Trang chính » Diễn từ, Giới thiệu tác giả, Giới thiệu tác phẩm, Nghiên Cứu, Nhận Định Email bài này

Đọc Kiều của Trương Vĩnh Ký, nghĩ về ngôn ngữ Việt & một vài khía cạnh biến đổi ngữ âm, ngữ nghĩa trong tiếng Việt (kỳ 3)

Truyen-Kieu-bang-chu-Nom_thumb.jpg

 

Truyen Kieu bang chu Nom
Bản chữ Nôm của Truyện Kiều tại bảo tàng Nguyễn Du, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh, Việt Nam

 

Xin được trở lại với những đoạn giới thiệu truyện Kiều của Trương Vĩnh Ký.

++ Trong đoạn đầu, “Đời Gia tĩnh nhà Minh, có họ Vương làm quan viên ngoại, sinh được ba đứa con, con út trai là Vương quan, con đầu lòng hai đứa gáiTúy kiều vuối Túy vân, hai gã nhan sắc đẹp đẽ xinh tốt quá chừng, lại thêm học hành thông minh, lịch sự đủ đều, cầm, kì, thi, họa chẳng thua ai. (…)”, ta thấy TVK gọi Kiều và Vân là “hai gã”. Chúng ta chắc cảm thấy lạ. Nhưng, trong chữ Nôm, chữ 妸, với bộ “nữ”, được dùng để phiên âm cho cả hai chữ “ả” (“cô ả”) và “gã”. Nó có dị thể là 婀. Câu 15 của Truyện Kiều: “Đầu lòng hai ả tố nga”, có bản chữ Nôm viết là “ 頭弄𠄩 婀素娥”. Chữ “ả”, ở đây, viết theo lối dị thể, 婀. Còn bản phiên âm của Nguyễn Quảng Tuân viết là 𢚸 𠄩妸素娥 , tức theo lối bình thường, 妸 . Câu 805, “Chẳng là gã Mã Giám Sinh”, theo phiên âm cũng của Nguyễn Quảng Tuân, viết là: “拯罗妸馬監生” Ta thấy, chữ “gã”, 妸 , được viết giống như chữ “ả”.

Như vậy là, ngày xưa, trong tiếng Nôm, “gã” có thể được dùng để chỉ cả nữ và nam. Sau này, “gã” mới được dùng để chỉ một người đàn ông nào đó với ý coi thường. Có lẽ cũng giống như từ “mỹ nhân”. Đầu tiên, nó được dùng để chỉ một người đẹp, dù là nữ hay nam; sau này, nó mới được dùng để chỉ riêng cho phái nữ. Để chỉ định rõ hơn, người ta dùng từ “mỹ nữ” cho nữ giới và “mỹ nam” cho nam giới. Cũng thế, từ “thanh niên”, lúc đầu chỉ có nghĩa gốc là “tuổi xanh”, chỉ chung những người tuổi trẻ, bất luận là nam hay nữ. Sau này, nó mới có khuynh hướng được dùng để chỉ riêng cho phái nam. Và, cũng để phân biệt, có những chỗ người ta dùng rõ ràng là “thanh nam” và “thanh nữ” để xác định.

Trong tiếng Anh cũng vậy. Xưa, người ta dùng man”, “men để chỉ chung con người. Trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Hoa Kỳ (Declaration of Independence), Thomas Jefferson viết là: ““We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness” (“Chúng tôi khẳng định một chân lý hiển nhiên rằng mọi người sinh ra đều bình đẳng, rằng Tạo Hoá đã ban cho họ những Quyền tất yếu và bất khả xâm phạm, trong đó có quyền được Sống, quyền được Tự Do và mưu cầu Hạnh Phúc”). Không phải khi viết “all men are created equal”, Jefferson (và các tổ phụ đầu tiên của nước Mỹ) chỉ nói đến nam giới mà bỏ qua nữ giới. Không, họ bao gồm tất cả những con người trong cuộc sống. “Man” hay “men” chỉ là một lối dùng ngày xưa để chỉ con người. Bây giờ, tiếng Mỹ phân biệt rõ hơn. Ta có man (men) woman (women). Nhưng ngày xưa khác. Trong cụm động từ/động ngữ “to man something” trong tiếng Mỹ, “man” ở đây là một transitive verb, một tha động từ (còn gọi là “ngoại động từ”), đòi hỏi một túc từ trực tiếp theo sau. Nó có nghĩa là “to work at a place or be in charge of a place or a machine; to supply people to work somewhere” (“làm ở một nơi nào hay có trách nhiệm tại một một nơi/một chỗ nào đó, hay giữ việc điều hành một cái máy; hoặc đưa người đến làm việc ở đâu đó”), như trong “We need someone to man the switchboard”, hoặc “Soldiers manned barricades around the city”, hoặc “The telephones are manned 24 hours a day by volunteers.”

Hiện tại, người Mỹ vẫn còn dùng cụm động từ này, cho dù điều ấy làm một số người có sự “nhậy cảm” về ngôn ngữ không vui lắm. Thay vào đó, như thế, những người này sẽ dùng những động từ khác như operate, activate, actuate, staff, crew, v.v… Người Mỹ còn có một cụm động từ (phrasal verb) khác có chữ “man” là “man up”, có nghĩa là “to start being brave or strong in order to deal with a difficult situation” (bắt đầu trở nên can đảm hay mạnh mẽ để đối phó với một tình huống khó khăn). Chẳng hạn như: “He should man up and tell his boss what he really thinks” , hay “Lina actually melts if she tries to man up against them”, hay “Today, though, she couldn’t decide whether she wanted to pretend the kiss hadn’t happened and go about business as usual, or if she should man up, seek him out and have the conversation so they could acknowledge it and move on.”, hay “Sarah Palin needs to ‘man up’ if she’s going to run” (tựa đề một bài báo của tờ The Washington Post).

