Trang chính » Bàn Tròn, Biên Khảo, Nghiên Cứu, Ngôn ngữ Email bài này

Các hình thức ẩn dụ (phần 2)

thinking-outside-the-bento-box_thumb.jpg

  

 

thinking-outside-the-bento-box

Thinking Outside the Box (Cách Suy Nghĩ Vượt Hộp) là thành ngữ  trong tiếng Anh
và cũng là một ẩn dụ về tinh thần sáng tạo.

 

 Các hình thức ẩn dụ tổng quát

 Ngoài các hình thức ẩn dụ được những nhà nghiên cứu về ẩn dụ đề ra trên đây, ta còn tìm thấy sự phân loại các ẩn dụ một cách tổng quát dựa trên cấu trúc, tính cách, nội dung của những sáng tác của các nhà văn, nhà thơ, nhà chính luận…[i] 

· Ẩn dụ đơn giản (simple metaphor)

Là ẩn dụ qua đó ý nghĩa từ chủ đề phụ chuyển cho chủ đề chính có tính cách phổ thông, tương đối đơn giản, không đòi hỏi nhiều nỗ lực từ người nghe nếu muốn hiểu.

Niềm vui đã trở lại với nàng (nàng vui vẻ)

Cô ta ăn nói độc mồm độc miệng (lời nói ác)

Hắn nổi nóng (nổi giận)

Ẩn dụ đơn giản còn được gọi là ẩn dụ chặt (tight metaphor)

· Ẩn dụ chìm (submerged metaphor)

Khác với ẩn dụ đơn giản, trong ẩn dụ chìm, phải trải qua một hoặc hai bước liên tưởng mới có thể hiểu được ẩn dụ.

Tiền không mọc trên cây

“Mọc trên cây” làm liên tưởng đến “lá” hay “cành”; lá hay cành phát triển tự nhiên, dễ dàng, không tốn nhiều công sức. Ý nghĩa chính: kiếm tiền không dễ dàng.

· Ẩn dụ khuyết (dormant metaphor)

Là ẩn dụ trong đó, liên hệ giữa chủ đề chính và chủ đề phụ không rõ ràng. Nó có thể được hình thành khi một câu chưa hoàn chỉnh hay bị giản lược.

Tôi bị lạc lối trong suy tưởng.

Nàng đánh rớt tình yêu.

Ẩn dụ khuyết ít gây ấn tượng, vì nó không đưa ra một hình ảnh toàn diện. Y như thể nó còn ngái ngủ (dormant).

· Ẩn dụ hoạt động (active metaphor), còn gọi là ẩn dụ tươi sống (vive metaphor)

Là ẩn dụ chưa hề được dùng bao giờ trước đó. Có thể xem đó là ẩn dụ mới, một sáng tạo của nhà văn hay nhà thơ. Ẩn dụ mới là cách dùng chữ mới mẻ để truyền đạt một ý mới mẻ, có khi là hoàn toàn mới mẻ, thường được sử dụng trong thơ hay trong những bài diễn văn hùng biện nhằm kích thích cảm quan của người nghe. Thường thường là từ ngữ và ý nghĩa của nó không dễ dàng hiểu ngay, đòi hỏi người nghe phải suy nghĩ về cách dùng và ý định của tác giả. Những ẩn dụ mới thường kén chọn độc giả, vì đòi hỏi trí tưởng tượng, sự thấu hiểu về thơ và kiến thức. Nếu khéo chọn chữ và hình ảnh, ẩn dụ sống sẽ là dấu hiệu của tài năng; nếu không khéo chọn, nó sẽ trờ thành một lối nói hoa mỹ dở dang. Ẩn dụ này còn được gọi là ẩn dụ sống (live metaphor)

Mỗi tiếng hát như một lát dao băm vào vết đau khổ trong lòng mình (Chinh Ba)

Hơi thở thơm ngát

Anh dốc ngược đời mình (Cao Thoại Châu)

Mà lòng mình phơi trên kè đá (Thanh Tâm Tuyền)

