thợ săn, như chúng tôi, đang ghi chép các thành quả của những chuyến săn? Nhưng ông lão săn gì? Có thể săn người. Có thể săn chữ. Sa thì thầm: săn những linh hồn bệnh hoạn… Ngân nhíu mày. Nhóm mê khóe ngực Ngân khêu gợi mỗi khi Ngân bất bình. Ngân kiêu hãnh với bản năng của mình và tin không mắc bệnh, tuy câu hỏi Ngư ông muốn truyền đạt gì, Ngân cũng không sao trả lời. Mãi về sau nhóm mới hiểu ra nhưng khi ấy nhóm còn hồn nhiên như lớp muối bể trước sân nhà mà mỗi một ngày những lượn triều tiếp tục đắp bồi lên không khác tấm áo choàng trắng bao lấy linh hồn của mỗi người.

Tương tự lớp muối xóa đi dấu chân của ngày hôm qua, chúng tôi quên dần đi hiện tượng quái dị dưới phố chợ và ông lão cũng ít xuất hiện ở quảng trường, cho đến một hôm, nhóm trở xuống Périssa nhưng không còn trông thấy gì nữa.

oOo

Thời gian sau, chúng tôi ngủ chung với nhau dưới gian hầm đá của ngôi nhà to lớn dùng làm huyệt mộ gia tộc cho những chủ nhân Hy đã chết. Không phải vì muốn trò chuyện với ma quỷ mà vì chúng tôi không sao cưỡng lại được sức quyến rũ khác thường của những bệ đá phẳng phiu xếp dọc song song chờ đợi. Tuồng các bục đá được sắp sẵn cho mỗi cá nhân chúng tôi và nhóm tin tưởng chỉ cần áp lưng vài đêm trên các mặt đá còn điêu khắc dấu vết của một nền văn minh cổ đại, là có thể thấm nhập hết văn hóa Hy La. Mỗi đứa thay nhau áp tai lên vách, lắng nghe những mênh mang hắt dội từ lòng đất xa vời.

Tuần lễ thứ tư nhóm tổ chức đi săn phía Bắc đảo. Chúng tôi băng qua làng Oía hun hút những dẫy tường vôi. Khác Thira và Akrotiri nước sơn xanh lấp lánh trên các vòm mái và các ô cửa, ở Oía, tất cả đều quét vôi vàng màu của thần mặt trời hừng hực khi chúng tôi bắt đầu leo núi. Ðất Hy mang vẻ đẹp của một vũ trụ bị lãng quên hay vẻ đẹp của một lục địa ngầm chỉ còn nổi trồi những mảnh vỡ. Chúng tôi không ngớt khám phá trên mỗi ngôi nhà ánh mắt u sầu của thượng đế tạc trên các cột đá, làm như thần linh đã vô cùng chán chường vì đánh mất thời gian. Thần linh và con người là hai thực thể cộng hưởng. Khi thần linh buồn bã, con người thất lạc. Khi thần linh hưng phấn, con người quỷ quái. Mẫn diễn giải rồi hắn oang oang về một phát kiến mới: cách săn độc đáo nhất là ghim tên vào lỗ nẻ của bầy thú. Sa nhăn mặt. Sa không ưa lỗ mãng tục tĩu. Nhóm tiếp tục trèo núi.

Lúc vịnh Ammoudi hiện ra, cũng là lúc mùi nham thạch làm ngạt thở. Khói đen bùng lên làm cả lũ rát cổ giống vừa nuốt một bụm tro đầy miệng. Ðỉnh Mégalo Vouno xám ngắt, nứt nẻ từng rãnh phún thạch và khí đốt bốc dâng như dòng lửa lỏng hãy còn ngấm ngầm sôi sục bên dưới. Các phiến đá nóng bỏng chồng chất quanh đường lên đỉnh. Nỗi sốt ruột của nhóm muốn trông thấy hiệu quả tức khắc của phép thuật cá nhân trước thú dữ, phừng lên như hỏa diệm sơn. Thân thể cả lũ căng cứng vì thiếu kiên nhẫn. Trong quá khứ, đã nhiều lần chúng tôi viết ra giấy, tường thuật cách mình săn bắt. Tấn phân tích tường tận cách bẫy thú qua các thời đại, Sa minh họa bằng than chì. Mẫn viết thành thơ cách hắn bạnh cần cổ và há miệng thật lớn nuốt chửng tất cả mọi sinh vật. Tấn có tài thiện xạ, bách phát. Hắn có thể nhắm một mũi kim cách một lục địa hoặc chém một con thú đứt làm đôi. Sa thôi miên thú dữ đến mê man trước khi cột trói, còn Ngân quyến dụ bằng cách nằm ngửa tênh hênh chờ hổ báo ào ra, chính lúc đó Ngân mới quần đám báo bằng cách dạng chân phát thứ âm vọng u u pha lẫn mùi gây mê kỳ lạ. Ðám thú sẽ co rúm lại và tự động phủ phục, đợi Ngân âu yếm như vuốt ve một người đàn ông, là lũ thú ngoan ngoãn. Cách săn của nhóm đầy ngoạn mục làm nên tên tuổi của nhóm trên trường săn, nhưng trưa ấy, trên đỉnh Mégalo Vouno chúng tôi thất bại.

