Suốt cuộc đời, đôi khi chỉ một hay đôi ba nghệ phẩm cũng đủ hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp của một nghệ nhân. Trường hợp đó đúng với Văn Cao. Nhắc đến ông, là nhắc đến Thiên Thai, Trương Chi, Tiến Quân Ca. Nhưng nếu Thiên Thai réo rắc xa vắng đánh dấu một thời kỳ lãng mạn của ảo mộng thì Tiến Quân Ca lại là thực tế của một thời đại tàn nhẫn ngập máu và nước mắt. Văn Cao ở đâu giữa hai cực điểm ấy? Đi kiếm câu trả lời, sẽ chỉ tìm thấy những đối cực: Phía bên này ví ông với Lục Chỉ Cầm Ma, một nhân vật hư cấu trong truyện Chưởng sử dụng Bát Âm Thiên Long đánh những ngón đàn làm tổn thương tâm thần người nghe; phía bên kia không hiếm những tôn vinh Văn Cao là nghệ sĩ lớn nhất, vị thánh của các cung bậc trần gian. Văn Cao ở đâu? Nhất định không ở vị trí của người đời gán ghép, mỗi nghệ nhân đều chọn cho mình một thái độ sống, cách giao tiếp với cuộc đời, trong đó, họ sống riêng với nghệ phẩm.
Văn Cao ở thời điểm hôm nay nhìn lại, nghệ phẩm của ông vẫn nằm ở hai cực điểm: ảo mộng và thực tế. Bởi Thiên Thai, trước nhất là một giấc mộng. Giấc mộng không chỉ của riêng Văn Cao nhưng của cả đất nước. Lên cõi tiên, nơi không còn đói khát, nơi hết khổ đau, nơi chỉ có hạnh phúc. Văn Cao đã ước mơ và thay chúng ta diễn tả thành lời. Có lẽ chưa có một nhạc phẩm nào khác Thiên Thai, biểu đạt thành công cho bằng giấc mơ của dân tộc. Nhưng nếu tài hoa của nghệ nhân giữ cho âm hưởng của nhạc sống mãi, tiếng réo rắc chưa bao giờ tắt, lâu lâu còn bất chợt vọng về, thì định mệnh của Thiên Thai cũng nằm trong nỗi xa vắng, thứ âm giai mênh mang, âm điệu lưu luyến, vấn vương thường bắt gặp trong thần thái của các sáng tác Văn Cao. Xa vắng, vấn vương là chỉ sự mất mát. Thiên Thai là một giấc mộng đánh mất. Nửa thế kỷ trôi qua, chắc hẳn Văn Cao cũng đã nhận ra sự mất mát ấy, không còn nghệ phẩm nào của Văn Cao vượt qua được Thiên Thai, cũng không còn giấc mộng nào lớn hơn Thiên Thai, và chưa lúc nào giấc mơ của dân tộc xa ngoài tầm tay bằng.
Viết Tiến Quân Ca, Văn Cao bước ra từ ảo mộng vào thực tế. Một thực tế của sắt thép và máu. Mỗi nghệ nhân trong cuộc sống đều chấp nhận hủy hoại. Ở bên này, rất đông người trách Văn Cao đã tự hủy đi rất nhiều khi phục vụ chính trị. Làm Nghệ thuật phải khác với làm văn công. Vì sao Văn Cao chấp nhận viết Dưới ngọn cờ Giải phóng, rồi ca khúc Ca Ngợi Hồ Chủ Tịch, xưng tụng “tiếng Người còn dịu dàng như tiếng đất trời…”? Với phía bên kia, Văn Cao vẫn luôn là một thần tượng, dù trong cõi mộng hay cõi thực. Tiến Quân Ca như tiếng sóng gầm, bừng bừng trỗ i dậy thác lũ của một dân tộc nô lệ. Quyết chiến! Ra trận! Đổ Máu! Phía xưng tụng chưa bao giờ muốn kiểm tra những gì Tiến Quân Ca đem đến.
