Nếu bị lưu đày ra hoang đảo, và chỉ được đem theo một quyển sách duy nhất, không cho phép đem sách của chính mình và bất kỳ thể loại, ngôn ngữ, kẻ đi đày sẽ đem theo quyển sách nào? Vì sao?
oOo
Ngô Thị Kim Cúc: Nếu bị đày ra hoang đảo, và chỉ được đem theo quyển sách duy nhất (điều này hơi bị xa thực tế của xã hội Việt Nam), tôi sẽ đem theo Sự Bất tử của Milan Kundera (Phạm Xuân Nguyên dịch, Nxb Văn Học ấn hành 1999, in chung với hai tác phẩm khác của cùng tác giả: Chậm rãi và Bản nguyên).
Lý do: Sự bất tử không cho phép người ta đọc nhanh. Khi đọc nhanh, những gì trong và đàng sau câu chữ sẽ không có cơ xuất hiện. Tôi thường xuyên phải dừng lại để ngẫm ngợi về những gì mà (tôi nghĩ) tác giả muốn mang tới cho người đọc.
Có thể gọi tiểu thuyết này là sự vinh danh cái-chớp-lóe đã hình thành nhân vật và dẫn dắt tác giả khai mở một thế giới người mà ông ta có thể không bao giờ hình dung, nếu…
Phải, chỉ cần một cử chỉ dường như vô thức của người đàn bà tuổi sáu mươi chẳng hề xinh đẹp, bỗng “bùng nổ” trong tác giả một cái tên, và từ đó sinh thành một nhân vật, rồi cả một tiểu thuyết. Từ cử chỉ duyên dáng bất ngờ của người đàn bà vô danh, bỗng hình thành một đường link dẫn tới rất nhiều cái tên thuộc loại danh giá nhất của làng văn chương nghệ thuật thế giới, để hợp lại thành một hỏi/đáp vô thanh về Sự bất tử.
Nhưng nếu chỉ có Sự bất tử của các tài danh thì tiểu thuyết sẽ thiếu đi sự hấp dẫn. Cho nên, phải có những nhân vật bình thường với những suy nghĩ/hành động tầm thường, giúp cho mọi chuyện trở nên sống động, “con người” hơn, khi những tiểu sử danh giá không cho phép tác giả đi quá xa trong hư cấu.
Trên hoang đảo, sức lực sẽ được dùng nhiều nhất cho việc kiếm ăn, nên Sự bất tử là quyển sách rất phù hợp. Tôi có thể nhâm nhi từng trang trong hàng chục năm trời, tô điểm cuộc sống buồn tẻ đơn điệu trên đảo hoang của mình. Tôi sẽ sung sướng vì không có cả máy tính lẫn giấy bút. Sẽ không có deadline, không có ai thúc tôi nộp bản thảo đúng kỳ hạn. Trường hợp có cảm hứng, tôi sẽ viết đôi dòng trên cát, để sóng biển lập tức xóa đi và tôi sẽ tự an ủi: Tại sóng, không phải tại mình…
Lương tâm tôi hoàn toàn yên ổn vì đã có Milan Kundera viết về Sự bất tử, đã có Daniel Defoe viết về Cuộc phiêu lưu của Robinson Crusoe. Tôi không phải viết gì hết, mỗi ngày chỉ đi cạy hàu bắt ốc trong hốc đá nướng ăn rồi đập dừa lấy nước uống. Những khi thật yêu đời, tôi có thể nhảy điệu Hula như những phụ nữ Hawaii vẫn nhảy, đầy sôi động và nữ tính…
Trần Vũ: Lưu đày ra hoang đảo? Một số nhà văn Việt đã trải qua. Các đảo Pulau Tanga, Pulau Bidong, Songkla, Galang, Kuku, Liminancong là những hải đảo hẻo lánh gần như hoang vắng khi thuyền nhân Việt đặt chân lên. Vietnamese Refugees Camp in Palawan khi tôi đến, chỉ là một vuông đất giữa rừng rậm quây kẽm gai với các mỏm đá ngầm cuối trại. Sau tháng đầu tiên thỏa mãn "Cơn đói" của Hamsun từ các chảo cơm Liên Hiệp quốc, tôi bắt đầu thèm chữ. Suốt tuổi niên thiếu chép không biết bao nhiêu những toát yếu, định lý, bình giảng rồi đọc mỗi ngày tiểu thuyết gián điệp Z28, Kim Dung, Bố Già, Về Miền Đất Hứa, Tầng Đầu Địa Ngục, Quần Đảo Ngục Tù, Giã Từ Vũ Khí, Chùm Nho Phẫn Nộ, Giờ Thứ 25, Kim Các Tự… đến Cô Hyppy Lạc Loài của Nhã Ca, Lao Vào Lửa của Thụy Vũ, Kinh Nước Đen của Nguyễn Thụy Long, Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng…, đọc chui thêm hằng đêm Nguyễn Nghiệp Nhượng, Dương Nghiễm Mậu, Mai Thảo…, đột nhiên chữ biến mất. Chung quanh không còn chữ!