Lần đầu tiên nhóm đối mặt một thiên nhiên khô khốc, khắc nghiệt, của một vũ trụ trống rỗng.

Chúng tôi nằm phục ven các dẫy đá. Chờ đợi một bầy hoãng sẽ nhảy chồm lên hay một bầy sơn dương xuất hiện. Nhóm ngóng từng tiếng sỏi lăn, rình rập một làn gió làm mây lay động, bóng nắng múa chập chờn khiến chúng tôi hoa mắt. Mẫn căng bạnh đến rách cần cổ nhưng hắn chỉ nuốt được đám ruồi nhặn vo ve. Ngân lõa thể phơi trần khiêu khích giữa bãi đá làm mồi nhử thú và Tấn tỳ mắt vào nòng súng phản quang. Sa nhìn đăm đăm một hướng. Lắm lúc nhóm cảm giác vạn vật biến hoá. Mọi thứ bay bỗng thênh thang nhào lộn vung vảy màu sắc. Tiếng súng của Tấn đột ngột khô ran. Chừng có tiếng quạ ầm ĩ. Cả lũ chồm lên gào thét để cuối cùng nhận ra trước mắt chỉ có khoảng không với những đám khói bốc lên từ miệng núi lửa và tiếng súng lúc nãy vang vang hắt dội trở về như một trêu ghẹo thách thức. Nhóm trở lại vị trí. Cảnh quang lại bất động. Tiếng súng lại bất ngờ khô ran lần nữa cùng tiếng quạ đập cánh rầm rập. Trưa đó dường như tất cả đều bị ảo ảnh. Từ bầy sơn dương bay lượn trên không trung đến những con hoãng oằn mình tắm máu trong mây và cả tiếng quạ ồn ĩ trong thanh vắng, đều là ảo ảnh. Chúng tôi bị ảo giác và cảm thấu nỗi bất lực ghê ghớm, là chúng tôi đang săn những con thú vô hình.

Tuần sau rồi tuần sau nữa, dã thú tiếp tục vô hình. Cả lũ không còn săn được gì nữa, giống họng súng của Tấn rỉ sét, thực quản của Mẫn bế tắt không nuốt trôi được bất kỳ gì nữa và vết nứt ở bụng Ngân đã khép kín. Ngân mất đi tố chất thiêng liêng bẩm sinh của một nữ thợ săn dùng chính mùi của mình để dụ thú. Ánh mắt của Sa dài dại trở nên đờ đẫn. Sa rơi dần vào trạng thái trầm cảm. Không phát âm, chấm dứt những lời nói. Sa không còn tươi tắn sinh hoạt với nhóm mà chui rúc vào một góc, mỗi ngày một tách biệt. Tấn ra sức cưa những đầu đạn, để khi nổ làm bấy những con vật nhưng thiên nhiên tiếp tục hoang vắng, trống rỗng. Nhóm cố gắng làm phép. Phép thuật không xảy đến, vì cả lũ đã cạn kiệt chất tươi sống.

Chiều đó cả đám trở về ngôi nhà trắng thểu não. Tiếng sóng rì rập điệu hát ru những mặc cảm chán nản. Ngôi nhà trắng hiện ra giữa ráng chiều đỏ sẫm như ánh mắt trừng phạt của thần linh. Chúng tôi mệt mỏi bước lên các bậc cấp.