Nghệ nhân đồng nghĩa với đam mê. Văn Cao bước ra từ ảo mộng vào thực tế cũng với tất cả đam mê. Say sưa đem hết tài hoa để viết Sông Lô, Tiến Về Hà Nội, Gò Đống Đa là những hùng ca cùng với Tiến Quân Ca đã góp phần cho chiến thắng. Từ đó, không thiếu những ý kiến cho rằng chúng ta nợ Văn Cao một món nợ tinh thần. Từ lãng mạn đến hùng ca, đất nước đã yêu, đã mơ mộng, đã chiến đấu bằng âm nhạc của Văn Cao. Đến đây, một cách thẳng thắn, Nốt Nhạc Trương Chi được viết với lòng quý trọng nghệ nhân nhưng cùng lúc là để phản bác ý niệm về món nợ Văn Cao – trong đó có món nợ Tiến Quân Ca.
Quốc thiều của đất nước do biến động lịch sử đã có ít nhất ba bản: Tiến Quân Ca, Giải Phóng Miền Nam, Tiếng Gọi Công Dân mà có lẽ nhiều mươi triệu dân Việt hôm nay không ai còn giữ được khách quan, trung tính khi cảm nhận, vì sự trung thực đã bị biến dạng xuyên qua quá khứ của mỗi vùng đất mình sinh sống. Dù cố gắng, nhưng chắc chắn những dòng chữ viết ra sẽ thiên lệch, không biểu trưng cho tâm tình của tất cả, những ai sinh ra ở miền Bắc hay theo Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam sẽ ít chia sẻ. Do vậy, chỉ là tâm trạng riêng của một người viết mà suốt quãng thời niên thiếu đã tập hát cả ba bản quốc thiều này.
***
Trong ba bản quốc ca sau cùng của đất nước, đối với thế hệ sinh sau trong miền Nam, phải hát mỗi sáng thứ hai, thì có lẽ Tiến Quân Ca là kém hùng tráng nhất. Khác với âm điệu dồn dập kêu gọi nức lòng liên tục không ngớt trong Tiếng Gọi Công Dân của Lưu Hữu Phước, Tiến Quân Ca mang nhịp điệu lê thê. Một trong những lý do chính của sự lê thê ấy, là do nhịp nghỉ quá nhiều, gần như sau mỗi câu. Nhịp ngắt trong Tiếng Gọi Công Dân vẫn có, nhưng chỉ là nhịp ngắt giúp lấy hơi tiếp tục hát. Kể từ sau vế đầu “Này công dân ơi quốc gia đến ngày nguy biến…” gần như Lưu Hữu Phước không cho phép người hát ngưng nghỉ một giây phút nào, “đồng lòng cùng đi hy sinh tiếc gì thân sống/ vì tương lai quốc dân cùng xông pha khói tên/ làm sao cho núi sông từ nay luôn vững bền/ Dù cho thây phơi trên gươm giáo/ Thù nước lấy máu đào đem báo…” Những mệnh đề theo nhau liên tục, mạnh mẽ, tiếp nối cuồn cuộn kêu gọi bừng bừng không dứt cho đến giây phút cuối cùng. Tính chất kích động, hào khí và dũng cảm hy sinh rất mạnh trong lời nhạc. Người hát như phải trút hết nhiệt huyết không dừng được. Tiến Quân Ca của Văn Cao hoàn toàn không có được hùng khí đó, từ lời cho đến nhịp. Toàn bản nhạc là những nhịp ngưng nghỉ quá đều đặn: “Đoàn quân Việt Nam đi (..) chung lòng cứu quốc (..) Bước chân dồn vang trên đường gập ghềnh xa (..) Cờ in máu chiến thắng mang hồn nước (..) Súng ngoài xa chen khúc quân hành ca (..) Đường vinh quang xây xác quân thù (..) Thắng gian lao cùng nhau lập chiến khu (..)” Tiến Quân Ca không đem đến hiệu ứng bốc cháy trong lòng người hát. Không khiến thanh niên học sinh cảm giác phải
lao đến trước, bất chấp hiểm nguy để cứu tổ quốc. Sự khác biệt giữa Lưu Hữu Phước và Văn Cao còn nằm trong hình ảnh nhạc. Nếu Tiếng Gọi Công Dân là lời kêu gọi, khởi hành, lên đường, thì trong Tiến Quân Ca, âm hưởng chung là mọi sự đã an bài, đã xong, chỉ còn lác đác tiếng súng xa trên đường về mật khu để nghỉ ngơi. Và nếu mệnh đề cuối “Nước non Việt Nam ta vững bền” mang ý niệm kiểm chứng nhiều hơn là mục đích phải đạt đến, thì mệnh đề đầu “chung lòng cứu quốc” giống một lời tự trấn an nhau hơn là một khẳng định. Nếu trong Tiếng Gọi Công Dân là kêu gọi xả thân, hy sinh, làm nhiệm vụ của mọi công dân trước tình huống lâm nguy của đất nước, thì Tiến Quân Ca chỉ là một hùng ca của một tập thể được xác định rõ rệt là quân đội, những công dân khác không được nhắc đến. Tầm vóc và ý nghĩa của Tiến Quân Ca do vậy, không bằng Tiếng Gọi Công Dân. Tất nhiên bản gốc của Tiếng Gọi Công Dân là Tiếng Gọi Thanh Niên, nhưng một khi đã trời thành quốc ca của miền Nam thì vĩnh viễn là Tiếng Gọi Công Dân.