Trại tỵ nạn làm những mọt sách không còn gì để gậm nhấm. Thèm chữ điên vì là sợi dây duy nhất nối với thế giới văn minh. Không chữ viết, thuyền nhân giống bầy thú nuôi.
Một lần lãnh thịt, được phát miếng thịt ôi cuốn giấy báo, tôi đã lấy nước lau sạch trang báo Phi, phơi khô, rồi ngắm mê mẩn tấm hình phu nhân Marcos với quảng cáo Pepsi, rồi nhìn say mê cột báo. Tôi không biết tiếng Anh nhưng các dòng chữ mực in vẫn thu hút. Đến khi mượn được hai trang tạp chí Việt Nam Hải Ngoại, cắt chuyền tay, tôi đọc đến thuộc lòng Mục Thư tín của nhà văn Linh Bảo khi ấy làm tổng thư ký. Tôi cảm tưởng tác giả Tàu Ngựa Cũ đang viết thư cho mình và bà cố gắng an ủi. Tôi mến mộ bà những ngày này.
Không phải là tôi không đem theo sách. Chủ tàu dặn tự túc thực phẩm với 10 ký hành lý tối đa. Xếp vội vã 3 ký gạo, 1 ký đường, 10 quả chanh, 1 ký chà bông-cá khô, lon sữa đặc, bịch thuốc Tây, quyển tự điển của Đào Đăng Vỹ, thêm ba bộ quần áo với cây viết bic, một xấp giấy kèm bao thư để báo tin cho nhà… Còn gì nữa? Còn đúng vài trăm gram cho một quyển sách… Tôi chụp vội quyển Samourai của thiếu úy Saburo Sakai. Chụp, nhưng vẫn là chọn lựa, vì tôi biết mình cất quyển hồi ký ấy ở đâu, trên ngăn tủ nào. Những ngày niên thiếu tôi mê những vòng xoáy looping của khu trục cơ Mitsubishi A6M Zéro không chiến với các chiến đấu cơ F4U Corsair, những tràn liên thanh với đại bác 20 ly trên cánh của Sakai bắn xối xả vào thân thép của pháo đài bay B-17. Mê lượn sóng Thái Bình mang gương mặt Hatsuyo khi Sakai cất cánh, nhận tử lệnh chúi xuống hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ. Mê dằn vặt của Sakai đã đến gần sát rồi quay về, nửa đường quay ngược lại muốn hoàn thành nhiệm vụ, rồi lại quay lui để trở về với Hatsuyo, trong bứt rứt đã phản bội đồng đội…
Tôi còn muốn đem theo Patricia Hollmann với Robby Lohkamp trong Chiến Hữu của Remarque. Đem theo Lenz, Otto, với Jupp và chiếc xe đua Karl, những người bạn của Pat và Robby. Tôi cũng mê Pat, lóng lánh và êm đềm, mê giọng trầm khao của Pat mỗi khi thì thầm: "Được rồi, bồ ơi." Mê công thức Tình Yêu là Tình Bạn thăng hoa và khi lên đến mức cao nhất trở lại thành Tình Bạn của Remarque. Tôi biết tôi mê Remarque. Mê Sakai. Mê Pat. Nhưng vẫn do dự trước Hitler và Mặt Trận Miền Đông của Paul Carell, bản dịch Mai Trường, tủ sách Lê Thanh Hoàng Dân. Chưa có sách nào mở ra thế giới cho tôi bằng quyển này. Không có cuộc chiến nào vĩ đại và tàn nhẫn bằng chiến tranh Nga-Đức. Bi thảm tột cùng.