Lời nhạc Trịnh Công Sơn là một kho ẩn dụ hoàn toàn mới mẻ vào thời điểm mà chúng xuất hiện. Nó mới mẻ và sống động đến nỗi cho đến bây giờ, năm mưoi năm sau, một số trong chúng vẫn còn mới mẻ, vẫn gây ra một cảm giác thích thú y như khi chúng mới xuất hiện lần đầu. Chúng vẫn còn là những ẩn dụ sống;

– Đôi khi trên mái tình ta nghe những giọt mưa, tình réo tình…sầu réo sầu…; Môi nào hãy còn thơm, cho ta phơi cuộc tình; Treo tình trên chiếc đinh không. Vân vân

Tuy nhiên, thật ra, khó mà nói một ẩn dụ là tươi mới hay không, vì ngôn ngữ phát triển hàng ngày. Cái ta tưởng là ẩn dụ mới, độc sáng, có thể đã có ai đó dùng rồi, đâu nó, mà ta không có dịp tiếp cận. Đó là ngày trong phạm vi nhỏ của một nền văn hóa như ở Việt Nam. Còn rộng ra trên thế giới và từ cổ chí kim thì thật khó mà kiểm chứng tính mới mẻ và sáng tạo của một ẩn dụ. Tuy nhiên, trừ trường hợp đạo văn, đạo thơ, mới vẫn là mới. Ẩn dụ tươi sống luôn luôn là dấu hiệu của tài năng.

· Ẩn dụ ẩn tàng (implicit metaphor)

Là loại ẩn dụ ta không tìm thấy ngay ý nghĩa của nó trong một câu hay một đoạn văn, thơ. Những ẩn dụ này đòi hỏi phải đặt trong ngữ cảnh của bài văn, bài thơ hay trong khung cảnh của một sự kiện, một giai đoạn lịch sử, một biến cố nào đó.

Ta nhặt từng trang sách rách toang
đứa ngu đã xé vứt ra đường
ta gom từng hạt cây luân lạc
mong mỏi gầy lên một địa đàng
(
Tô Thùy Yên, “Mùa hạn”)

Ta chỉ có thể hiểu ẩn dụ bao hàm trong đoạn thơ nếu đặt trong ngữ cảnh của bài thơ Mùa Hạn, đồng thời chứng kiến cảnh những người Cộng Sản thi hành chính sách gọi là “bài trừ văn hóa đồi trụy” (đốt sách) sau biến cố tháng 4/1975 ở miền Nam.

· Ẩn dụ phức hợp (complex metaphor)

Xảy ra khi một ẩn dụ đơn là cái nền cho một ẩn dụ thứ hai. Ví dụ: “ánh sáng ném đến” (throwing light). Ở đây ánh sáng là ẩn dụ để chỉ kiến thức. Thay vì nói “Ánh sáng soi chiếu” (shining light) thì lại dùng “ném” (throwing). “Ném” là ẩn dụ thêm vào dựa trên ẩn dụ thứ nhất là “soi chiếu.”

· Ẩn dụ ghép (compound metaphor)

Ẩn dụ gồm có nhiều thành tố ẩn dụ kế tục nhau, mỗi một thành tố có thể được dùng để tạo thêm nghĩa mới, nhất là khi được tăng cường thêm bởi những trạng từ hay tính từ.

Là cô liêu chói chang
Tinh âm buốt hết nàng
Nằm chết xanh tuyệt đối
Một trời thơ đỏ ối
Ta khóc rống ly tan
Mưa trong veo hồn đàn 
(
Nguyễn Lương Vỵ, trong “Tinh âm”)

Trong đoạn thơ trên, tác giả tạo ra những ẩn dụ riêng biệt nhưng kết nối vào nhau. Có thể nói trong lúc “ẩn dụ phức hợp” gồm những ẩn dụ kế tiếp nhau, cái này tạo điều kiện cho cái kia thì ẩn dụ ghép là một cú ra đòn liên tiếp, ẩn dụ này chồng lên ẩn dụ kia, tạo ra một ấn tượng dịch chuyển đột ngột. Những cụm từ như “chói chang”, “buốt”, “chết xanh”, “đỏ ối”, “khóc rống” vừa có tính cách tính từ lại vừa có tính cách trạng từ tăng cường tối đa sức mạnh của ẩn dụ.