Với tiếng Pháp, “homme/hommes”, giống như “man/men” của tiếng Anh, trong nghĩa gốc của nó, cũng để chỉ chung con người. Tác phẩm nổi tiếng của Antoine de Saint-Exupéry là “Terre des Hommes” được Bùi Giáng dịch là “Cõi Người Ta”, và được Nguyễn Thành Long dịch là “Xứ Con Người” (cả hai bản dịch đều tuyệt vời), chứ không phải dịch là “Trái Đất của Đàn Ông” (!!!). Còn phim “From Here to Eternity” (“Từ đây đến thiên thu”, 1953, 8 giải Oscar, với Burt Lancaster, Montgomery Clift, Deborah Kerr, Frank Sinatra và Donna Reed), một tập hợp những bi kịch con người (a collection of human dramas), diễn ra tại một căn cứ quân sự của Mỹ ở Hawaii trong bối cảnh dẫn đến cuộc chiến ở Pearl Harbor, có bản tiếng Pháp với nhan đề “Tant qu’il y aura des hommes”. Tên phim ấy được một vị dịch tựa phim ở Việt Nam chuyển khá hay và gọn thành “Thói Đời”, diễn được một ý nghĩa của phim (mặc dù dịch như thế có vẻ phản ánh mặt tiêu cực của câu truyện nhiều hơn). Còn nếu muốn dịch cho sát và đủ nghĩa hơn thì, có lẽ, người ta nên hiểu nó là, chẳng hạn, “Chừng nào còn con người”, “Chừng nào còn nhân loại”, chứ không nên hiểu là “Chừng nào còn đàn ông” (bởi lẽ những khía cạnh bất công, buồn đau, cay đắng, sự nỗ lực vươn lên, sự lừa dối, lòng thuỷ chung, sự phản bội, lòng hãnh diện, tình yêu thương, sự hèn hạ, tinh thần mã thượng, tình bằng hữu, v.v., là những biểu hiện, những “đường nét” của con người nói chung, ở trong phim cũng như ở ngoài đời, cho cả nam lẫn nữ).

Trở lại với cách viết “An Nam ròng” của cụ Trương Vĩnh Ký. Vậy thì “gã” có thể được chỉ cho cả trai và gái, cả nam và nữ. Từ cách gọi này, ta cũng có thể để ý đến các từ như hắn, cậu, va, y, v.v… Hiện nay, người Huế vẫn dùng chữ “hắn” để nói về một người nữ. Còn con gái Bắc, trong những câu chuyện thân tình, vẫn có thể gọi nhau là “cậu”. Chữ “va” (một từ thuần Nôm) ta sẽ nói ở dưới. Chữ “y”, một từ Hán, có nghĩa là “ấy, người ấy” (Hán-Việt TĐ, Đào Duy Anh), mang nét trung tính, gần như chữ “bỉ” (kia, người kia; “bỉ thử”: cái kia, cái này, hay người kia, người này). Đôi khi, ta thấy người ta dùng “y ta” để chỉ cho cả nam lẫn nữ. Nếu muốn kỹ, nhấn mạnh là nữ, người ta dùng “y thị”.

++ Bây giờ, ta nói về mấy chữ “va”, “chị va”. Ta hãy xem lại đoạn văn tóm tắt chuyện của Trương Vĩnh Ký:

“Cách ít bữa tới ngày ăn lễ sanh nhựt ông ngoại Túy kiều, cả hai ông bà và hai em Túy kiều đều đi, để chị va ở nhà coi nhà. Chị ta ở nhà một mình thong thả, đeo đồ vào đánh áo đánh quần, đóng cửa, ra phía sau, tuốt qua nhà Kim trọng. Leo qua gặp Kim trọng dắc vào nhà, ở đó trò chuyện, làm thơ, làm phú, đánh đờn đánh địch, thề nguyền với nhau cho một ngày một đêm; khuya lại Kim trọng muốn xáp việc, mà va không cho…” (Chú ý: Tôi giữ nguyên phần chính tả và lối viết xưa của TVK)

Từ (6) “va”, trong Việt Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Của, định nghĩa là “người ấy, nó” (ngoài nghĩa là “đụng vào”); và “chàng va” là “chàng ta, gã ấy, người ấy”, “chú va” là “chú ta, chú nghỉ”, “nhà va” là “nhà ta, nhà gã, gã ấy”, và “chị va” là “chị ta, chị ấy”. Như thế, vào thời Trương Vĩnh Ký và Huình Tịnh Của, từ “va” được dùng chung, trung tính, và là một đại danh từ ngôi thứ ba, số ít. Khi xác định rõ hơn, như trong “chị va” mà TVK đã dùng thay đổi với “chị ta” ở đoạn trích văn trên, nó xác định rõ cho phái nữ. Nhưng “va” không thì có thể dùng chung cho cả hai phái.

++Về từ “lịch sự” mà TVK dùng để chỉ hai chị em Kiều và Vân, ĐNQATV giải thích “Lịch” là chữ Hán, có nghĩa “trải qua, tầng trải”; còn “lịch sự” là “trải việc, đẹp đẻ (sic), xinh tốt”. Từ này hiện nay chúng ta sử dụng, dù vẫn còn mang dấu vết, ý nghĩa cũ, nhưng cách dùng và sắc thái của từ phần nào đã khác đi. Chúng ta không dùng từ “lịch sự” để khen một người con gái xinh đẹp, tươi thắm nữa. Giờ đây, tiếng Việt có nhiều từ khác. Nhất là đối với giới trẻ.

++Trong câu “[K]huya lại Kim trọng muốn xáp việc, va không cho…”, thì “va” ở đây chỉ Thuý Kiều. Kiều đã nghiêm nghị mà từ chối thái độ, hay lời “đề nghị khiếm nhã” (“Indecent Proposal”, tên một cuốn phim nổi tiếng của Mỹ đầu thập niên ’90, với Robert Redford và Demi Moore) của chàng Kim.

“Xáp việc”. Chữ nghĩa đến là hay! Có phải là động ngữ này được dùng để viết tắt cho nguyên cụm “xáp (đến mà làm) việc” ? Mà “làm việc” gì?