***
Với “thu ru bến sóng vàng” trong Sông Lô là trường ca viết cho chiến khu Việt-Bắc, hoặc những “dư âm mênh mông” trong Chiến sĩ Việt Nam, Văn Cao bước ra từ cõi mộng vào cõi thực vẫn với tâm hồn nhiều lãng mạn, giàu cảm xúc, chứa chan vương vấn, luyến lưu và hoài cổ. Tất cả ưu điểm làm nên nhạc tình Văn Cao đều dựa trên nỗi buồn tiếc nhớ, những thương cảm, một chút hoài niệm, một chút xa vắng mà ý thức hay không Văn Cao đã đem vào nhạc hùng. Khiến, người nghe luôn bắt gặp, dù rất mơ hồ nhưng cũng đầy bảng lãng chất u hoài buồn bã thấm sâu trong nhạc hùng Văn Cao. Những hùng ca chưa bao giờ thực sự hùng tráng. Nhưng dù không hùng tráng, Văn Cao không viết hùng ca để kêu gọi hận thù. Ông viết hùng ca với tâm hồn một nghệ sĩ.
Trở lại với Tiến Quân Ca, nếu những đóng góp cho Mặt trận Việt Minh trong giai đoạn chiến tranh Việt-Pháp là có thực, thì giai đoạn sau không còn đúng nữa. Trong nội chiến Nam-Bắc vừa qua, bất kỳ nỗ lực nào cũng không thể gọi là đóng góp, khi hậu quả chỉ là tương tàn và phân ly. Đất nước không kêu gọi đóng góp để gây xương máu. Cuộc chiến trong Nam, ít nhiều là tự vệ. Tiếng Gọi Công Dân là tiếng kêu gọi tự vệ. Tiến Quân Ca lúc đó là tiếng kèn thúc thanh niên vào chỗ chết, cho một ý đồ thôn tính. Kiêu hãnh với Tiến Quân Ca ở giai đoạn sau, là một kiêu hãnh phi lý.
Sau 30 tháng 4, trong ba bản quốc thiều, có lẽ Giải Phóng Miền Nam cũng của Lưu Hữu Phước là ít được chấp nhận nhất, bởi tính chất hung bạo, dã man, kêu gào căm thù và chém giết. Tiếng Gọi Công Dân bị khai tử nhưng Tiến Quân Ca cũng không còn mang tính chất thiên liêng, âm vang giành độc lập của những ngày đầu kháng Pháp. Nếu Giải Phóng Miền Nam đã được hát trong sợ sệt gần như hãi hùng lúc ban đầu, thì Tiến Quân Ca về sau được hát với tâm trạng uể oải nếu không là thờ ơ. Làm sao không dửng dưng hay không chán chường khi nhà có cha, anh đi học tập không biết ngày tha, nhà bị đóng chốt đánh tư sản hay thuộc diện đi Kinh tế Mới? Cuộc thống nhất hai miền đã không đem lại gì cho đất nước, ngoài một bộ phận chiến thắng vụt giàu sang. Món nợ Tiến Quân Ca, do đó, chưa bao giờ là món nợ của 30 triệu người miền Nam.