Loại ẩn dụ còn được gọi là ẩn dụ lỏng (lẻo) (loose metaphor).

· Ẩn dụ mở rộng (extended metaphor)

Là ẩn dụ khi chủ đề chính được tăng cường với những chủ đề phụ và các ẩn dụ bổ sung khác.

Tay chới với bên đời
Khi xác thân là điểm tựa
Anh chọn hoài một phút xa anh
để thấy anh còn đó
đong đưa đời mình trên chiếc dây đu
ôi tấm thảm oan khiên giăng chờ anh phía dưới
liều lĩnh nào cũng chỉ dẫn nỗi sầu qua 
(Hà Nguyên Thạch)

Khác hẳn với loại “ẩn dụ ghép” trên kia, qua đó, ta không tìm thấy một chủ đề nào rõ rệt, đoạn thơ trên được triển khai bằng những ẩn dụ bổ sung lẫn nhau, đề cập đến một chủ đề chính: tính chất mong manh của đời sống trong thời nhiễu nhương.

· Ẩn dụ gượng (mixed metaphor)

Cũng có thể gọi là “hỗn dụ”, là loại ẩn dụ trong đó các yếu tố tạo thành ẩn dụ không gắn kết với nhau hoặc nếu có gắn kết thì cũng rất gượng gạo, nên không làm nổi bật chủ đề chính. Có thể nói ẩn dụ gượng là loại ẩn dụ được sử dụng bởi những tay mơ, sính dùng cách nói hoa hòe, nhưng sáo rỗng.

The waves of emotion have punctured my heart. (Những đợt sóng xúc cảm đã đâm thủng trái tim tôi)

Ẩn dụ thương có tính cách đụng độ ngữ nghĩa, nhưng không phải bất cứ một đụng độ ngữ nghĩa nào cũng tạo nên ẩn dụ thực sự có giá trị. Câu phát ngôn trên là một cấu trúc ẩn dụ. Ví von các đợt sóng với cơn xúc động thì nghe hợp lý, nhưng xem đợt sóng như con dao/một vật nhọn để “đâm thủng” trái tim thì rõ là quá gượng gạo.

· Ẩn dụ tuyệt đối (absolute metaphor)

Một ẩn dụ tuyệt đối là ẩn dụ tuyệt đối không có một mối liên hệ nào giữa chủ đề và ẩn dụ, không có một sự tương tự nào, dù xa hay gần giữa chủ đề chính và chủ đề phụ. Ẩn dụ tuyệt đối còn được gọi là siêu dụ (pataphor) hay phản dụ (antimetaphor). Đó là một hình thức ẩn dụ tối đa, chạm đến giới hạn, nơi ẩn dụ chính không được nêu ra, chỉ có những ẩn dụ mở rộng được sử dụng mà không cần quy chiếu:

He put brakes on his fear, accelerated his anger and rammed into the house.

(Hắn hãm (phanh) nỗi sợ, nhấn ga (tăng tốc) sự giận dỗi và đâm sầm vào căn nhà)

Ẩn dụ nói chung là mang đến những ấn tượng mới mẻ, nhưng trong hình thức cực đoan của nó, siêu dụ mang lại những điều cực mới đến chừng như vô nghĩa và bí hiểm. Siêu dụ lần đầu tiên được diễn tả bởi tác giả Pablo Lopez, dựa trên khái niệm về một thứ “khoa học” gọi là “pataphysics” do Alfred Jarry (1873–1907) đề ra.[ii]

Trong văn học Việt Nam, có thể xem lời của hai bản nhạc “Vết lăn trầm” và “Dấu chân địa đàng” của Trịnh Công Sơn là một loại siêu dụ.