Nhưng xe đến, nên tôi không có thì giờ chọn, nên ra đi với Sakai nhưng rồi tàu chìm và Sakai rơi vào lòng biển sâu. Đào Đăng Vỹ cũng vậy. Giờ, mỗi khi đứng trước tủ sách, tôi đều tự hỏi: "Vượt biên lần nữa mình mang gì?" Trăm lần câu trả lời vẫn là Hitler và Mặt Trận Miền Đông. Nhưng lần này tôi sẽ đem theo bản dịch Pháp văn Barbarossa, L’Invasion de la Russie và Opération terre brûlée: de la Volga à la Vistule của Raymond Albeck dầy 1200 trang, thay vì 300 trang của bản dịch giản lược cắt ngắn của Mai Trường. Tôi đã đọc đi đọc lại nghìn lần, lần nào cũng say mê. Những khi không gì đọc hay muốn tìm si mê trên trang chữ là tôi lại đọc lại Barbarossa. Không nhất thiết từ đầu mà vào bất kỳ chương nào, đoạn nào, giòng nào, ma lực cũng hiện lên. Sườn núi Caucase tuyết phủ với đỉnh Elbrouz cao ngất ngưởng mà những người lính phải buộc từng quả đạn đại bác trên lưng leo lên, để chiếm cho bằng được, bên kia là thung lũng dầu hỏa Bakou… Tháp chuông điện Cẩm Linh chỉ còn cách 8 cây số, đã trông thấy trong ống nhòm của các đơn vị tiền sát của sư đoàn 2 SS-Panzer Das Reich. 8 cây số! …Triệt thoái xuyên qua biển Azov đóng băng trong đêm tối, cả một quân đoàn lầm lũi vượt biển tuyết với chiến xa T-34 của Hồng quân truy đuổi phía sau…
Ra hoang đảo, cần biết chắc quyển sách nào mình không chán.
Phan Tấn Hải: Một cuốn sách duy nhất để cầm ra hoang đảo… Bây giờ thử cố gắng nhớ lại những cuốn sách mình đã từng say mê từ nhỏ tới giờ. Thời đi học, tôi đã từng say mê đọc một số truyện dịch từ các tác giả như Kim Dung (tôi mê nhất là Thiên Long Bát Bộ, sau mới tới Cô Gái Đồ Long), La Quán Trung (Tam Quốc Chí Diễn Nghĩa), Herman Hesse (thích nhất nơi anh này là: Câu Chuyện Dòng Sông), J.D. Salinger (Bắt Trẻ Đồng Xanh), Victor Hugo (Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà), Alexandre Dumas (Ba Chàng Ngự Lâm Pháo Thủ), Kawabata (Ngàn Cánh Hạc), Saint-Exupéry (Bay Đêm, Hoàng Tử Bé), Puzo (Bố Già)… Tác phẩm từ các tác giả Việt Nam thì tôi ưa thích Tuệ Trung Thượng Sỹ, Nguyễn Du, Khái Hưng, Bùi Giáng, Phạm Công Thiện, Võ Phiến… Tuy nhiên, để đọc một cuốn sách duy nhất cho tới hết đời trên một hoang đảo, hẳn là tôi sẽ suy tính chọn cuốn nào khác. Sách làm nặng đầu như Nietzsche, Camus… thì thôi đi.
Hay là nên chọn một cuốn sách tiếng Việt mà tôi ưa thích đặc biệt để trong những ngày rảnh rỗi ở đảo hoang, tôi sẽ dịch sang Anh văn xem như luyện văn và luyện trí nhớ? Nếu như thế, sẽ tự giúp mình vượt qua hội chứng lãng trí có thể sắp tới theo với tuổi già? Hay là tìm một cuốn Kinh Phật để vừa dùng làm kinh nhật tụng, vừa ngồi nhẩn nha chú giải từng dòng chữ, may ra đời sau thấy bản thảo đó sẽ có lợi cho người có cơ duyên đọc? Tôi nghĩ, cuốn sách để cầm ra hoang đảo không nên là văn chương; nó phải là cái gì gắn bó với xương tủy máu thịt của mình, gắn bó với cả cát trắng và biển xanh.
