Trang chính » Truyện ngắn Email bài này

TỐI VÀ SÁNG

*

Buổi tối trước khi tôi rời khỏi mảnh đất quê nhà tội nghiệp trong những ngày xưa cũ đó, tôi hãy còn một cái tên, Khiếm, như tất cả những ai chung quanh mình. Tôi đi như chạy qua khu chợ cũ kỹ, nhớp nhúa, có tên khá mỉa mai là Xóm Mới. Con đường đất trần trụi—không ai buồn tráng nhựa cho nó đã bao nhiêu năm nay—ban ngày là nơi họp chợ, hỗn độn, huyên náo, ban đêm trở thành trống trải, làm lộ ra những căn nhà tồi tàn vừa là cửa tiệm, vừa là chỗ chui ra chui vào của hàng ngàn người sống nhung nhúc trong đó. Ban đêm bây giờ chỉ còn có hai màu, phủ trùm lên tất cả là màu đen của một tấm lụa khổng lồ, dàn trải ngun ngút ba chiều, từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, đến khi nào tầm mắt không còn vươn tới được nữa. Màu thứ hai là sắc vàng vọt, bệnh hoạn của những ánh đèn dầu hay những ngọn lửa đèn cầy, leo lét, hiu hắt, chập chờn, từ những cánh cửa lớn, cửa nhỏ trong các căn nhà hắt ra, như những con mắt bệnh hoạn, buồn hiu.

Mảnh đất phủ bóng tối, điểm những ánh lửa vàng như thế đã tồn tại mấy mươi năm nay. Lâu đến nỗi những người lớn tuổi không còn nhớ ánh đèn điện ngày trước như thế nào nữa. Những người nắm vận mệnh của hàng chục triệu sinh linh trên mảnh đất này đã quyết định chỉ dùng điện khí cho các hoạt động kỹ thuật và kỹ nghệ, còn trong sinh hoạt hằng ngày tuyệt đối không ai được dùng điện. Họ gọi đó là tiến bộ tột cùng mà con người có thể đạt đến.

Đêm nay, đêm cuối cùng, tôi còn hai việc phải làm trước khi ra đi.

Việc đầu tiên là đến dự đám cưới của người yêu cũ của tôi. Hôm nay ngày cưới em […] Vì sao nàng mời tôi đến1. Tôi vừa đi trong bóng tối, vừa nghe lòng rưng rưng. Rưng rưng mà khóc không được. Và bỗng dưng tôi thèm một điếu thuốc lá quá đỗi. Thuốc lá và khói đắng. Thuốc lá và tình yêu tuyệt vọng. Giọng hát nũng nịu của Sylvie Vartan chợt vang vang trong đầu tôi, L’amour c’est comme une cigarette/Ça brûle et ça monte à la tête2. Bây giờ, những lời ca chỉ còn trên cửa miệng, trong trí nhớ, không còn nằm trong một cái đĩa hát để người ta có thể cắm điện cho máy hát nhịp nhàng quay đĩa, nhả ra những lời ra tình tứ như thế nữa.

Đám cưới thời ấy, như mọi đám cưới khác, diễn ra trong ánh đèn dầu và đèn cầy, không phải vì cố tình làm ra thế cho có vẻ liêu trai, cho giống như những đám cưới quý tộc thời phong kiến, mà đơn giản chỉ là vì không có đèn điện. Tôi bước vào đám cưới. Những người khách, đa số là bạn bè tôi quen biết, trông như những bóng ma. Giọng cười nói của họ ong ong như những âm thanh không có thật. Cảnh tượng này—ngập ngụa trong các màu đen, vàng, lẫn một chút đỏ—làm tôi liên tưởng đến bức tranh nổi tiếng của một hoạ sĩ Phục Hưng người Hoà Lan3. Cô dâu/người-yêu-cũ-của-tôi mặc một chiếc áo dài trắng như thời còn đi học—thời buổi này ai có thể sắm nổi một cái áo cưới. Nụ cười của cô không biết là nụ cười vui hay nụ cười buồn. Đúng là “nụ”, vì nó không nở lớn ra thêm một chút nào nữa. Đứng bên cô, tất nhiên, là chú rể/bạn-thân-của-tôi. Hắn mặc xuềnh xoàng cái áo sơ-mi trắng nhét có vẻ vội vàng vào cái quần đen mà trong bóng tối cũng không che giấu nổi những chỗ đã sờn rách. Trời ạ, cảm xúc lúc này của tôi chắc không ngôn từ nào diễn tả cho hết khi nhìn cô dâu chú rể, mỗi người trước đây có một mối quan hệ đặc biệt với tôi mà trong đám bạn bè còn lại ai cũng biết.