Vết lăn vết lăn trầm
Hằn trên phiến đá nâu thêm ưu phiền
Như có lần chim muông hằn dấu chân
Người đi phiêu du từ đó chưa thấy về quê nhà
Rộng đôi cánh tay chờ mong
Người chợt nhớ mình như đá, đá lăn vết lăn trầm
(“Vết lăn trầm”)

Ngựa buông vó người đi chùng chân đã bao lần
Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng
Vùng u tối loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng
Một đời bỏ ngỏ đêm hồng
Ngoài trời còn dâng nước lên mắt em.
(“Dấu chân địa đàng”)

Đây là một cấu trúc chữ khác thường, dùng ngôn ngữ để phá ngôn ngữ. Lời ca dường như không chuyển tải một ý nghĩa nào, hay nếu có, là một ý nghĩa cực kỳ mơ hồ. Những ẩn dụ như thế chứa đựng trong lời ca này hoàn toàn tách rời khỏi hiện thực. Ý nghĩa của nó, nếu có, nằm ngay trong cấu trúc ngôn ngữ. Có thể nói ý nghĩa của nó được tìm thấy trong sự vô nghĩa. [iii]

· Ẩn dụ gốc (Root metaphor)

Là ẩn dụ ăn sâu trong một ngôn ngữ hay một nền văn hóa, trở thành một quan niệm sống hay là một cách hành xử bình thường trong một nền văn hóa nào đó. Thời gian là tiền bạc: ví von thời gian với đồng tiền là quan niệm chủ đạo của con người sống trong một xã hội công nghiệp (khác với cách ví von: thời gian là bóng câu qua cửa sổ); Con trâu là đầu cơ nghiệp: xem sức kéo là điều kiện đầu tiên để làm giàu trong một xứ nông nghiệp; Cuộc đời là một giấc mộng: một cách nhìn bi quan về cuộc sống của người Á đông.

Ẩn dụ gốc thường gắn liền với một nền văn hóa nào đó, trong một giai đoạn nào đó mà không tìm thấy ở những nền văn hóa khác ở một giai đoạn khác.

· Ẩn dụ ý niệm (Conceptual metaphor)

Là loại ẩn dụ không bày tỏ một cảm xúc cá nhân về một hoàn cảnh đặc thù, mà chứa đựng một ý niệm triết lý nào đó. Ở đây, ẩn dụ được dùng như một cách nhìn thế sự và cuộc nhân sinh.

có lẽ huyền thoại
đã bỏ chúng mình lại
giữa thân xác rách đôi
để nhắc nhở sự thật sau cùng
là chưa từng có
biển           hay              mặt trời
chỉ có
vết thương kinh niên của nước
nỗi vô vọng mù lòa của lửa
cũng như chưa từng có
em   hoặc   tôi
chẳng qua
là hai bàn tay
quờ quạng suốt đời trong quên lãng
thế thôi 
(Chân Phương)

Ngôn ngữ nhẹ nhàng, mềm mại như một áng thơ tình, nhưng lại ẩn chứa một cảm thức siêu hình: ý niệm về sự chênh vênh của con người và/trong vũ trụ.

Cũng cần phân biệt: ẩn dụ ý niệm ở đây khác với quan niệm cho rằng “ẩn dụ là ý niệm” của Lakoff. Ẩn dụ ý niệm, sau khi Lakoff and Johnson công bố tác phẩm “Metaphors We Live By” thành lập nên trường phái “Ngữ học nhận thức” (cognitive linguistics), không phải là một hình thức ẩn dụ, mà là một quan điểm về ẩn dụ. Theo quan điểm này, ẩn dụ có tính ý niệm ngay trong bản chất. Nghĩa là, không phải chỉ có một số ẩn dụ nào đó thuộc về hình thức ý niệm, mà tất cả những ẩn dụ đều là ý niệm. Lakoff và Johnson dùng chữ “ẩn dụ” để chỉ những đồ chiếu ý niệm (conceptional mappings) bởi vì chúng là cái duy nhất chịu trách nhiệm về hiện tượng được gọi một cách truyền thống là ẩn dụ. Chính ý niệm nằm đàng sau ngôn ngữ và khiến cho ngôn ngữ tạo ra ẩn dụ. [iv] 