Viết “Chúng ta nợ Văn Cao một món nợ tinh thần,” như cách viết của những người tả khuynh, là một áp đặt và đánh tráo khổ đau. Nếu thực sự có một món nợ, thì chúng ta nợ Buồn Tàn Thu, Suối Mơ, Trương Chi, Cung Đàn Xưa … nhưng không nợ Tiến Quân Ca. Và, sau nữa, khơi dậy khái niệm “món nợ,” là một khơi dậy sai lầm. Nghệ nhân khi đến với cuộc sống, luôn đến bằng tâm tình hiến dâng, trao tặng thân xác, lẫn tâm hồn để tạo dựng cái đẹp. Người viết tiểu thuyết, nhạc sĩ, họa sĩ, thi sĩ, kẻ điêu khắc khi tạo dựng tác phẩm không trả giá với cuộc đời, không đòi hỏi phải đền đáp cân xứng. Văn Cao hẳn đến với cuộc đời trong tinh thần ấy. Ông không muốn nợ ai, cũng không muốn ai nợ ông. Giống Trương Chi cất tiếng sáo cao vút giữa nền trời đêm, trên mặt con sông Tiêu Tương lấp lánh ánh sao mờ đã không muốn người đời nhìn thấy chân dung đích thực của mình, chỉ cống hiến giọng hát và tiếng sáo cho không gian, để làm đẹp không gian, để cỏ cây, vạn vật thêm rung cảm. Văn Cao giữa hai cõi mộng và thực, giữa Thiên Thai và Tiến Quân Ca, chính là Trương Chi ở nốt nhạc chiều bơ vơ lúc thu vừa sang. Một Trương Chi không được đền đáp xứng đáng, dù tài hoa. Một Trương Chi có thể chết, có thể tự hủy nhưng tiếng sáo không bao giờ tắt.
Trương Chi đã tuyệt vọng khi va chạm thực tế, vì Mỵ Nương không đoái hoài. Văn Cao đã không được trọng dụng mà còn phải gánh trong mình thêm bi kịch: Tiến Quân Ca của chính ông cất lên nơi nào, thì giấc mơ Thiên Thai của ông tắt ngấm nơi ấy. Tiến Quân Ca lan đến đâu, phát vang phố phường nào, hát vang chốn nào, thì Thiên Thai biến mất chốn ấy.
Chúng ta không nợ Văn Cao trong cõi thực nhưng yêu mến và tôn trọng giấc mộng Thiên Thai của Văn Cao ở cõi mơ. Giấc mộng vẫn xa tầm tay dân Việt.
TV, tháng 10-1992
Đánh máy lại và hiệu đính tháng 10-2017
(*) Ca khúc Ca Ngợi Hồ Chủ Tịch, Tuyển tập nhạc Văn Cao, Nxb Trẻ, 1988
Tác giả lấy cảm tính của mình để đánh giá sự việc. Cảm tính luôn mang tính chủ quan và do đó sự việc thường bị đánh giá thiên lệch. Không thể đánh giá sự hay, dở của một nhạc phẩm qua phân tích luận lý cho dù sắc bén đến mấy, mà phải thưởng thức và cảm nhận âm nhạc bằng cả tri thức và tâm hồn. Sau cùng, đối tượng thưởng thức tác phẩm cũng có những cảm xúc chủ quan của họ. Khen hay chê là quyền của tác giả và điều đó chỉ mang tính chất cá nhân.
Đồng ý với Đạm Tiên rằng hai chữ “nghệ nhân” của nhà văn Trần Vũ dành cho nhạc sĩ Văn Cao là với lòng trân trọng. Nhưng đồng ý hơn với nhà văn Trần Doãn Nho rằng mỗi từ có cách dùng riêng của nó, cái “chết nghĩa”rất hay của nó.
Không đồng ý với Trần Vũ khi gọi những bản nhạc của Văn Cao là “nghệ phẩm”. Tác phẩm là tiếng dùng chung, còn nói rạch ròi thì phải là nhạc phẩm, hoạ phẩm, thi phẩm…
Vài suy nghĩ…
Khi Trần Vũ gọi Văn Cao là “nghệ nhân”, có vẻ như TV không hề coi nhẹ tài năng của Văn Cao mà ngược lại nó dường như còn là một lời ca tụng. Nếu nói rằng “nghệ nhân” chỉ gói gọn ở những người thợ làm đồ gốm, thủ công, thì chúng ta đã vô tình giới hạn và lập ra một ranh giới cho sự phân biệt cao thấp chăng, trong khi định nghĩa của “nghệ nhân” đơn giản chỉ là người làm nghệ thuật? Và trong cái mênh mông của nghệ thuật, Art, thì Văn Cao không chỉ sáng tác, làm thơ, hội họa nên không gọi Văn Cao là một “nhạc sĩ” mà gọi một nghệ nhân há chẳng phải là sự ưu ái dành cho một Văn Cao tài giỏi và tinh túy trên nhiều lãnh vực? Riêng hai chữ nghệ sĩ, có đúng không khi ngoài đam mê và tài năng, nó hàm chứa cả tính cách SĨ khí trong con người làm nghệ thuật? Văn Cao trong con mắt của Trần Vũ có phải là một nghệ sĩ hay không thì chắc chỉ là bí mật giữa Chúa và Trần Vũ!!! Đây chúng ta chỉ nói tới hai từ nghệ nhân.