Tôi ngồi xuống một chỗ còn trống, bắt đầu ăn qua loa một vài món còn tệ hơn là những món ăn thường ngày chứ đừng nói chi là dành cho một đám cưới. Nhưng bây giờ hầu như ai cũng quen với những chuyện như vậy. Mỗi ngày còn có cái ăn cho khỏi chết đói là mừng rồi. Để khỏi no cơm rửng mỡ, sinh sự lôi thôi, đòi quyền này quyền nọ. Kiểm soát được bao tử của mỗi người là kiểm soát được cả xã hội. Cả một xã hội sống vật vờ như những cái xác sống, như những con ma còn thoi thóp thở. Kẻ cầm quyền đã công khai bày ra con toán trên các văn bản chính thức, ai bảo không chịu đọc kỹ: Độc lập – Tự Do – Hạnh Phúc, chẳng phải là Độc Lập trừ Tự Do trừ Hạnh Phúc thì là gì. Hiệu số chỉ là con số không to tướng.

Được một chốc, tôi đứng lên, tiến về phía cô dâu chú rể để nói lời chúc mừng sáo rỗng. Tay không chẳng có được một món quà cưới. Bây giờ chuyện đó đã trở thành xa xỉ. Nét mặt của tôi lúc ấy chắc là đầy vẻ ngượng ngùng, lời nói thì ấp úng, còn cô dâu chú rể cũng sượng sùng không kém. Tôi kết thúc lời chúc mừng nhạt nhẽo, vô hồn rồi quay ra bên ngoài, đi như bị ma đuổi trong màn đêm và trong sương lạnh.

Tôi còn một việc thứ hai phải làm đêm nay, trước khi đi ra bãi xuống thuyền vượt biển. Đó là làm xong buổi chót của lớp dạy kèm chui của tôi vào lúc 0 giờ, tất nhiên cũng là trong ánh đèn dầu hao. Tôi muốn làm một nghĩa cử cuối cùng trước khi giã từ mảnh đất chôn nhau cắt rốn này. Lớp dạy kèm của tôi chỉ vỏn vẹn ba người bạn, có cùng ước mơ và dự định như tôi là trốn ra khỏi nước, đi đến một chân trời viễn tưởng mà nghe nói rằng rất đỗi huy hoàng, tráng lệ, chứ không tăm tối, đìu hiu, câu thúc như chốn này.

Chân trời viễn tưởng đó là một đế quốc bá chủ hoàn cầu, giàu có và đầy quyền uy. Những kẻ đã trốn đi được rồi, chúng tôi không biết có đến được bến bờ bên ấy, hay đã bỏ mạng trong đại dương, vì mọi liên lạc từ bên trong ra bên ngoài hay từ bên ngoài vào bên trong đều bị cấm tiệt. Chúng tôi chỉ nghe phong thanh là chốn ấy sáng rực ánh đèn, điều mà ai cũng hằng mơ ước và thèm muốn, và cuộc sống đầy đủ, phủ phê. Điều quan trọng nhất là người ta dùng tiếng Esperanto ở xứ ấy.