· Ẩn dụ chết (dead metaphor)

Những ẩn dụ do được sử dụng quá nhiều, lập đi lập lại qua thời gian, dần dà mất hết đi tính cách tươi tắn, sáng tạo và trở thành một ý tưởng hay hình ảnh thông thường. Ví dụ: dòng đời, lãng phí thời gian, ngập đầu trong công việc, mở mang trí tuệ, chiếm đoạt tình yêu, con tim rung động, hại sức khỏe (hút thuốc có hại cho sức khỏe), xâm phạm tiết hạnh, hỏi thăm sức khỏe (sở thuế vụ đã đến hỏi thăm sức khỏe anh ta), Sở Khanh (hắn ta nổi tiếng là một tay sở khanh), vân vân.

Nhiều nhà ngữ học không chấp nhận cái gọi là ẩn dụ chết, vì ẩn dụ là ẩn dụ, không chết và cũng không sống. Người ta xem đó như là hiện tượng của một ẩn dụ đã trở thành quy ước, hòa tan trong ngôn ngữ hàng ngày, nhưng bản chất vẫn là ẩn dụ. Do đó, ẩn dụ chết không hề là một loại hình riêng biệt của ẩn dụ, mà chỉ là một quan niệm về ẩn dụ. Ẩn dụ chết, thực ra, là ẩn dụ từ vựng (lexical metaphors), nghĩa là ẩn dụ đã biến thành từ vựng, ghi lại trong tự điển, trở thành cách dùng phổ biến trong một cộng đồng bản ngữ. Mặt khác, một ẩn dụ có thể là “chết” ở một nơi này, đối với người này, vào thời điểm này nhưng vẫn là “sống” ở một nơi khác, với một người khác hay tại một thời điểm khác.

·  Ẩn dụ mòn (dying metaphor)

Hạn từ này xuất hiện lần đầu tiên trong bài tiểu luận Politics and the English Language của George Orwell [v]. Đó là thứ thứ ẩn dụ đã được sử dụng quá nhiều đến nỗi nó không còn hiệu lực như một ẩn dụ và xem như ẩn dụ chết, nhưng nó vẫn có thể được dùng trở lại với tính cách sống động của nó.

Có thể lấy ví dụ từ một đoạn thơ của Tô Thùy Yên để hiểu rõ hình thức ẩn dụ này:

Ta về như lá rơi về cội
Bếp lửa nhân quần ấm tối nay
Chút rượu hồng đây xin rưới xuống
Giải oan cho cuộc biển dâu này
 
(Tô Thùy Yên)

Đoạn thơ hầu như sử dụng lại những ẩn dụ khá cũ càng (lá rơi về cội, bếp lửa nhân quần, rượu hồng, cuộc biển dâu), nhưng do cấu trúc mới mẻ, nên tất cả như được hồi sinh và hồi sinh dưới một hình thức mới.

Với cách hiểu này, ta nhận thấy rằng ẩn dụ tự nó không mòn(và cũng không chết/ẩn dụ chết). Cái mòn, cái chết là do cách sử dụng. Ví dụ:

Anh ơi, đừng vội bóp nát trái tim em, đừng gian dối tình em nghe anh.

Câu hát chứa đầy ẩn dụ, nhưng nghe sáo rỗng, màu mè và chẳng ẩn dụ tí nào!

