
Exodus.Mildred Borras, USA. Acrylic on canvas 12X12in
VỀ VĂN HỌC HẢI NGOẠI
- Theo anh/chị, có phải biến cố 30/4/1975 là nguyên nhân phát sinh ra Văn Học Hải Ngoại? Nếu có thể, mong anh/chị nêu lên vài đặc tính của Văn Học Hải Ngoại.
- Trước biến cố 30/4/1975, ở một vài diễn đàn văn học Việt hải ngoại đã có tác phẩm của các Việt kiều trong số 150.000 người sống tản mác nhiều nơi trên thế giới. Chỉ sau cuộc đại di tản giữa thập niên 70 và ròng rã từ thời điểm ấy cho đến nửa thế kỷ sau – với 6 triệu người tan tác tha hương – Văn Học Hải Ngoại mới thật sự “thăng hoa” về số lượng và chất lượng, đề tài và hình ảnh, màu sắc và mùi vị… y như một cuốn phim tài liệu nhiều tập ghi lại cuộc đào thoát của những con người nháo nhào tìm cách băng qua đại dương, đương đầu với ngoại cảnh và tâm cảnh, đơn giản chỉ để được sống.
- Tiếc là văn học hải ngoại thế kỷ 21, chùm bong bóng ngất ngưởng rực rỡ màu sắc một thời, đang dần teo tóp vì thiếu khí hê-li; người viết ngày càng cao niên và độc giả cũng dần lão hóa. Nhiều báo mạng ra đời thay cho báo giấy, nhưng điều này không ngăn được quy luật tre già một đàng măng mọc một nẻo. Gen Z đang bận bung xung với mạng xã hội và có mục đích sống đa dạng; họ không còn nhu cầu đọc, vì đọc là một hành trình đơn độc, kém đông vui. Họ cũng không thấy mình có trách nhiệm gì với quá khứ của ông bà cha mẹ họ.
- Lấy tiêu chuẩn nào để xác định một tác giả hay một tác phẩm là thuộc về Văn Học Hải Ngoại? Địa lý (trong/ngoài nước)? Chính trị (quốc gia/cộng sản/bất đồng chính kiến)? Ngôn ngữ? Nơi xuất bản? Hay điều gì khác?
- Tất cả. Cũng có trường hợp ngồi viết trong nước rồi e dè gửi đăng ở các báo hải ngoại vì tác phẩm không được cấp phép xuất bản do có nội dung sai lệch so với chủ trương của nhà nước; ngồi viết ngoài nước xong kín đáo gửi về VN để in chui vì dễ dàng và giá thấp, lại có cơ hội giúi vào tay thân bằng quyến thuộc mà không qua kiểm duyệt. Từ một góc nhìn chủ quan, có vẻ như các yếu tố địa lý, xã hội và chính trị khiến người ta tình ngay nhưng lý gian; e rằng hiện tượng này lâu ngày chầy tháng có nguy cơ trở thành bản chất.
- Mong anh/chị cho nhận xét về sự khác biệt giữa Văn Học Miền Nam 1954-1975 và Văn Học Việt Nam Hải Ngoại.
- Bàng hoàng sau 54 là những nhà văn nhà thơ phải bỏ miền Bắc để di cư vào Nam; sững sờ sau 75 cũng chính những tác giả đó phải rời bỏ miền Nam – nơi họ đã từng sống tự do và viết phóng khoáng suốt 30 năm nội chiến – để lưu vong thêm một lần nữa.
- Sống ở miền Nam họ đã viết về phố phường Hà Nội, về mùa màng, về kỷ niệm tuổi nhỏ, vẽ nên hình ảnh nên thơ về một miền Bắc mà dân miền Nam chưa có dịp biết đến; họ đồng thời góp thêm màu sắc cho văn học miền Nam dạo ấy hãy còn đơn sơ chơn chất, kém phát triển, bình bình, được chăng hay chớ…[…] thức ăn tinh thần là những câu hò vọng cổ, những chuyện tình không lối thoát, giản đơn về bố cục, tiết tấu không ra khỏi lũy tre làng… (Hồ Biểu Chánh, Bà Tùng Long, Lê Xuyên, Dương Hà…). [https://t-van.net/le-mai-linh-mot-goc-nhin-50-nam-van-hoc-mien-nam-luu-vong/]. Theo Lê Mai Lĩnh, 20/07/1954 làm nên cuộc di cư lớn nhất trong lịch sử, mang phù sa văn học từ xứ sở ngàn năm văn hiến, Hà Nội, vào Nam, để từ đó hình thành một thủ đô văn chương mới, một vương quốc trí tuệ chữ nghĩa miền Nam. Khi họ xa lìa quê hương, Hà Nội và Sài Gòn bị đẩy lùi thật sâu vào hốc ký ức để nhường chỗ cho những kinh nghiệm đau thương từ những chuyển động mới, cùng với những người đồng hội đồng thuyền theo nghĩa đen, không còn phân biệt Nam-Bắc, họ viết về di tản thay vì di cư.