++Trong đoạn từ câu 497 đến câu 504: Hoa hương càng tỏ thức hồng, Đầu mày cuối mặt càng nồng tấm yêu. Sóng tình dường đã xiêu xiêu, Xem trong âu yếm có chìu lả lơi. Thưa rằng đừng lấy làm chơi, Giẽ cho thưa hết một lời đã nao. Vĩ chi một đoá yêu đào, Vườn hồng chi dám ngăn rào chim xanh. (Các dị bản của những từ in đứng: Chiều, Rẽ, Vẻ chi).

Đây chính là đoạn mà cụ Trương nhắc đến chuyện Kim Trọng muốn “xáp việc”. Nguyễn Du không xác định chủ từ của những đoạn thơ này, nhưng người đọc theo dõi mạch chuyện thì hiểu ngay. Nguyễn Lượng, trong một bản Kiều Nôm, nói về chuyện “lả lơi” này, đã bình: “Đăng hạ mỹ nhân, cầm thanh liêu loạn. Tình tự tương hà dĩ kham! Tình cảnh nhược hiện.” (Người đẹp dưới đèn, tiếng đàn khêu gợi. Sao cầm lòng cho được! Tình cảnh như hiện ra sống động.)

++Trương Vĩnh Ký chú “giẽ” là (hượm), khoan đã, thủng thẳng. Còn dị bản “rẽ” cũng có thể nói là “rỉ”, có nghĩa, là “xin”, “hãy”. “Rẽ cho” có nghĩa là “xin cho”, “hãy cho”, nói một cách dịu dàng. Trong cụm “Giẽ cho”/”Rẽ cho”, ta thấy có sự biến âm gi > r (chuyển từ bl- , như trong blải > giải/rải, trải (tổ hợp phụ âm đầu này (bl-) được ghi nhận trong Từ điển Việt-Bồ-La của Alexandre de Rhodes). Một bản Kiều khác chú thích “Rẽ cho”: rẽ ra cho, xê ra cho. Có bậc thức giả cho rằng cả truyện Kiều xây dựng và đứng vững trên một chữ “rẽ”. Giả sử lúc đó Kiều không nói được như thế, không giữ được thái độ nghiêm trang, và chiều theo ý Kim Trọng, thì đời Kiều đến đấy là xong. Nguyễn Du không còn xây dựng được gì thêm về tính cách và con người đáng quý của Kiều nữa. Vậy thì khi nói đến chuyện chàng Kim đòi “xáp việc” ở đây, ta phải nhớ đến cụm “Giẽ cho”/”Rẽ cho” của Kiều. Chính cụm từ này, cho thấy thái độ của Thuý Kiều, mới làm cho Kiều và Truyện Kiều sống mãi!

++Chữ “chìu”, trong “Xem trong âu yếm có chìu lả lơi”, biến âm /i/ > /iê/ của chữ “chiều”. Xin xem phân tích về sự biến âm này ở một đoạn dưới.

++Về từ “Vĩ chi” Theo Từ điển của Huình Tịnh Của, “vĩ chi” có nghĩa là “sá chi”, “quản chi”. Theo nhà ngôn ngữ học Nguyễn Tài Cẩn, thì cách nói “Vẻ chi” tuy đã cổ nhưng vẫn quen thuộc; trước kia nữa , nó có dạng “vĩ chi” (xem Huình Tịnh Của”.

++Trong câu “Lạ chi bỉ sắc tư phong, Trời xanh quen với má hồng đánh ghen” ( Dị bản: Lạ gì, thói), thành ngữ Bỉ sắc tư phong được TVK chú bằng cụm Kia rít ấy chời. Được cái kia ít, thì cái ấy nhiều, không cân nhau bao giờ. Thành ngữ này liên hệ đến thuyết “Tài Mệnh tương đố” trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. (Dù sao, có tác giả đã cho rằng Tố Như “đã dùng chữ “Nghiệp” của nhà Phật mà giải thích chữ “Mệnh” của Nho Giáo. (7)). VNQÂTV giải thích: “Chời” là có nhiều, dư ra (chính là chữ “đa” nói theo tiếng Triều Châu). “Chời tiền”: có nhiều tiền. Về chữ “rít”, ta được giải thích: Rít chịt, rít chằng, rít rịt: Rít quá, nhám nhúa; hà tiện quá. Suy ra: “rít” là ít; “chời” là nhiều. “Rít rịt”, sau, còn được nói là “ít rịt”. Cụm “bỉ sắc tư phong” đáng lẽ phải là “bỉ sắc thử phong”. Dùng “tư” thay cho “thử” để hợp bằng trắc. Từ thành ngữ “Phong vu tài nhi sắc vu ngộ”, nhiều tài năng thì ít gặp thời cơ. Từ “bỉ thử” cũng được dùng để chỉ sự so sánh bên này và bên kia, ta và người. Sau đó, nó được dùng như sự so sánh với ý xem thường người khác.

++Câu Nguyễn Du tả Thuý Vân: Vân xem trang trọng tót vời, Khuôn lưng đầy đặn nét người nở nang (So với các dị bản: Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang.)

Trương Vĩnh Ký phiên âm là “ khuôn lưng” và “nét người”. Các bản Kiều khác phiên là “khuôn trăng” và “nét ngài”. Đây là vấn đề phiên âm, và là một đề tài đã được bàn cãi rất nhiều từ nhiều góc cạnh. Tôi sẽ không trình bày lại ở đây. Chỉ ghi nhận rằng hai chữ lưngtrăng đều phát xuất từ chữ Nôm 𦝄. Có vị giải thích là nếu đọc là “lưng”  thì phải biết bộ 月nằm phía trái là bộ nhục (thịt). Còn nếu đọc là trăng thì bộ 月nằm phía trái lại là bộ nguyệt (trăng). Tuỳ theo ngữ cảnh mà người đọc phải biết đó là “lưng” hay “trăng”. Nhưng câu thơ này chính là vấn đề, vì đọc cách nào cũng có cái lý của nó. Trong tìm hiểu của mình, tôi thấy Từ điển Trần Văn Kiệm ghi 𦝄 là trăng [cữ, giăng, lưng, răng], có nghĩa là mặt trăng, đi với bộ Nhục 宍, còn có dị thể là 肉. Còn trăng đi với bộ “nguyệt” 月 sẽ viết khác. Là 𣎞. Như thế, theo Từ điển Trần Văn Kiệm, ta có thể suy ra là 𦝄 có thể đọc cả hai cách. Là “trăng” hay là “lưng”. Và vấn đề, như thế, vẫn dậm chân tại chỗ, vì nó cho thấy chuyện ấy tuỳ vào người phiên âm muốn nhìn chữ 𦝄 như thế nào. Nó chứa bộ “nhục”, và đều có thể đọc là “lưng” hay là “trăng”.