· Giả tá (catachresis)[vi]

Giả tá được định nghĩa như là “cách dùng không đúng cách của một từ” (improper use of a word), nghĩa là dùng chữ để diễn tả một điều không có nghĩa trong ngôn ngữ đương dùng. Thông thường nhất, người ta dùng một bộ phần nào đó của cơ thể (đầu, chân, tay, miệng, cổ…) để nói về các phần của sự vật. Ví dụ như: chân bàn (leg of a table), đầu kim (head of a pin), chân núi (foot of a mountain), chân trời, miệng chén… Ngoài ra, người ta còn dùng sự vật này để nói về sự vật khác: cạnh đáy (một tam giác), cửa sông (phần con sông tiếp giáp với biển/nơi nước sông bắt đầu đổ ra biển). Theo Fontanier, “catachresis” cũng là một loại chuyển nghĩa (tức là dụ pháp) nhưng là chuyển nghĩa ép (forcé). Lý do là vì ở đây, không có sự chọn lựa một từ nghĩa bóng thay cho một từ nghĩa đen, do đó, không phải là ẩn dụ. Chính vì thế, hình thức giả tá, nếu được xử dụng như những ví dụ về ẩn dụ, lại không cho ta cảm giác như đó là ẩn dụ.

Max Black xem giả tá là cách dùng một chữ trong một nghĩa mới nhằm bù vào sự thiếu hụt trong từ vựng, nghĩa là nhằm lấp đầy cái được gọi là “khoảng trống ngữ nghĩa” (lacune sémantique).

Thực ra, ta có thể dùng hình thức ẩn dụ số 4, ví dụ c trong cách phân loại ẩn dụ của Aristotle để giải thích các ví dụ về hình thức giả tá nêu trên. Xin nêu trở lại cách mà Umberto Eco áp dụng hình thức ẩn dụ số 4 đưa ra trong phần đầu tiên của bài viết này để giải thích cách hình thành “giả tá”:

– Chân núi: ví cái chân đối với con người tương tự phần phía dưới (chưa có tên) của hòn núi.

– Miệng giếng: ví cái miệng đối với con người tương tự như phần phía trên (chưa có tên) của cái giếng.

– Cửa sông (biển): ví cái cửa đối với ngôi nhà tương tự như phần phía cuối sông (chưa có tên) nơi nước đổ ra biển.

– Cạnh đáy: ví đáy của một cái chai tương tự như cạnh nằm ngang phía dưới (chưa có tên) của một tam giác.

Hiểu như thế, thì giả tá là một hình thức ẩn dụ như mọi ẩn dụ bình thường khác: mái tình, phiến buồn….

 

· Ẩn dụ điển tích (allusion)

Điển tích hay điển cố có nghĩa là chuyện hay sự kiện được chép trong kinh sách cũ. Ở đây tôi tạm dùng chữ điển tích với nghĩa rộng hơn để dịch chữ allusion là một loại ẩn dụ qua đó, những nhân vật, nơi chốn, các sự kiện xảy ra, có thật trong đời sống hay hư cấu trong tác phẩm văn chương, nghệ thuật được sử dụng như là yếu tố làm ẩn dụ. Ngô Tự Lập, trong bài “Điển tích và sự mở rộng khái niệm điển tích [vii] còn đi xa hơn: “Khi nói đến điển tích, ta thường nghĩ đến một câu chuyện hay sự kiện, nhưng thực ra mỗi thành ngữ cũng là một điển tích. Đằng sau những thành ngữ như “ba chân bốn cẳng”, “con ông cháu cha”, hay “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”… rất có thể đã từng có một câu chuyện nay đã thất truyền, nhưng ngay cả những thành ngữ như “mắt ốc nhồi”, “đồ mặt mo”…cũng dẫn chiếu đến một ký ức chung, cái gọi là “nghĩa” của thành ngữ.