Garcia đón chúng tôi ở cổng. Hắn chỉ liếc nhìn rồi bỏ vào bếp. Garcia sống bí mật. Hắn không đi săn, không bao giờ đi săn, hay nói như Garcia ưa khiêu khích, hắn săn trong bếp, một mình. Nhóm rất ngạc nhiên khi thấy hắn dọn ra những thố nai xào lăn, heo rừng nướng với củ mật và các xâu nhím cháy tỏi. Chúng tôi không kịp giá súng, ăn ngốn ngấu trước đôi mắt của Garcia không ngừng quan sát. Garcia có đôi mắt của một đầu bếp, biết đoán giá trị từng phẩm vật, từng con thịt lẫn khách hàng. Tia mắt hắn xuyên suốt qua não trạng chúng tôi như thể buổi chiều hôm ấy hắn đã đoán trước chúng tôi sẽ thêm một lần nữa đi tay không trở về, không nai, không thỏ, không chim trĩ, không cả thói trửng giỡn cợt nhã thường nhật. Khi chúng tôi ngước lên, không đợi hỏi, hắn trả lời như biết trước câu hỏi, là hắn không ngửi thấy mùi thú, không phải chỉ mới hôm nay, nhưng từ mấy tuần qua khi cánh rừng ô liu phía Nam đã nhẵn thú. Giọng Garcia chắc nịch: Đi săn phải bền sức. Thú vô hình tinh khôn hơn hết, muốn săn, phải có bản lĩnh. Hắn đập đập đốc dao xuống mặt bàn.

Nhóm ăn trong im lặng. Chúng tôi chia nhau món sói xào lăn của Garcia thơm lừng củ nghệ. Mẫn nhai da báo cháy cạnh ròn tan, còn Tấn xẻ từng đùi đười ươi ướp xả vàng ngậy. Sa với Ngân chia nhau tai hổ và mũi chồn, nhưng kỳ lạ là chúng tôi không hề nhận ra vị thịt. Tuồng như Garcia nấu nướng không bằng thức ăn nhưng với những xảo thuật bùa phép nào đó chỉ mình hắn biết. Garcia thoả mãn nhìn cả lũ vục mặt vào những chảo gang vì đói cồn cào. Ðôi lúc chúng tôi ngờ ngợ hắn sắp khai thật, rồi lại thôi, hắn nhếch môi như muốn nói có những bí mật mà những tay phù thủy đem theo xuống đáy mồ. Sáng hôm sau hắn rời đảo, Garcia chỉ thuê phòng tạm vài tuần. Kể từ bấy, hắn tuyệt tích. Ít lâu sau, chúng tôi nghe tin hắn tử vong trong một ổ điếm già ở Bolivia.

oOo

Cái chết của Garcia để lại cơn đói triền miên cho cả lũ. Chúng tôi ngốn hết tất cả những tập giấy hắn ghi chép thực đơn trong ngày, do chính tay hắn viết ra rồi nấu lấy. Không vị thịt, không cả chất đạm có thật, chỉ là các xấp giấy nhưng từ những tấm giấy vàng ố toát mùi xào nấu mê hoặc. Chúng tôi nhai cho đến dòng chữ cuối cùng và tiếc nuối là hắn đã không viết dài hơn. Sau đó nhóm bắt đầu đi tiêu ra giấy. Những mẩu giấy vụn loằng ngoằn chữ, đôi khi dài đến mấy trang đen đặc chữ làm cả lũ sợ hãi tột độ đã mắc chứng ung thư ruột. Buổi sáng Sa khóc nấc trong nhà xí cũng là buổi sáng nhóm hiểu ra không thể nhai gặm những quyển sách thay thế thịt rừng. Nhưng thú săn ở Santorini hiếm như đàn bà có chữa. Không biết từ bao giờ Ngân khám phá ra điều ấy. Ngân nhận xét thổ dân ở đây không sanh con, không truyền giống, không có một người đàn bà nào ở cử suốt đảo. Chúng tôi bắt đầu nhìn quanh và cũng kinh ngạc nhận ra điều đó, các thiếu nữ mảnh mai hoặc nở nang vạm vỡ, đen rám khoẻ mạnh, nhưng không thấy một phụ nữ nào có mang trên bãi biển hoặc trong các bản làng chúng tôi đi qua. Nhóm bắt đầu mơ uớc những chiếc bụng tròn căng chứa sự sống với bầu vú mịn sữa. Một đôi lần chúng tôi nhìn đăm đăm vòng bụng của Ngân, khiến Ngân hốt hoảng phải bỏ trốn vào buồng riêng. Cơn đói bộc phát như trong tiểu thuyết của Hamsun, một gã thợ săn Na Uy lừng danh vì từng trải qua nạn đói. Knut Hamsun miêu tả sự hao hụt của thân xác và trí tuệ một khi cơn đói hoành hành. Trọng lượng cơ thể và trí óc của nhóm bắt đầu suy sụp.