Đây rồi, tôi sẽ chọn cuốn Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn của Thiền sư Huệ Hải Đại Châu, bản dịch của Thiền sư Thích Thanh Từ. Đây là cuốn sách tôi đọc khi mới vào đại học, tình cờ mua chớ không nằm trong chương trình nào hết. Đó là một cuốn sách về Thiền Tông. Bản in sách giấy thời đó ghi rằng tác giả là Huệ Hải, khoảng thế kỷ thứ 8/9 ở Trung Hoa. Gần đây thấy các bản trên mạng ghi là Tuệ Hải, có thể Thầy Thanh Từ sửa lại cho thích nghi với thói quen phát âm của người miền Bắc. Lần đầu tôi đọc, và thêm nhiều lần đọc nữa, vẫn chỉ lờ mờ, có vẻ như không hiểu gì hết, nhưng vẫn linh cảm cuốn sách này là cốt tủy của nhà Thiền. Ngay chương đầu, tôi giựt mình khi đọc thấy “Vọng niệm chẳng sanh là thiền. Ngồi thấy Bản tánh là định. Bản tánh là tâm vô sanh của ông vậy.” Như dường tôi đang nghe lại những lời dạy từ nhiều kiếp về trước, chưa hiểu nhưng rất là gần gũi. Cuốn sách đó cũng là một trong các động cơ thúc giục tôi tìm hiểu thêm về Thiền Tông, và rồi đi lang thang một số chùa nơi Sài Gòn và các tỉnh gần đó để xem có nhà sư quái dị nào kiểu như Bồ Đề Đạt Ma ngồi ngó vách, hay như Lâm Tế ưa hét… Như thế, cuốn sách đó là một trong vài khởi đầu của hành trình cực kỳ hạnh phúc của tôi. Tôi đã nhìn thấy trong sách Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn dung chứa tất cả Kinh Phật, chứa cả trời cao và biển rộng, chứa cả đời tôi sau này dong ruổi với văn học, với thơ truyện, với tất cả những gì chung quanh đời mình.
Ngắn gọn, tôi sẽ trở lại mối tình đầu trong sách vở của tôi: sẽ cầm duy nhất cuốn Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn ra hoang đảo. Tôi sẽ hạnh phúc đọc từng chữ hàng ngày (thực ra, bản dịch của Thầy Thanh Từ không có ý làm văn chương, chủ yếu chỉ dịch ra tiếng Việt cho rõ nghĩa). Đọc từng chữ trong sách này hàng ngày, cũng là đọc tâm mình.
Thí dụ, trong sách đó có câu này: “Ở ngoài không nhiễm sắc, thanh v.v… bên trong tâm không khởi vọng niệm, được như thế gọi là chứng. Khi được chứng mà không khởi tưởng chứng, gọi là không chứng. Khi
được không chứng cũng không khởi tưởng không chứng, gọi là không không chứng…” Và tôi đã dò ra câu đó cũng chính là một câu nói của Đức Phật trong Kinh Tạng Pali.
Hạnh phúc tuyệt vời là như thế. Tôi sẽ cầm cuốn này ra đảo hoang, và hàng ngày sẽ có những hạnh phúc với chữ nghĩa như thế. Tuyệt vời chữ nghĩa, và cũng là tuyệt vời khi dứt bặt ngôn ngữ chữ nghĩa. Để rồi lúc đó sẽ chỉ lắng nghe tiếng sóng biển, và nhớ một câu của ngài Huệ Hải trong sách này: “Vì tánh nghe thường hằng. Khi có tiếng liền nghe, khi không tiếng cũng nghe…” Nghĩa là, khi nghe tiếng sóng biển, cũng là nghe tự chính mình, và cái gọi là mình đó chính là cái “gương sáng tuy không có hình tượng, mà có thể thấy tất cả hình tượng.” Tuyệt vời hạnh phúc.