Truyện Kiều hay Cung Oán Ngâm Khúc, chẳng hạn, chứa đựng rất nhiều ẩn dụ điển tích. Và ngược lại, những nhân vật trong Kiều như Sở Khanh hay Tú Bà…hay những nhân vật trong “Chí Phèo” của Nam Cao như Chí Phèo, Thị Nở cũng được sử dụng làm ẩn dụ điển tích trong văn chương về sau. Tựa đề câu chuyện hay một câu nói của nhân vật trong truyện, có khi cũng trở thành ẩn dụ điển tích: Biết rồi, khổ lắm nói mãi, anh phải sống, chuyện thường ngày ở huyện… Gần đây nhất, những biến cố chính trị hay sự kiện xã hội cũng là những ẩn dụ điển tích: Arab spring [viii], cách mạng hoa lài.

Ví dụ: Với bộ máy kềm kẹp của nhà nước Cộng Sản, Arab Spring (hay cách mạng hoa lài) không dễ dàng diễn ra ở Trung Quốc.


Chú thích:

[i] Tham khảo ở trang mạng “Changingminds,” http://changingminds.org/techniques/language/metaphor/metaphor.htm

[ii] Xem ở http://en.wikipedia.org/wiki/%27Pataphysics.

[iii] Thực ra, đối với tác giả, cái tưởng là vô nghĩa (trên văn bản) bao giờ cũng đầy ý nghĩa. Xin đọc một trích đoạn đề cập đến bài hát “Dấu chân địa đàng” sau đây: “Hình ảnh “dạ lan” được nhắc tới trong ca khúc “Dấu chân địa đàng”: “Nửa đêm đó lời ca dạ lan như ngại ngùng”. Ca khúc này còn có tên là “Tiếng hát dạ lan”. Nhà Dao Anh (cách nhà Trịnh Công Sơn một cây cầu là cầu Phú Cam) trồng nhiều hoa dạ lan và loài hoa này không chỉ thơm ngát trong vườn nhà Dao Ánh mà còn lừng hương trong nhạc Trịnh và trong nhiều bức thư tình tha thiết, da diết của Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh: “Dạ lan giờ này chắc đã ngạt ngào cả một vùng tối đó rồi, đã cài lên từng sợi tóc của Ánh” (thư Blao, 31.12.1964), “Anh ao ước bây giờ mở cửa ra bỗng dưng có chiếc cầu bắc qua dòng sông và anh bước qua cầu rồi rẽ về phía tay phải đi đến căn nhà có mùi thơm dạ lan và đứng đó gọi tên Ánh thật thầm để chỉ vừa đủ Ánh nghe” (thư Blao, 26.9.1965).

Cũng trong ca khúc “Dấu chân địa đàng”, bên cạnh hình ảnh “dạ lan” là hình ảnh “loài sâu” được nhắc đi nhắc lại với nhiều trạng thái như ngủ: “Mùa xanh lá loài sâu ngủ quên trong tóc chiều”, ca hát: “Vùng u tối loài sâu hát lên khúc ca cuối cùng”, giải thoát ưu phiền: “Rồi từ đó loài sâu nửa đêm quên đi ưu phiền”. Loài sâu này chính là một phiên bản khác của phận người, ôm chứa những buồn vui của nhân sinh, điều này càng được thấy rõ hơn trong những bức thư của Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh: “Ngôn ngữ đã mất đi với những ngày nằm co như một loài – sâu – chiếu ở Blao” (thư Đà Lạt, 19.9.1964), “Ở đây cũng có loài sâu đất reo đêm” (thư Đà Lạt, 19.9.1964), “Đêm sáng mờ bên ngoài. Sâu đất reo rất trong ở bãi cỏ” (thư Blao, 23.10.1964), “Đêm đã lạnh và đã buồn. Cây cỏ lao xao. Anh chỉ còn nghe rõ tiếng sâu đất và tiếng dế reo… ” (thư Blao, 29.12.1964), “Đêm rất dày đen. Sâu đất của núi rừng cũng đã reo lên âm thanh rất nhọn” (thư Blao, 23.9.1965), http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c247/n8824/Thu-tinh-gui-mot-nguoi-cuon-sach-giai-ma-ca-tu-va-soi-chieu-con-nguoi-Trinh-Cong-Son.html

[iv] Lakoff, More Than Cool Reason, ” (University of Chicago Press, 1989) tr. 138. Quan điểm này sẽ được trình bày chi tiết ở bài “Ẩn dụ và ý niệm.”