Còn hai chữ “ngài” và “người” cũng được viết với những bộ khác nhau. Chữ “Ngài” 𧍋 viết với bộ “trùng” 虫 liên hệ đến “nga mi” (蛾眉) , nghĩa là râu của con ngài, chỉ lông mày của người con gái đẹp, có nét cong vút và dài như râu con ngài. Chữ “ngài” này, dầu sao, cũng có những trường hợp dùng để chỉ cả lông mày đàn ông. Cụ thể là lông mày của Từ Hải, được xem là “ngoạ tàm mi” 臥蠶眉, nghĩa là lông mày giống hình như con sâu tằm ngủ, cũng được xem là một loại lông mày đẹp. Còn chữ “Người” 𠊚 viết với bộ “nhân đứng” 亻/人 chỉ người. Trong các bản Kiều Nôm thì ngoại trừ bản Kinh đời Tự Đức 1870 viết là “nét người”, các bản còn lại viết là “nét ngài”. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng “người” và “ngài” là hai chữ có thể thay đổi cho nhau, để chỉ người, vì chữ “ngài” là cách phát âm cổ của chữ “người” [biến âm a > ươ, như trong nhà tràng > nhà trường; “nhà Thang > nhà Thương (bên Tàu); lên đàng > lên đường (“Nào anh em ta cùng nhau xông pha lên đàng / Kiếm nguồn tươi sáng…- “Lên Đàng”, bài hát của Huỳnh Văn Tiếng & Lưu Hữu Phước”); nàng > < nường (“Chiều ơi! Mái nhà sàn thở khói âm u / Cô nường/nàng về để suối tương tư, ới chiều… – “Nương Chiều” của Phạm Duy”); v.v. ]. Từ điển Hán-Việt của Trần Văn Kiệm ghi: 𠊚 Người [ngài], bộ nhân, là “người ta”. Như vậy, “người” còn có thể được đọc là “ngài”. Và, trong ngữ cảnh nói về Thuý Vân, đó là vấn đề. Nguyễn Du tả thân hình nàng Vân hay khuôn mặt của nàng?

Phiên âm như của cụ Trương (chắc hẳn theo bản Kiều Nôm đời Tự Đức) là nhắm đến việc miêu tả vóc dáng, thân hình của Thuý Vân. Còn phiên âm theo các bản Kiều khác là chỉ nhắm đến khuôn mặt của Vân. Nhạc sĩ Phạm Duy, khi phổ thơ Kiều, có lẽ thích “khuôn mặt” hơn “khuôn lưng”, và thích “nét người” hơn là “nét ngài” của nàng Vân, nên đã chọn trung dung là “Khuôn trăng đầy đặn, nét người nở nang”. Quan niệm thẩm mỹ của thời Nguyễn Du, và của chính cụ Tiên Điền, về nét đẹp của người phụ nữ không chắc có giống như chúng ta ngày nay. Nàng Mona Lisa trong bức tranh cùng tên (hoặc mang tên La Gioconda, hay La Joconde) của Leonardo da Vinci trong thời Phục Hưng Ý biểu hiện cho một nét thẩm mỹ về phụ nữ khác với những gì con người cho là đẹp thời hiện đại. Vậy thì “Lưng” hay “trăng”, và “người” hay “ngài”? Có lẽ ta phải để lửng câu hỏi đó ở đây.

++Câu“Gương thu thuỷ, vít xuân sơn”. Trương Vĩnh Ký giải thích câu này là từ thành ngữ “Nhãn hoành thu thuỷ, mi tợ viễn sơn”: Con mắt trong như nước mùa thu, chang-mày như hình núi coi xa. “Chang mày” là “lông mày”. Trong câu này có cụm “vít xuân sơn”. Từ điển cho biết: Vít tích = dấu tích (từ “Đại Nam Quấc Âm Tự Vị” của Huình Tịnh Của). Vậy, “vít” bây giờ là “vết”, “dấu”, “nét”. Biến âm i > ê. Các dị bản khác phiên thành ““Làn thu thuỷ, nét xuân sơn”. Trong Kiều của TVK, ta cũng có câu “Vít giày từng bước in rêu rành rành”. Vậy “Vít giày” là “Dấu/Vết giày”.

 ++Câu “Dập dều tài tử giai nhơn” (dị bản: Dập dìu) có biến âm ngược lại: ê > i. Còn biến âm â > ơ thì ta thấy thường xuyên trong phương ngữ Nam bộ, như “nhân” > “nhơn”, “chân” (cẳng) > “chơn” (cẳng), “chân” (thật) > “chơn” (thật). Nhưng (mấy) “lần” thì thường được chuyển thành (mấy) “bận”, chứ không phải * (mấy) “lờn”. Gần gũi với biến âm này, còn có uy > ơ, như trong “đi quyền” > “đi quờn”, hoặc ă > ơ, như trong “căn cớ”/”căn cứ” > “cơn cớ”. Đặc biệt, người miền Nam có thể nói và viết “nhơn dân”, chứ ít khi viết là “nhơn dơn”, mặc dù điều này không phải không có.