Nguyễn Thị Thanh Bình: Câu hỏi khá thú vị, nhất là được đặt ra cho những người viết trong một đất nước có tới 26% không đọc và đang đội sổ về văn-hóa-đọc trên thế giới. Thú vị nữa, vì chỉ giới hạn có một cuốn và hoàn toàn không được mang theo cuốn “văn mình vợ người”, nên trong chọn lựa này kể ra cũng hơi bị… đau khổ thật đấy. Chả bù mỗi con dân Việt chỉ đọc trung bình mỗi năm 4 cuốn, mà chỉ tuyền là sách giáo khoa thư nên câu hỏi này may không đặt ra với giới không cầm bút. Còn với kẻ hèn này ư, thì kể ra câu hỏi này cũng hơi quen quen mà cũng hơi bị “giật mình” thật vì chợt nhận ra dường như mình chẳng có cuốn sách nào được gối đầu gường cả là sao ta.
Vậy thì khi bị đày ra một ốc đảo hoang vu nào đó, hẳn nhiên bạn cũng như tôi không chỉ muốn đi ra đi vô đụng toàn đá núi và cát bỏng, hoặc lặng lờ nghe vượn hú chim ca để ước gì thay vì phải đọc tới đọc lui chỉ một cuốn sách, chúng ta có thể chụp bắt được nhiều cảm xúc hoặc “gợi hứng” từ cuốn sách quý được mang theo bên mình, để viết thành một trang sách… đời khác. (viết một cuốn tiểu thuyết có khi cần cả 2 năm dàn ý, một năm viết cơ. Do đó coi như không có sẵn giấy bút thì cứ dàn ý trong đầu vậy).
Cuốn sách có thể là hợp với thể tạng của bạn và được coi là hay nhất, đáng trân quí nhất ấy lắm lúc chỉ được ví von như một người tình phụ nhiều ma mỵ và bạn bị cuốn hút vào trong đó như một mê đắm lầm lỡ, nhưng có hề chi khi là một lầm lỡ đáng lỡ lầm nhất, mà bạn đã không thể khước từ những mỹ cảm đôi khi trật đường rầy với đám đông xung quanh mình.
À bạn thân mến, có thể cho đến phút giây này, khi giữa tháng 4 trời đất vẫn còn đang rên la, và Ngày Sách Việt Nam chi đó cũng được đặt ở gần cuối tháng 4, tôi không biết bạn có muốn chia sớt với tôi một Trăm Năm Cô Đơn của cái ông nhà văn “mang mang” hiện thực huyền ảo Gabriel Garcial Marquez (vì đúng lúc bạn hỏi, trong tủ sách khá bề bộn của mình hiện đang có tới hai “Trăm Năm Cô Đơn” lận).
Kỳ thực tôi yêu cuốn tiểu thuyết của ông nhà văn Columbia này lắm, nhưng khi không cũng hơi hoang mang là tại sao lại cứ phải một tác giả quốc tế, mà không là Ngôi Nhà Sau Lưng Văn Miếu của Trần Vũ, hay Nỗi Buồn Chiến Tranh của Bảo Ninh, hoặc cuốn sách mỏng gây nhiều ám ảnh của một thời Miền Nam anh chị tôi vì muốn tỏ ra thời thượng, làm dáng đã vừa đi đường, vừa cầm trên tay của một tác giả triết học kiêm thi sĩ Phạm Công Thiện viết năm ông mới 15 tuổi là Mặt Trời Không Bao Giờ Có Thực.
Ờ thì đành rằng Việt Nam chưa có những nhà văn tầm cỡ Nobel Văn học như Gabriel Garcia Marquez, người có khá nhiều những tác phẩm đồ sộ và cho đến cuối đời đã tàn bóng xế vẫn còn ôm miết cây viết trên giường bệnh.