[v] A newly invented metaphor assists thought by evoking a visual image, while on the other hand a metaphor which is technically “dead” (e.g., iron resolution) has in effect reverted to being an ordinary word and can generally be used without loss of vividness. But in between these two classes there is a huge dump of worn-out metaphors which have lost all evocative power and are merely used because they save people the trouble of inventing phrases for themselves, https://www.mtholyoke.edu/acad/intrel/orwell46.htm.

[vi] Theo “Từ điển Pháp-Việt” của Đào Duy Anh (mượn tạm).

[vii] Ngô Tự Lập, Điển tích và sự mở rộng khái niệm điển tích.

[viii] Còn được gọi là Arab Revolution (Cách mạng Á Rập) hay cách mạng hoa lài: chỉ những làn sóng nổi dậy cách mạng của nhân dân diễn ra trong các nước Á Rập (Tunisia, Ai Cập, Lybia) bắt đầu từ ngày 18/10/2012 tại Tunisia, nơi hoa lài tượng trưng cho đất nước này.

bài đã đăng của Trần Hữu Thục

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

3 Bình luận

  • Có thể dùng kỹ thuật văn chương của phương Tây cho phương Đông không? Tui nghĩ là có thể. Và cả khó có thể.
    Ngôn ngữ văn chương của mỗi quốc gia khác nhau. Khác ít hoặc khác nhiều. Nhưng vẫn khác. 2 nước Hoa và Việt rất gần nhau. Vẫn khác. Huống gì là giữa Tây và Việt.

    Ai cũng biết, tiếng Việt thuộc loại đơn tự. Thanh âm lên bổng xuống trầm bất chợt vô chừng. Những 6 thanh sắc. Đó có lẽ là một nét đặc thù dễ nhận ra nhất. Dĩ nhiên, nét đặc thù đó khi đi vào thi văn thì không thể bỏ qua hoặc làm ngơ được.

    Về các vật thể và hình ảnh dùng mượn để tạo ẩn dụ, cũng vậy. Tui cho là vẫn có sự ít nhiều khác nhau giữa Việt Nam và nước khác.
    Con rồng chẳng hạn, người Âu Châu cho là biểu tượng của hung hản và tàn ác trong khi với VN thì chạm đến một ý nghĩa cộng thông khá linh thiêng.

    Sống ở Mỹ, tui rất ngạc nhiên khi xem phim hoặc tranh, ngay cả trong văn chương, các con vật như chim cú và quạ đen hiện diện rất đẹp và rất dễ thương. Khác hoàn toàn với sự suy nghĩ phổ thông trong dân chúng VN về 2 loài chim này. Có lẽ một phần vì quạ và cú có ngoại hình xấu xí(?). Người Việt Nam hay mượn hình ảnh các con vật như thỏ trắng, bồ câu, vàng anh,… khi cần diễn tả sự đẹp và ngoan hiền.

    Phải nói là người Tây phương giỏi trong thuật biện luận và phân tích. Kho ẩn dụ mà họ nghiên cứu thật mênh mông. Công tâm mà nói, không ít trong đó là tri thức có tính chung cho thế giới. Tuy vậy, không thể là tất cả. Cho từng quốc gia. Người viết, dĩ nhiên họ cần sự sàng lọc cân nhắc khi dùng.

    Phụ nữ VN mặc áo dài (truyền thống) + tay áo xẻ raglan (hiện đại) + đôi giày cao gót (tân kỳ) => rất đẹp.
    Nhưng, chỉ cần thay đôi giày cao gót bằng đôi giày Nike là hỏng bét = Xấu

    Chim cú, biểu tượng của wisdom
    http://www.whats-your-sign.com/animal-symbolism-owl.html
    Bò, biểu tượng của patience
    http://www.whats-your-sign.com/cow-animal-symbolism.html

2 Pingbacks »

@2006-2023 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)