Cái tuyệt diệu của Thiên Thai, là nếu nói rằng nó chỉ là mộng ước luyến ái hạnh phúc nam nữ cũng được, mà cho rằng đó là một giấc mộng mơ hồ xa xôi thoát ra sự trần tục của cuộc đời cũng không sai, cả hai đều hay đều có lý. Để làm được một bài nhạc được đánh giá cao về âm hưởng, giai điệu lại mang biết bao mỹ từ tuyệt đẹp thì Thiên Thai và Văn Cao quả là superior. Và một khi đã đạt đến một trình độ nhất định (như Văn Cao đã làm), thì có lẽ Thiên Thai không chỉ là một trường ca ngắn với những thú vui trần tục nam nữ (không dám nói là tầm thường) nữa mà Thiên Thai còn là một ẩn dụ đâu đó cho một ước vọng được thoát khỏi thực tại để mơ về một cái gì đẹp và rất xa vời.
Quả là mấy chục năm qua, chưa có bài nào vượt qua Thiên Thai – Một tác phẩm lớn –
Cám ơn Văn Cao. Cám ơn Trần Vũ và cám ơn những comments trên Da Màu.
Trước, là góp ý:
Tôi đồng ý với HXS khi phân biệt nghệ sĩ và nghệ nhân. Không phải vì xem “nghệ sĩ” là cao (hay thấp) hơn “nghệ nhân”, nhưng do cách dùng khiến cho mỗi chữ gần như “chết nghĩa” như thế. Thực ra, khi gọi VCao là nghệ sĩ, ta vẫn thấy còn vướng víu, vì ta chỉ nghe “nhạc sĩ” Văn Cao, cũng như nghe nhạc sĩ PDuy, nhạc sĩ TCS, vân vân, ít khi nghe gọi là nghệ sĩ TCS hay nghệ sĩ PD.
Cũng thế, đồng ý với TVũ, làm gốm đòi hỏi nghệ thuật, nhưng khi gọi một anh thợ làm đồ gốm,hay làm vàng rất giỏi, rất nghệ thuật…là một “nghệ sĩ gốm”, hay “nghệ sĩ kim hoàn” thì nghe …vẫn không lọt tai, thậm chí thấy sai.
Theo cách hiểu hiện nay, “nghệ nhân” là người đạt trình độ cao trong một ngành mỹ nghệ nào đó, còn nghệ sĩ là để chỉ những người sáng tác âm nhạc, hội họa hay văn chương. Cách hiểu như thế không phải do quan niệm hay do cách đánh giá, nhưng do cách dùng. Chính cách dùng làm phát sinh nghĩa. Tất nhiên, do cách dùng, ta có thể làm nghĩa thay đổi. Nghĩa của một chữ còn là do tương quan của nó với chữ khác kết hợp với nó (theo Saussure); cũng còn do ngữ cảnh nữa. Một chữ sẽ “chết nghĩa’ qua thời gian và được chấp nhận trong cộng đồng một cách vô thức. Nghĩa là do sự lập đi lập lại rất nhiều lần (qua ngữ cảnh, cách dùng).
Chẳng hạn hai chữ “nghệ sĩ” sẽ có nghĩa khác nhau do cách dùng hay do các chữ đi kèm với nó:
– Anh ta có phong thái/phong cách nghệ sĩ, ở đây, nghệ sĩ có nghĩa là cởi mở, tự do, ít nề hà, có đầu óc nghệ thuật.