Đem được một cuốn sách hay dù với thước đo thẩm mỹ của riêng mình, tôi nghĩ điều này thật thú vị không chỉ để tiêu phí những trống trải, mà có khi còn là niềm cảm hứng vô biên để một người viết như chúng ta đặt lại những suy nghiệm nào đó hầu khi trở về đất liền, biết đâu chúng ta sẽ tìm ra câu trả lời vì sao một quốc gia với chiều dài văn học hơn 4000 năm văn hiến và chiều dài lịch sử chiến tranh “lẫy lừng” lại không thể sản sinh ra ít là Một Tác Phẩm có khả năng gây dư luận sôi nổi, góp mặt cùng văn đàn quốc tế ?!)
Nếu Việt Nam được mệnh danh là một cường quốc Thơ, thì thử hỏi liệu có một tác giả thi ca lớn đột phá nào của Việt Nam có thể vươn ra được cùng thế giới (kể cả viết bằng Anh Ngữ), nói chi đến Giải Nobel Văn chương sẽ được trao cho một đại thi hào Việt Nam trong tương lai. Cách gì đi nữa, thì nếu lần tới bạn hỏi tôi, biết đâu vì khuynh hướng thích đọc ngắn đã dần dà ngấm dần trong tôi như Facebook, truyện chớp, Thơ…, tôi cũng sẽ thổ lộ cho bạn biết chỉ một Tuyển Tập Thơ tôi muốn mang theo, khi ra ngoài hoang đảo hoặc khi chết cũng muốn mang theo, vì không hề và không thể khai tử Thi Ca đâu bạn. Bởi theo tôi, ngay cả những cuốn truyện được viết giàu chất thơ và mang hơi thở đời sống hiện đại cũng sẽ ở lại lâu hơn trong lòng người đọc. Không phải vậy sao?
Ngu Yên: Nếu đưa câu hỏi này ra khỏi ẩn dụ: Lưu đày ra hoang đảo = [cô độc và cô đơn]. Mang theo một cuốn sách = [một tác phẩm được yêu thích nhất, có thể đọc lại nhiều lần]. Không phải sách của mình = [tìm kiếm và thụ hưởng ý nghĩa, niềm vui, khoái cảm từ bên ngoài].
Vì sao?
Tôi nghĩ, trả lời câu này là để người đọc biết mình là ai qua diện văn học, trong khi, mình chưa chắc đã biết mình là ai.
Tôi nghĩ: Tùy vào giai đoạn nào trong đời sống bị lưu đày. Mỗi khúc quanh đời người, mỗi khi quan niệm văn học thay đổi, mỗi khi có biến cố lớn trong tâm tư, tôi sẽ chọn một thể loại văn chương phù hợp và mang đi một cuốn sách yêu thích nhất trong thể loại đó.
Ở giai đoạn chương cuối cùng, soi gương thấy mình chưa rõ, làm sao thấy người khác. Tôi sẽ mang theo một cuốn sách bằng trí nhớ. Suốt cả đời, có một việc tôi rất muốn làm, nhưng chưa bao giờ thực hiện. Đó là đọc lại những cuốn sách đã đọc. Có quá nhiều sách hay, đọc không kịp. Ba cuốn sách mà tôi đọc nhiều lần nhất là bộ Đông Châu Liệt Quốc, Thus Spoke Zarathustra, và kinh Dịch. Những sách khác, có cuốn đọc đôi lần, hầu hết chỉ đọc một lần. Dù đọc nhiều lần hay một lần, tôi luôn luôn có cảm tưởng chỉ hiểu một phần hoặc một nửa tác phẩm. Cảm giác này làm cho hiểu biết khó chịu và kinh nghiệm xấu hổ. Việc đọc lại trở thành khó khăn khi trước mặt đầy dẫy những sách giá trị, những sách vượt qua sự hiểu biết của bản thân. Làm sao có thể dừng chân, không tiếp tục phiêu lưu vào chốn bao la hấp dẫn?