Tất cả bắt đầu khi nhóm nôn thốc tháo những ổ bánh mì gyros kẹp thịt trừu với hành thái trộn ớt harissa mua ở hiệu Athenon. Những đuôi bánh mì từ từ trồi lên cuống họng rồi lòi ra miệng, nhú ra khỏi mồm, cho đến lúc cả nhóm phải khạc xuống mặt bàn nguyên vẹn ổ bánh mì. Không phải chúng tôi khó ăn, nhưng không đứa nào còn có thể nuốt nổi những khay cà tím bóng lưỡng nhồi phó mát tươi tắm trong dầu. Thậm chí đến cả rau cải trộn dấm rắc cá thu hộp cũng làm chúng tôi ói mửa. Không phải Sa không còn muốn vuốt ve biến hoá những mẩu báo vụn thành tiền giấy hay chúng tôi không thể ra chợ thổ sản mua những thứ khác, nhưng tệ hại là không ai còn ăn được nữa những thực phẩm siêu thị. Một cách kỳ quặc bao tử chúng tôi chối từ đồ hộp kỹ nghệ, kể cả thức ăn bình dân do thổ dân Hy bày bán. Chúng tôi ụa ra mật xanh những khi cố nuốt những thứ mua ngoài chợ. Những phó sản thương mãi làm chúng tôi nôn mửa. Tuấn lý giải chính bản năng thợ săn thiện nghệ ẩn mật đã khiến cơ thể chúng tôi chối từ tiêu hoá, không chấp nhận những thức ăn không do chính tay mình săn lấy. Trước đó, triệu chứng đã xảy ra một đôi lần nhưng chúng tôi vẫn còn có thể ăn đệm trái cây trồng sau nhà, nui ống hay bánh bột cán lấy… Từ khi những cánh rừng xanh mướt phía Nam bỗng dưng nhẵn thú, nhóm đành nuốt máu cá, ngậm muối biển, nhai rễ cây và uống dậm dầu ô liu. Cơn đói triền miên làm trí não của cả lũ vật vả, không ai còn viết ra được gì nữa, kể cả chép nhật ký.

Một buổi sáng Tấn giải mã trang giấy của ông lão mang gọng kính đồi mồi ngoài chợ Périssa. Hắn cân nhắc từng lời: Một thợ săn không thể nhai lại hay ăn thịt gia cầm làm sẵn. Để tránh chết vì đói, một cách chết hèn hạ của con người không biết làm ra phẩm vật, phải tự sát. Gương mặt hắn lầm lì dễ sợ khi phán quyết chính là thông điệp trong di chúc của Ngư ông. Hắn tả cảnh Ngư ông kê họng súng vào miệng mà hắn đoán ra từ những trang đặc chữ.

Ngay đêm đó, cả lũ cùng nằm mơ ác mộng. Chúng tôi thức giấc với tiếng phong linh réo vang liên tục càng lúc càng lớn không chấm dứt. Tiềng khánh phát ra từ chuỗi phong linh treo trong căn phòng mà lúc trước trưng bày đầu thú. Trong ác mộng tất cả cùng nghe thấy tiếng phong linh lớn dần thành những hồi chuông inh ỏi đinh tai gióng đổ liên hồi. Rất nhiều những quả chuông bay bỗng trong giấc ngủ của nhóm và dưới mỗi quả chuông đều treo xác một thợ săn thắt cổ lửng lơ bay lượn dính chặt vào dây chuông co giựt từng lúc. Tiếng chuông the thé xé màn nhĩ khiến nhóm choàng tỉnh. Kỳ lạ là tất cả cùng mơ chung giấc mơ và cùng choàng dậy trong tiếng khánh buốt óc vang khắp nhà tựa như trần mái ráp bằng những quả chuông và chúng đang xô đẩy va đập vào nhau. Chúng tôi lao đến buồng Ngân, nơi phát ra tiếng chát chúa nhức nhối và chứng kiếng một cảnh tượng kỳ dị. Ngân trần truồng đứng giữa các đầu thú và khắp châu thân Ngân phát ra tiếng chuông inh tai từ nãy. Ðầu, tay, bắp chân, cổ, vai, khắp mặt mũi, thậm chí hai bầu ngực Ngân như hai quả chuông cùng rung lên dồn dập. Ngân động kinh la hét van nài khẩn cầu quyền lực của dã thú. Phải mất nhiều phút chúng tôi mới dằng được Ngân ra khỏi tiếng chuông và hiểu ra là cả nhóm đang mắc hội chứng Âm Vọng của chính Ngân tạo ra mà Ngân không sao kiểm soát được, vì cơn đói hoành hành khiến mọi giác quan bên trong mình Ngân và cả bên trong chúng tôi đều hư hỏng. Mất trọn buổi sáng nhóm mới thoát ra khỏi ác mộng.