++Câu “Cung thương làu bậc năm âm” (dị bản ghi “ngũ âm”). TVK giải thích năm âm là cung, thương, giác, trỉ, (dị bản: cung, thương, giốc, chuỷ, vũ ). Biến âm qua lại tr > < ch, từ trỉ sang chuỷ, do tr > ch, từ Hán sang Nôm: (trĩ 豸 > chạy 𧼋), hoặc do ch > tr ( chư 諸 > trưa 𣌆). Trong chữ Quốc ngữ, ta cũng có cặp trệch > < chệch. Biến âm a > ô, từ giác sang giốc (nguyên âm giữa thành nguyên âm sau). Trong tiếng Việt, ta cũng thấy có biến âm o > u (nguyên âm sau, mở > nguyên âm sau, đóng), do khác biệt phương ngữ Đàng Trong và Đàng Ngoài, hoặc do sự kỵ huý: (họ) Võ > (họ) Vũ; hoặc oa > uy, như trong (họ) Hoàng > (họ) Huỳnh.

++Câu “Ym niềm (hay là iêm-liềm) trướng xủ màn che” (dị bản: Êm đềm trướng rủ màn che). Ở đây, ta có Y/iê > < ê (như trong điều > < đều / Trải qua một cuộc bể dâu, Những đều trông thấy đã đau-đớn lòng – TVK).

Về “ym niềm”, hay “iêm liềm” (so với “êm đềm”), trong đó có hai sự biến âm Y/iê > < ê và l > đ. Có thể đây chỉ đơn giản là cách phát âm thời đó, hoặc phần nào mang tính phương ngữ. Ta có thể so sánh, ở một mức độ nào đó, biến âm l > d, hay d > l, này giống như trong cách phát âm của khá nhiều người Hoa, đặc biệt đối với ⟨r⟩ (và, nhiều khi, cả với ⟨đ⟩ ). Âm “rờ” (và nhiều khi cả âm “đờ”) thường có khuynh hướng biến thành âm “lờ”: Họ nói “li chợ Tết”, thay vì “đi chợ Tết”; hay thay vì nói “fried rice” (cơm chiên”), lại nói thành “fly lice” (“con ruồi con rận”). Chỉ vì trong tiếng Hoa không có âm “rờ”.

Ta cũng nhận thấy có biến âm x, s > r ở đây, như trong sờ (soạng) > rờ (rẫm), sầu (đời) – rầu (đời), đưa đến trướng xủ = trướng rủ.

++Để giới thiệu các câu từ 39 đến 50, Trương Vĩnh Ký đề tiểu tựa: “Ba chị em đi ăn thanh minh”. Trong Truyện Kiều, ta được cho biết về dịp lễ này: “Lễ là tảo mộ, hội là đạp thanh”, người người đi viếng mộ ngay vào ban sớm, dẫm lướt trên cỏ xanh. Dù TVK giới thiệu là “Ba chị em đi ăn thanh minh”, ta không thấy Nguyễn Du tả chị em Kiều “ăn uống” gì. Chắc chắn là cũng phải “ăn uống” đôi chút, nhưng cụ Tiên Điền không để ý đến chuyện ấy.

Trương Vĩnh Ký trình bày câu truyện có lớp lang, từng cảnh, từng đoạn, dùng ngôn ngữ bình thường của xã hội, như của một người kể chuyện, dẫn chuyện, mục đích là để giới thiệu một câu truyện hay, qua đó, giúp cho người dân học tiếng, học chữ Quốc ngữ. Lời ăn, tiếng nói, cách đưa dẫn, như lối nói, lối kể truyện thân mật. Cách dùng chữ “ăn” này, đặc biệt, của người dân miền Nam, có thể phần nào phản ánh sự phong phú, màu mỡ của đất đai xứ Đàng Trong, và đời sống dư dật của người dân xứ này. Nhưng, nếu xét rộng ra, ngôn ngữ Việt có rất nhiều từ ngữ đi với chữ “ăn”, và những từ ngữ này có nguồn gốc và được sử dụng khắp đất nước, không chỉ riêng ở miền Nam. (Tác giả bài này, rất nhiều năm trước, cũng có dịp viết một khảo luận mang tên “Tết Nhất, nói chuyện Ăn”, 1983). Có người lại cho rằng điều này cho thấy người Việt bị “ám ảnh” bởi chuyện “ăn uống”. Ở đây, có lẽ cần phải có thêm những nghiên cứu sâu về mặt tâm lý và xã hội để xác định vấn đề.

++Các câu “Ngày xanh mòn mỏi má hồng phui pha” (dị bản: phôi pha), và (“Ông tơ ghét bỏ chi nhau?) Chưa vui sum-hiệp đã sầu chia-phui” (dị bản: chia phôi).

Ở đây, chúng ta có biến âm ui > ôi. Thay vì phát âm và viết là “tôi”, có những người miền Nam phát âm và viết là “tui”. Hoặc, từ “côi cút” viết theo lối cổ trong Nam là “cui cút”.

++Trong câu, “Kiều rằng những đứng tài hoa (Thác là thấy phách còn là tinh anh)” (dị bản: đấng), ta có biến âm ư > â.

Biến âm này có thể thấy được rõ hơn nữa trong những ngữ liệu sau:

“Khi ấy có mấy vị sư đương ngồi ở trai đường với nhau, bỗng thấy Trí Thâm ở đâu lập cập bước vào, mặt đỏ bầng bầng như nước tượng sơn son, thì ai nấy … “ (Truyện Thuỷ Hử, hồi 3). Có thể so sánh: đỏ bừng bừng / đỏ bầng bầng; nhà ba từng/ba tầng, v.v.

Một câu khác trong Kiều của TVK:Vưng lời khuyến giải thấp cao” (dị bản: vâng, khuyên). Ta cũng có nét biến âm ư > â. Cũng thế là hai câu 351 và 352: “Đã lòng quân tử đa mang. Một lời vưng tạc đá vàng thuỷ chung”. Hoặc: “Hiên sau treo sẵn cầm trăng, Vội vàng Sanh đã tay nưng ngang mày”. 

Một câu khác, kể về việc việc cha mẹ và hai em Kiều đi ăn mừng sinh nhật của Vương viên ngoại, để Kiều ở nhà một mình:

“Ngày vừa sanh-nhật ngoại gia, Trên hai đường, dưới nữa là hai em. Tâng-bầng sắm-sửa áo xiêm…” (dị bản: Tưng bừng). Ở đây, có biến âm ngược lại: â > ư .