Nếu bị bắt buộc phải [cô độc, cô đơn] ở một nơi không có gì để đọc, tôi sẽ mang [tác phẩm yêu thích nhất] là không có tác phẩm nào. Tôi sẽ đi tay không với ý định để hết thời giờ còn lại nghiền ngẫm cuốn sách lưu trữ trong trí nhớ, [tìm kiếm thụ hưởng ý nghĩa niềm vui từ bên trong]. Trời cho một ví dụ điển hình: Ngu như con bò làm việc cực nhọc suốt ngày, càng làm càng Ngu, càng không biết mình là ai. Chỉ khi rảnh rỗi mới nhai lại. tẩm bổ thêm một ít thông thái, mới tự hiểu thêm đôi điều về bản thân. Bị đi tù, bị lưu đày, bị bệnh liệt giường… nếu bị ép buộc có thời giờ, một mình, tôi sẽ nhai lại chữ. Phải chăng đó là cuốn sách đáng để đọc nhiều lần?
oOo
Tổng kết:
20 người viết tuy chưa là nhiều nhưng cũng cho một đúc kết ngắn: 9 truyện dài, 2 quyển kinh, 1 tập truyện ngắn, 1 thi tập, 1 truyền thuyết cổ tích, 1 nghiên cứu, 1 nhật ký, 1 từ điển, với 1 không đem gì hết và 2 có thể sẽ mang nhưng không tiết lộ bí mật. Hầu hết là sách xưa, trừ sách của Jiddu Krishnamurti (1993), Milan Kundera (1988), và công trình biên soạn của BS. Nguyễn Hy Vọng (từ 1981-2012). Nếu Nguyễn Thị Hoàng và Hồ Xuân Hương là hai nữ tác giả Việt duy nhất, thì còn lại là sách ngoại quốc. Giống thăm dò dành cho 100 nhà văn Pháp, tiểu thuyết vẫn là thể loại ngự trị.
Trương Vũ: Tiểu thuyết Kim Các Tự của Yukio Mishima.
Đỗ Hoàng Diệu: Tiểu thuyết Âm thanh và Cuồng nộ của William Faulkner.
Ngô Nguyên Dũng: Tiểu thuyết Vòng Tay Học Trò của Nguyễn Thị Hoàng.
Hoàng Hưng: Tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov của Dostoïevski.
Ý Nhi: Tiểu thuyết Hoàng Tử Bé của St. Exupéry.
Bùi Vĩnh Phúc: Tiểu thuyết Chiếc Cầu Trên Sông Drina của Ivo Andric.
Vũ Thị Thanh Mai: Tiểu thuyết Đường Đến Hải Đăng của Virginia Wolf.
Đặng Thơ Thơ: Bộ Từ Điển Nguồn Gốc Tiếng Việt ‘Vietnamese Cognatic Dictionary’ do Bác Sĩ Nguyễn Hy Vọng biên soạn.
Trịnh Cung: Tiểu thuyết Lộc Đỉnh Ký của Kim Dung.
Ngô Thị Kim Cúc: Tiểu thuyết Sự Bất Tử của Milan Kundera.
Thận Nhiên: Kinh thánh, Tân Ước và Cựu Ước.
Phan Tấn Hải: Kinh Phật, Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn của Thiền sư Huệ Hải Đại Châu.
Trần Vũ: Nghiên cứu chiến tranh Nga-Đức Barbarossa của Paul Carell.
Lê Thị Thấm Vân: Nhật ký cuối cùng của Jiddu Krishnamurti.
Nguyễn Hoàng Diệu Thủy: Tập truyện ngắn của Stefan Zweig.
Ban Mai: Truyện cổ tích thần thoại Hy Lạp.
Trịnh Y Thư: Thi tập Hồ Xuân Hương.
Nguyễn Thị Thanh Bình: Có thể một thi tập…
Phạm Thị Hoài: Có thể tiểu thuyết Ulysses của James Joyce…
Ngu Yên: Không đem gì hết.
Trần Vũ thực hiện tháng 4-2019.
“Bảy Ngày Trong Đồng Tháp Mười” (Du ký và Biên khảo) của Nguyễn Hiến Lê.(Loại sách “Học Làm Người”, Sài Gòn, 1954)
“Hãy cho tôi biết bạn sẽ mang theo quyển sách duy nhất nào nếu bị lưu đày ra hoang đảo, tôi sẽ nói cho bạn biết bạn là người như thế nào?” ~LH
Tôi chọn Để Tưởng Nhớ Mùi Hương của Mai Thảo.