Tấn là kẻ thứ nhì vướng hội chứng Âm Vọng. Ăn xong đĩa cỏ xanh ngãi hôi mùi đất, do Sa luộc chín, lúc dọn khay đĩa chúng tôi bắt gặp Tấn ra ngồi trong góc tối. Hắn dò xét chúng tôi từ nãy. Tròng mắt hắn đầy vẻ thích thú của một kẻ đi xem kịch. Ðôi lúc ánh mắt phê phán của hắn làm chúng tôi bực tức nhưng chúng tôi chưa kịp phản ứng hắn đã lập tức bấm phím Tây Ban Cầm. Tiếng đàn của Tấn quái đản kinh dị, chen vào thính giác của từng đứa là thứ âm thanh khô khốc của những cánh cửa thư viện đóng mở liên tục, với triệu triệu pho sách cùng sang trang cựa quậy sột soạt cùng một lúc. Tấn thêm vào giữa các quãng âm của hắn mớ ca từ dị dạng, như tiếng thần chú của các tay phù thủy Voodoo khi đánh thức xác chết. Các ca từ của hắn gây ra thác loạn thị giác. Tôi trông thấy lại cảnh Thơ, một thợ săn đã rời đảo, đi giật lùi trên các trang Tân Ước bày la liệt khắp phòng và Sa nhìn thấy cảnh hải tặc nhồi nhét cây cối cùng miểng chai sắc cạnh vào cửa mình Sa trên đảo Kra ở đồi Xương Rồng. Tấn trình tấu các biến khúc suốt đêm cho đến lúc Mẫn không còn chịu đựng nỗi bỏ ra ngoài. Tiếng Guitare ngưng bặt khi Mẫn tưới xăng lên đống củi trước sân. Hắn đứng giữa trời đất ngắm tàn cháy vung vãi bay trong đêm tối. Hắn nói nếu phải chết vì đói, hắn muốn hoá thành gió lửa bay phừng phựt lên các triền núi rồi thả rơi tro tàn xuống những rễ rừng. Nhưng hắn không muốn chết, hắn từ giả nghiệp săn để có thể ăn những thức ăn bình thường của quê hắn. Để trở lại làm người tầm thường với những cảm xúc tầm thường nhưng chấm dứt hoang tưởng mộng mị. Hắn bỏ đi không quay đầu lại.

Sáng hôm sau khi gió lạnh sát sao trước biển, Ngân hãy còn thiêm thiếp vì thuốc an thần, Sa đã xuống đại sảnh rồi ra bãi. Tôi đi theo Sa. Trận gió hừng đông ùa đến. Tôi cảm giác rõ rệt là Sa muốn hiến thân cho gió, thả cơ thể và trí não của Sa cho gió cuốn bắt, kéo lôi ra xa. Giống linh hồn Sa đã thoát xác, đang phiêu du khắp biển, thăm suốt cùng trái đất. Sóng đánh tung ở ghềnh đá, phủ lớp lớp lấy Sa, giao hoan với Sa cho đến lúc mặt đá chỉ còn lại rêu ẩm. Sự mất tích cố ý của Sa mãi mãi là một bí ẩn.

Những ngày ở Akrotiri xảy ra một hiện tượng: Quyển lịch treo tường giữ nguyên ngày thứ Hai khi chúng tôi đặt chân đến đất Hy. Mỗi tối, tôi đều xé lịch nhưng đến sáng hôm sau vẫn là thứ Hai. Hoặc thời gian không còn song hành hay ngừng chuyển động, hoặc chúng tôi đã tụt lùi vào quá khứ… Tôi nghĩ đến Celan, Zweig và Owens, những thợ săn đã tự sát. Vì sao họ tự sát? Vì cơn đói dâng trào thèm khát, làm nát trí tuệ, mà mỗi một bận phải nuốt dằng xuống cho đến khi bụng ngập chất nhờn? Tôi nghĩ đến lũ đười ươi chúng tôi đã bắn, có phải chính chúng đã đến hằng đêm cắn xé hai đầu ngực của Ngân, cướp đi Sa và chính chúng rống gào tạo ra tiếng đàn kỳ quặc của Tấn? Tại sao chúng tôi không đủ sức nhìn thấy loài thú vô hình?

Sáng thứ Hai, nhà thờ chính thống giáo Agios Minas làm lễ viếng người chết. Tiếng chuông của Ernest dai dẳng tựa hắn liên tục vén trộm rèm mây.

Trần Vũ

Plano, Texas, Áp Tết Bính thân 2016

Bản giấy in lần đầu trên đặc san Xuân Bính Thân của tuần san Trẻ Dallas

bài đã đăng của Trần Vũ

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2023 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)