Hoặc “Chén mầng xin đợi ngày nầy năm sau” (dị bản: mừng).

Từ những ngữ liệu trên, ta có thể thấy có sự biến âm qua lại ư > â và â > ư (ư > < â).

++Về cụm từ “thấy phách” trong câu “Thác là thấy phách còn là tinh anh”, có những bản Kiều ghi là “thể phách”. “Thể phách”, xét chung, là thân xác. “Phách” còn được gọi là “vía”. Theo niềm tin dân gian, sau khi con người chết, thân xác bị huỷ diệt, thì phách (vía) dần dần tan rã. “Hồn”, là cái tinh anh, sẽ còn lại. Về cách phiên âm của mình, trong phần chú thích, Trương Vĩnh Ký ghi thành ngữ Hán-Việt “Tử kiến tinh phách” và giải là “Thấy vía người mất”. Ta hiểu rằng từ “thấy” của ông có lý do của nó.

++Về chữ “Quấc”, trong câu “Người quấc sắc, kẻ thiên tài” (dị bản: quốc sắc). Ở đây, ta có â > ô, sau phụ âm đầu qu-, ký âm /kw/ ( giống như trong cách viết của Huình Tịnh Của: Đại Nam Quấc Âm Tự Vị).

Phụ âm “cờ” [k] có hai chữ cái trong tiếng Việt để ghi âm. Đó là /c/ và /k/. “C” có thể đi trước các nguyên âm/nhị trùng âm dòng giữa và dòng sau, như ⟨a⟩ (cá), ⟨ă⟩ (cắm sào), ⟨â⟩ (cấm đoán), ⟨ơ⟩ (lấy cớ), ⟨ư⟩ (căn cứ); ⟨u⟩ (con chim cu); ⟨ô⟩ (lồm cồm); ⟨o⟩ (nhảy lò cò); hay trước các nguyên âm đôi dòng giữa, như ⟨ưa~ươ⟩ (cứa, cười, sợi cước), hoặc ⟨ua~uô⟩ (con cua, cái đuôi, cái cuốc). Nhưng con chữ “c” không thể đứng trước các nguyên âm/nhị trùng âm dòng trước như ⟨i, y⟩, ⟨ê⟩, ⟨e⟩ và ⟨ia~iê⟩. Con chữ “k”, ngược lại, có thể đứng trước các nguyên âm dòng trước, dù nguyên âm đó là đóng ⟨i, y⟩ (sử ký/kí), nửa mở ⟨ê⟩ (kể chuyện), và mở ⟨e⟩ (xem ké). Nó cũng có thể đứng trước nguyên âm đôi dòng giữa ⟨ia~iê⟩ (đàng kia, con kiến).

Đối với âm “quờ”, qu, ký âm /kw/, có một số nhà ngôn ngữ quan niệm rằng, trên nguyên tắc, nó không thể đứng trước các nguyên âm đôi giữa, dòng sau, (hẹp, vừa), trong đó có ⟨ua~uô⟩. Không có *quua hay *quuô. Và như thế, sẽ không thể có “quốc” (như trong “tổ quốc”, “kiến quốc”, v.v…). Dù sao, “Qu” vẫn có thể đứng trước các nguyên âm hạt nhân như ⟨a⟩ (qua), ⟨ă⟩ (dao quắm), ⟨â⟩ (quấn quít), ⟨ơ⟩ (quơ tay), ⟨i,y⟩ (qui, quy), ⟨e⟩ (cái que), ⟨ê⟩ (nhà quê). Bởi thế, cách viết “Đại Nam Quấc Âm Tự Vị” của Paulus Huình Tịnh Của là hợp lý. Và, cũng thế, cách viết “Người quấc sắc, kẻ thiên tài” của Trương Vĩnh Ký cũng có cái lý như thế. Dù sao, từ “quốc” hiện nay đã được tiêu chuẩn hoá, để khu biệt nó với từ “cuốc”.

++Về hai từ “chim bao”/”chiêm bao”, trong lời dẫn của TVK: “Đạm Tiên hiện chim bao cho Tuý Kiều biết Tuý Kiều cũng mắc số đoạn trường.” Ta lại có biến âm i > iê , như trong câu “Xem trong âu yếm có chìu lả lơi”, và trong câu 348: “Chìu (/ chiều) xuân dễ khiến nét thu ngại ngùng.”

Tuy nhiên, về từ “chim bao”, trong Kiều của TVK, cũng có chỗ thấy ông viết là “chiêm bao”: (“Gió đâu trịch bức mành mành / sịch.) Tỉnh ra mới biết rằng mình chiêm bao”. Vậy là ông sử dụng cả hai từ, qua lại lẫn nhau.

Nhận xét: Biến âm tr > s (giữa “trịch” và “sịch”). Như trong (gà) trống / (gà) sống; và các từ mang tính phái sinh, chia sẻ về mặt ngữ nghĩa, như trượt / sượt, trụt / sụt, v.v.

++Trong hai câu “Nguồn đào lạc lối đâu mà đến đây? Thưa rằng: thinh-khí xưa nay”, ta có Thinh/Thanh khí (i > a và a > i). Đây là một biến âm ta thấy rất thường giữa “trong Nam” và “ngoài Bắc”.

Hai cặp chữ hay được thấy nhất là sanh/sinh và tánh/tính (nhưng người ta có thể nói tánh tình mà không thể nói *tánh tành. Cũng như hai nguyên âm giữa đóng ⟨ơ⟩ và nguyên âm giữa nửa mở ⟨â⟩, ở một số từ, có thể dùng thay đổi cho nhau, đặc biệt trong hai phương ngữ Nam và Bắc, như “nhơn dân” và “nhân dân” (hoặc “nhơn dơn”, như đã nói, mặc dù hiếm thấy).