– Anh ta sống nghệ sĩ lắm, ở đây nghệ sĩ lại có nghĩa “sống bừa bãi”
– Cuộc đời nghệ sĩ, đời nghệ sĩ, thì nghệ sĩ có nghĩa là “nghèo”, “thiếu thốn; còn nói “kiếp nghệ sĩ” thì càng tệ (nghèo) hơn nữa. Cũng có thể có nghĩa là “lang thang”, “rày đây mai đó”…
Cách dùng (được lập đi lập lại) rất quan trọng trong việc hình thành ý nghĩa. Cho đến giờ, ta vẫn thường gọi: nhạc sĩ Văn Cao, nhạc sĩ PD, nhạc sĩ TCS; nhà văn Trần Vũ, nhà văn Mai Thảo, nhà văn Võ Phiến. Ngay cả khi Võ Phiến viết rất nhiều bài phê bình văn học, nhưng ít hay không ai gọi là nhà phê bình VP. Cũng bởi thế, nếu có ai nói/viết: Nghệ nhân Trần Vũ có hai nghệ phẩm “Ngôi nhà sau lưng Văn Miếu” và “Cái chết sau qua khứ” hay “Nghệ nhân” TCS là tác giả của nghệ phẩm “Ca khúc da vàng”, tôi sẽ phản đối ngay. Vì nghe…có gì không ổn, vì …không quen tai.
Sau, là thăm. Vẫn nhớ và hỏi thăm TV khi về Garland (Texas) và khi qua quận Cam. Có dịp, liên lạc nhau cho vui.
TDN
Cám ơn Trần Vũ đã phản hồi. Đúng là nhãn quan nghệ thuật mỗi người mỗi khác. Và đâu là ranh giới? Tôi không nghĩ nghệ sĩ là người sống bê tha. Có người vẫn thích được xưng tụng là thi sĩ hơn là nhà thơ.
Hình như lâu lắm Trần Vũ có cái hẹn sang Montreal chơi. Mọi người vẫn đợi. Nhất là Hồ Đình Nghiêm.
Chúc vui.
HXS
Cái khác nhau giữa Thiên Thai của TQ và Từ Thức của VN
Cả 2 nội dung đều giống nhau là lạc thú luyến ái đôi lứa của con người trong cảnh sung túc tươi đẹp và không bị vướng bận trần ai.
Tuy nhiên, sự khác nhau của 2 chuyện là sự khởi đầu. Truyện thần tiên Thiên Thai TQ bắt đầu bằng 2 anh đàn ông vào rừng tìm hái thuốc và lạc lối vào Đào Nguyên.
Trong khi truyện Từ Thức trong Truyền Kỳ Mạn Lục, Nguyễn Dữ – lại bắt đầu bằng sự bất mãn. Nhân vật Từ Thức, làm quan, nhưng lại chán cảnh tục lụy cúi lòn chốn quan trường. Bèn bỏ đi. Và gặp Tiên, chính là nàng Tiên mình đã từng cứu thoát cảnh khó khăn do lễ tắc con người gây ra.
Truyện của TQ bắt đầu bằng sự truy tìm giải thoát (đi tìm hái thuốc). Truyện VN lại khởi nguồn từ sự chối từ phiền toái kiếp phù sinh. Và, câu chuyện sau đó vẫn còn … dài.
Cá nhân tôi, tôi thích truyện Từ Thức của VN hơn.
http://tinhhoa.net/41594-luu-nguyen-nhap-thien-thai.html
http://www.maxreading.com/sach-hay/truyen-ky-man-luc/chuong-9-chuyen-tu-thuc-lay-vo-tien-22224.html
Thiên thai là Lên cõi tiên, nơi không còn đói khát, nơi hết khổ đau, nơi chỉ có hạnh phúc. Luyến ái cũng là hạnh phúc. Và con người chỉ có thể “vô tư” luyến ái nếu không khổ đau, nếu không phải chạy gạo hàng ngày, hay phải đăng ký Phường xin phép… Vui vầy với tiên nữ, là hình ảnh hoán dụ Thiên Thai của xa xưa, còn ý nghĩa hết còn là bể khổ, thì vẫn vậy.
Chúng ta không nợ Văn Cao trong cõi thực nhưng yêu mến và tôn trọng giấc mộng Thiên Thai của Văn Cao ở cõi mơ. Giấc mộng vẫn xa tầm tay dân Việt.(TV)
Thiên Thai chỉ là mộng ước hạnh phúc luyến ái của nam nữ
Truyện Thiên Thai trong văn học cổ điển của Trung Quốc (Thần Tiên Truyện). Trong thi ca TQ, có 5 bài Thiên Thai Ngũ Tuyệt của nhà thơ Tào Đường coi như tuyệt tác về điển tích này.