- Theo quan sát của anh/chị, có sự giao thoa nào giữa Văn Học Hải Ngoại và văn học trong nước không, và sự giao thoa đó diễn ra như thế nào?
- Người trong nước tìm đọc văn hải ngoại vì tò mò muốn biết họ sống và viết ra sao; người ngoài nước tìm đọc văn nội địa vì tò mò muốn biết họ viết ra sao mà vẫn sống. Sự giao thoa nằm ở bộ phận canh gác tường lửa và trạm kiểm soát hải quan.
VỀ HÀNH TRÌNH VIẾT
- Khi bắt đầu viết ở hải ngoại, động lực nào thôi thúc anh/chị tiếp tục theo đuổi con đường văn chương trong bối cảnh xa xứ?
- Đối với nhiều người, viết là một nhu cầu, một hành trình liên tục. Họ đã viết trước đó và không thể không tiếp tục theo đuổi con đường văn chương, bất chấp ngoại cảnh hay điều kiện sống.
- Một số khác chỉ mới bắt đầu viết – thậm chí ngay từ trong trại tỵ nạn – do thôi thúc mãnh liệt từ kinh nghiệm sống lạ lẫm và khắc nghiệt tất yếu của quá trình hội nhập và những đau thương họ đã bỏ lại sau lưng.
- Số còn lại, oái oăm là họ không thể sáng tác nữa dù đã sống và viết hơn nửa đời người trước đó – có thể vì bận sinh kế, vì muốn hoàn toàn dứt bỏ quá khứ, vì thiếu chất xúc tác quen thuộc, vì đã bão hòa sau những năm đói kém, tù đày, nhục nhã. Có điều chắc chắc họ vẫn theo dõi nhịp thở văn học Việt qua các sân chơi phong phú như Đất Mới (1975), Trắng Đen (1976), Hồn Việt (1977), Văn Học Nghệ Thuật (1978), từ những tạp chí định kỳ tiếp nối các bước chân đi trước, như Trăm Con, Thế Kỷ 21, Đối Thoại, Văn, Hợp Lưu, và gần đây, trên không gian mạng phi lãnh thổ, phi ranh giới địa lý.
- Văn Học Hải Ngoại đã ảnh hưởng như thế nào đến phong cách và tư tưởng trong sáng tác/phê bình của anh/chị khi mới bắt đầu viết/ hoặc so với thời kỳ anh/chị viết ở Việt Nam?
- Để trả lời câu hỏi này, xin gửi kèm phần Post Scriptum (2025) của bài viết Điều Tra Viên Văn Hoá Và Kẻ Viết Chui được viết tại Sài Gòn năm 2008, đăng trên Hợp Lưu số tháng Một năm 2009.
- Có những nhà văn hay tác phẩm nào đã là nguồn cảm hứng đặc biệt cho anh/chị trong quá trình sáng tác tại hải ngoại không?
- Cái thú lang thang công viên, bạ đâu ngồi đấy để đọc sách mượn từ thư viện hải ngoại một cách dễ ợt và không tốn tiền, khiến bất cứ người viết nào cũng có cơ hội tìm hiểu về các cây bút đương thời hoặc lỗi thời trên thế giới; điều này giúp họ vỡ lẽ về nhiều thứ nơi bản thân và quá trình sáng tác của chính họ.
- Trong các tác phẩm của mình, anh/chị thường khai phá những chủ đề nào liên quan đến đời sống người Việt ở hải ngoại? Có tác phẩm nào anh/chị tâm đắc nhất không?
- Không Có Cửa, Lọt Xuống Tầng Hầm, Mùa Hè Không Đi, Mười Phút Đỏ, Pianissimo, Phần Mềm, Ngọ Khúc, Người Đàn Bà Ngồi, Kẻ Đào Tẩu, Dặm Trường, AIRomir, 9m2, Telecom, Mãn Dục, Đỏ Tía, Đường Vòng, Phục Chế Ảnh Cũ, 218, Phim Độc Lập Kinh Phí Thấp, Chuyện Tình Archilles… là những câu chuyện về đời sống người Việt ở hải ngoại. Đó là những người Việt Nam không vui. Nếu không tâm đắc, người viết hẳn đã không bắn phá lung tung chỉ để chia sẻ, bởi bất cứ ai – dù viết hay không viết – cũng muốn thủ thỉ này kia kia nọ với một ai đó, thay vì đứng một mình la khan ngoài sa mạc, không thôi thì lao người xuống từ tầng thứ năm trăm theo hành trình thẳng đứng như nhân vật trong tác phẩm của Dino Buzzati.
bài đã đăng của Trần Thị NgH