Trở lại với biến âm i > a và a > i, ta để ý từ “Sanh” được dùng nhiều trong văn thơ Nôm cổ. Trong Kiều chẳng hạn: “Tan sương đã thấy bóng người. Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ. Sanh đà có ý đợi chờ. Cách tường lên tiếng xa đưa ướm lòng.”. Ở đây, ta biết “Sanh” là “Sinh”, từ dùng để chỉ một chàng trai có học, ở đây chỉ Kim Trọng. Sanh/Sinh, a > i . Ngoài ra, cũng có dạng biến âm ngược lại, i > a, như trong “thinh khí”/”thanh khí” đã nói ở trên. Như thế, trong các trường hợp khảo sát, ta có thể viết là i > < a .

Người ta nói và viết “thanh khí”, “học sinh” và “hy sinh” nhiều và thường hơn là “thinh khí”, “học sanh”, và “hy sanh”. “Thinh khí” mang một âm hưởng quá “cổ” và cũ. “Tiên sanh” và “môn sanh” cũng thế. Thậm chí, trong thời hiện đại, nếu dùng những từ “học sanh”, hay “hy sanh”, người ta cũng dễ có cảm giác “cổ”. Chưa kể là trong một vài trường hợp, nó còn được sử dụng phần nào có tính “đùa nghịch”. Như trong những câu hát của Ban AVT, trước 1975, ở miền Nam: “Báo đăng cô nữ học sanh. Cha mẹ nghiêm khắc cấm mình “phi-dê”. Giận đời vì thấy mình “quê”. Mua chai thuốc chuột đem về uống chơi…” . Hay trong câu “ca dao thời đại”: “Nếu không gọi chú bằng anh, Chắc là chú phải hy sanh cuộc đời”. Đời sống thì có thể có những đùa vui như vậy, nhưng, thật ra, ngôn ngữ là một quy ước, và nó cũng bắt nguồn từ tiếng nói, trong đó có tiếng nói của địa phương mà ta gọi là phương ngữ. Nó không có gì sai trong lời ăn tiếng nói của người dân. Về mặt chữ viết , đối với những từ, những âm cùng được chấp nhận là hợp chính tả/chánh tả, người ta có thể dùng thay đổi. Vấn đề là thói quen của từng thời kỳ, thời đại. Hay thói quen của vùng miền, thậm chí thói quen của từng người. Hoặc vì chính sách quy chuẩn hoá của chính phủ về mặt ghi âm, về cách viết trong các từ điển, sách vở.

(Còn tiếp)

_________________
Chú thích:

(6) Có khi tôi dùng chữ “va”, có khi tôi dùng từ “va”, vì, như một trong những viên gạch khái niệm xây dựng ngành ngôn ngữ học hiện đại, “từ” (word) là một đơn vị cao hơn cấp bậc “hình vị” (morpheme) (vốn có khi được gọi là “tiếng”, “tiếng một”, hay “chữ”, trong tiếng Việt). Một từ có thể là một chữ, như đầu, mắt, cười, nói, khinh, trọng, v.v., là những từ đơn; nhưng nó cũng có thể bao gồm nhiều chữ, nhiều hình vị, như trong trường hợp của từ kép, từ láy, chẳng hạn như thanh niên, tiềm thuỷ đĩnh, sạch sành sanh, lấp lánh, nhi nhô, v.v. Một thí dụ giản dị trong tiếng Anh: boy (một từ, một hình vị); boyish (boy+ish, một từ, hai hình vị); và boyishness (boy+ish+ness, một từ, ba hình vị).

Quan niệm của ngành ngôn ngữ học truyền thống của Âu châu cũng xem từ (word), chứ không phải “hình vị” (morpheme), là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ. Ngành ngôn ngữ học miêu tả (descriptive linguistics) của Mỹ, sau thời hoàng kim, đã bị phê bình vì xem hình vị là đơn vị cơ bản của ngôn ngữ. Vì làm như vậy khiến cho ranh giới giữa hình thái học và cú pháp học không còn nữa, là không chú ý đến sự khác biệt giữa cái bộ phận và cái toàn thể. Nhà ngôn ngữ V.Z. Panfilov cho rằng “Hiểu lời nói là một chuỗi liên tục của các chiết đoạn hình vị, hình vị là “vật liệu” để xây dựng nên phát ngôn, là làm sai lệch bức tranh chân thực của quá trình giao tiếp bằng lời nói. Làm như vậy là bỏ đi tất cả những gì liên quan đến từ với tư cách “vật chứa” các ý nghĩa sự vật mà qua đó hình thành nên hệ thống ý nghĩa ngôn ngữ-xã hội.”, và nhà ngôn ngữ V.M. Solncev đã chứng minh “từ là một đơn vị bắt buộc phải có của mọi ngôn ngữ, còn hình vị chỉ là một loại đơn vị bất thường, có khi chúng mất đi, có khi chúng lại xuất hiện ở trong lịch sử ngôn ngữ. Từ là một đơn vị vĩnh hằng, bao giờ nó cũng có mặt trong suốt quá trình tồn tại của ngôn ngữ.” (dẫn theo “Những khác biệt trong hệ thống ngữ pháp tiếng Việt của Nguyễn Tài Cẩn” của GS. TS. Nguyễn Thiện Giáp).

Tiếng trong tiếng Việt thường được hiểu là âm tiết, về phương diện là một đơn vị có nghĩa. Trên chữ viết, mỗi tiếng được ghi thành một chữ. Hình vị có hình thức cấu tạo của một âm tiết, tức là mỗi hình vị trùng với một âm tiết. Nó có vai trò như từ nhưng nó không phải là từ, vì từ có thể bao gồm một hay nhiều hình vị (một hay nhiều chữ). Âm tiết, hình vị và từ là đơn vị của ngôn ngữ. Tiếng là đơn vị của lời nói.

Như thế, “va” có thể là một chữ, hay là một từ (thuộc dạng từ đơn, một từ một chữ). Còn những từ như “thiếu nữ”, “so sánh”, “nhanh nhẹn” (một từ có hai chữ), hay “tất tần tật”, “sạch sành sanh” (một từ ba chữ), “hớt hơ hớt hải”, “lóng nga lóng ngóng” (một từ bốn chữ), v.v., thì tất cả đều được quan niệm là một từ chứ không phải một chữ. Còn các chữ cái như a, b, c, d, v.v., thì có khi được gọi là “chữ cái”, có khi được gọi là “con chữ”.