Chuyện của 2 gã đàn ông Lưu Thần Nguyễn Triệu lạc lối Đào Nguyên, rồi ngộ Tiên Nữ. Họ vui thú ái ân, nghe nhạc, xem múa, ngắm cảnh đẹp và uống rượu ngon. Suốt ngày. Chỉ có thế. Nói chung là ước mơ hạnh phúc lứa đôi trong cảnh sung túc hoan lạc tâm không vướng bận hồng trần.
Tiên tử động trung hữu hoài Lưu Nguyễn
Bất tương thanh sắt lý Nghê thường
Trần mộng na tri hạc mộng trường
Động lý hữu thiên xuân tịch tịch
Nhân gian vô lộ nguyệt mang mang
Ngọc sa dao thảo liên khê bích
Lưu thuỷ đào hoa mãn giản hương
Hiểu lộ phong đăng linh lạc tận
Thử sinh vô xứ vấn Lưu lang
(Trích, Thiên Thai ngũ tuyệt, Tào Đường)
Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm
Một lạch đào nguyên suối chửa thông
(Thiếu Nữ Ngủ Trưa, Hồ Xuân Hương)
Đào Nguyên là chuyện “Thiên Thai” của TQ. Còn Bồng Đảo (Bồng Lai, Phù Lai) là chuyện “Từ Thức” của VN. Cũng là hạnh phúc dành cho luyến ái.
Thiên Thai! Ánh trăng xanh mơ tan thành suối trần gian
Ái ân thiên tiên em ngờ phút mê cuồng có một lần
(Lời ca khúc Thiên Thai, Văn Cao)
Riêng ca khúc của Văn Cao, nó đã đẩy hạnh phúc này đến chỗ cực điểm. Toàn bài hát đều như thế.
Thiên Thai chốn đây hoa xuân chưa gặp bướm trần gian
Có một mùa đào dòng ngày tháng chưa tàn qua một lần
Thiên Tiên chúng em xin dâng hai chàng trái đào thơm
Khúc nghê thường này đều cùng múa vui bầy tiên theo đàn
(Lời ca khúc Thiên Thai, Văn Cao)
Chào anh Hoàng Xuân Sơn,
Với riêng cá nhân, nghệ nhân là người của nghệ thuật, không trong ý niệm thông thường là người làm đồ gốm. Nhưng làm gốm, cũng là một nghệ thuật, vì sao chúng ta xem thấp? Nghệ sĩ, ngược lại, trong tiếng Việt hàng ngày mang nghĩa péjoratif nhiều hơn. Nghệ sĩ, trong nhãn quan Việt, là người sống phóng túng, ít ngăn nắp, bầy bừa, không lo đến ngày mai, có đồng nào tiêu hết đồng ấy, bê tha… Giống như từ Hiện sinh từng bị hiểu là sống phóng đãng… Hoặc từ “Văn sĩ”, ít nhiều là xem thường, nếu cần trang trọng người Việt viết “Nhà văn” mà không viết “văn sĩ”.
Người xưa phân chia Art majeur và Art mineur, nhưng ranh giới mơ hồ. Hemingway lập ra tiêu chí: Art majeur là những gì vĩnh cửu, như hội họa hay văn chương; còn Art mineur sẽ mất đi khi tác giả qua đời, như thuật đấu bò, la tauromachie, là nghệ thuật “múa” với bò mộng của một tay matador kỳ vĩ, sẽ biến mất khi hắn gục ngã hoặc chết già. Nghệ nhân làm đồ gốm cũng vậy? Không, bình gốm quý ấy sẽ còn mãi, và nếu thật sự đạt đến nghệ thuật thì bình gốm này là Nghệ thuật. Nghệ nhân là người làm nghệ thuật.
Trao đổi với anh Sơn mà nhớ chiều đẫm mưa với rượu cognac ở hàng hiên nhà anh Khánh Trường với Mai Thảo và Hoàng Xuân Giang.
Có lẽ nên trả lại danh tánh “nghệ sĩ ” cho Văn Cao. Ông là một nghệ sĩ đích thực và đa dạng trong các lãnh vực thơ, nhạc, họa. . .
“Nghệ nhân” chỉ là người làm thủ công, tỉ mỉ; cao cấp hơn “thợ “mà thôi!
Một góp ý.
HXS