(7) Xem “Tư tưởng Tài Mệnh trong Truyện Kiều” của Thanh Tâm, https://thuvienhoasen.org/a8361/tu-tuong-tai-menh-trong-truyen-kieu

bài đã đăng của Bùi Vĩnh Phúc

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

2 Bình luận

  • BBT Da Màu says:

    Xin vui lòng xem bài trả lời của nhà văn Bùi Vĩnh Phúc cho phản hồi của Đinh Từ Bích Thúy tại link https://damau.org/archives/51839

  • Cám ơn nhà phê bình Bùi Vĩnh Phúc đã viết một bài nghiên cứu vô cùng linh động, mạch lạc, và công phu về cách đọc truyện Kiều của Trương Vĩnh Ký (TVK) và những biến đổi trong ngữ âm và ngữ nghĩa trong tiếng Việt từ thời của học giả TVK.

    Một trong những vấn đề nổi bật trong bài là cách dùng những đại từ liên hệ đến giới tính và giai cấp xã hội, như cách TVK gọi Thúy Kiều và Thúy Vân là “hai nhan sắc đẹp đẽ xinh tốt quá chừng.” Người đọc không rõ có phải cách dùng chữ không phân biệt gã/ả của TVK là do ngôn ngữ bình dân thường ngày, dựa trên sự cảm thông và thân tình trong mối bang giao, thường có sự bình đẳng hơn là trong ngôn ngữ và văn chương “chính thức” của giới trí thức hàn lâm, nơi mà những quan hệ chính trị và cấp bậc là điều luôn cần phải lưu tâm, vì ngôn ngữ trong môi trường này thường được áp dụng vào những mục đích “trọng đại” hơn là tình cảm?

    Trong thí dụ mà tác giả đề cập về bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Mỹ, thì câu “all men are created equal” đã được Thomas Jefferson, một luật sư, tu sửa từ bản trước của George Mason, chính khách Virginia–người đã trung thành áp dụng lý thuyết nhân quyền của triết gia John Locke:

    Tất cả mọi người đều được sinh ra bình đẳng trong tự do và độc lập và có những quyền tự nhiên cố hữu mà họ không thể, bởi bất kỳ cam kết nào, tước đi hoặc tách rời ra khỏi vận mệnh họ; trong đó là sự an hưởng đời sống và tự do, với các phương tiện mua và sở hữu tài sản, theo đuổi và đạt được hạnh phúc cùng sự an toàn. (bản dịch đtbt)

    (All men are born equally free and independent and have certain inherent natural rights of which they cannot, by any compact, deprive or divest their posterity; among which are the enjoyment of life and liberty, with the means of acquiring and possessing property, and pursuing and obtaining happiness and safety.)

    Câu “Tất cả mọi người đều được sinh ra bình đẳng trong tự do và độc lập” đã bị Jefferson tu sửa, xóa đi cụm từ “[trong] tự do và độc lập,” vì trong quá trình dành độc lập từ Anh quốc, ông muốn có được sự ủng hộ của giới trí thức thời bấy giờ, phần đông, bao gồm cả Jefferson, là địa chủ và giữ nhiều nô lệ (dĩ nhiên là không độc lập và tự do!) trong nhà. Do đó, “men” trong ngôn ngữ của thời Cách Mạng Hoa Kỳ, có chủ ý là không bao gồm nô lệ da đen. Câu văn bất hủ “All men are created equal” như vậy có thể hiểu trong một tinh thần rất lý tưởng, và cũng khá … mập mờ. Vì sự mập mờ của chữ “men” đã gây ra cảnh Nam Bắc tương tàn, nên vào ngày 6 tháng 12 năm 1865, tám tháng sau khi quân đội liên bang chiến thắng cuộc Nội Chiến Hoa Kỳ, Tu chính án thứ 13 của Hiến Pháp Hoa Kỳ được các tiểu bang phê chuẩn, chính thức kết thúc chế độ nô lệ trên toàn lãnh thổ nước Mỹ.

    Tương tự, khi Jefferson và những chính trị gia đàn ông xây dựng một chế độ mới cho mười ba tiểu bang đầu tiên của một quốc gia mới, họ cũng không/chưa thực sự bao gồm phụ nữ trong nghĩa của chữ “men.” Dưới nền luật pháp mới của Hoa Kỳ vào cuối thế kỷ 18, phụ nữ vẫn bị: (1) từ chối quyền sở hữu; (2) thiếu khả năng bỏ phiếu (cho đến khi Tu Chính Án 19 được chính thức phê chuẩn vào Hiến Pháp Mỹ vào năm 1920 mới được tham dự vào những sinh hoạt chính trị); và (3) không thể thực hiện hoặc tham gia vào bất cứ một hợp đồng pháp lý nào. Trong một nước Mỹ độc lập, phụ nữ vẫn bị coi là thuộc quyền của nam giới qua gần hai thế kỷ. Ngay cho đến ngày hôm nay, Tu chính án Quyền Bình Đẳng Phụ nữ (Equal Rights Amendment) vẫn chưa được thông qua, và các quyền liên hệ đến khía cạnh sinh lý/sinh sản (reproductive rights) của phụ nữ vẫn bị phe khuynh hữu và các giới chức tôn giáo đe dọa muốn giới hạn.

    Có lẽ trong bất cứ một ngôn ngữ nào, cũng có những “bất hòa” hoặc tensions giữa ngữ cảnh xã hội lịch sử và những lý tưởng bất diệt mà ngôn ngữ đó muốn truyền tải về sau. Những tu sửa, biến đổi của từng thời, biết đâu cũng chỉ là những dị biệt tương đối, khi ta chiêm nghiệm quá trình tiến hóa của ngôn ngữ như một đường dài vời vợi?

    Trân trọng,

    Đinh Từ Bích Thúy

@2006-2023 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)