Cách đây vài năm, tôi tình cờ mua được một cuốn sách có tựa đề L’Esperanto4 sans peine từ một người bán sách cũ có một chiếc xe ba-gác đầy nhóc sách đứng bán bên vệ đường. Về nhà, tôi ngấu nghiến đọc, rồi học thứ tiếng mới mẻ này, rồi tập đọc, tập nói một mình. Tôi đọc ở đâu đó thấy có người bảo lúc mơ màng trước khi ngủ là lúc dễ học thuộc lòng nhất. Thế là mỗi đêm tôi lại đọc như cuốc kêu một đoạn đối thoại trong sách, đọc đến khi hai mắt nặng trĩu, cuốn sách rớt cái bộp xuống giường. Sau này, biết được “người ta” ở “xứ ấy” chỉ dùng tiếng này làm ngôn ngữ chính thức, tôi mừng hết lớn. Vốn liếng tiếng Esperanto của tôi bây giờ đã tạm đủ để tôi kèm lại những người muốn học, vì họ cũng đang nuôi mộng vượt biển như tôi. Lớp học lén lút lúc nửa đêm này đã kéo dài hơn một năm nay ở nhà tôi. Càng dạy Esperanto, tôi càng trở nên lưu loát hơn. Hình như tôi được lợi từ chính việc giảng dạy của mình còn hơn là ba học viên của mình nữa.

Dĩ nhiên là tôi không nói cho ba người ấy đêm nay là đêm giã biệt. Thời buổi này không ai dám tin ai, làm sao tôi có thể tiết lộ với họ là tôi sắp ra bãi để trốn đi bằng ghe. Căn phòng ngủ của tôi được dùng làm lớp học. Trên vách có một tấm bảng lớn. Đối diện là một cái bàn dài với mấy cái ghế. Trong góc phòng là chiếc giường ngủ cá nhân của tôi, cạnh cửa sổ trông ra một giàn bông giấy, giờ này đã phủ đầy bóng đêm. Tôi còn nhớ mãi đêm học sau cùng đó. Trong ánh đèn dầu leo lét, chúng tôi chụm vào nhau, thì thầm tập nói những câu thực dụng phòng khi đến được bến bờ tự do. Mia nomo estas Nam—Tên tôi là Nam. Mi estas dudek kvin jarojn aĝa—Tôi hai mươi lăm tuổi. Mi estas rifuĝinto de diktaturo—Tôi là người tị nạn độc tài. Kie estas la banĉambro?—Nhà vệ sinh ở đâu?

Bốn cái bóng hắt lên tường, lung linh như những bóng ma trơi. Đêm càng lúc càng khuya. Hơi lạnh từ bên ngoài lùa vào phòng qua vuông cửa sổ. Hình như ai nấy đều rùng mình. Tôi muốn nói Adiaŭ—Vĩnh biệt, với ba người học trò, mà nghẹn ngào không nói được, đúng hơn là không dám nói.

Thế rồi tôi ra đi, vào một đêm không trăng không sao. Những người tổ chức cuộc vượt biển đã cẩn thận chọn một đêm như thế để bảo toàn bí mật cho cuộc đào thoát. Nhờ ơn trên gia hộ, chiếc thuyền mong manh chất đầy mấy chục người của chúng tôi chỉ đi có ba ngày ba đêm thì được một chiếc tàu buôn cứu vớt. Họ đem chúng tôi về một trại chuyển tiếp ở một quốc gia Đông Nam Á. Những người như chúng tôi được dán nhãn hiệu bằng một từ ngữ mới phát sinh vào hậu bán thế kỷ 20: Thuyền nhân. Hai tuần sau, sau một số cuộc phỏng vấn hết sức khắt khe của phái đoàn nước tiếp nhận, chúng tôi đáp một chuyến bay đến chân trời viễn tưởng.

Cảm tưởng đầu tiên của nhóm thuyền nhân tị nạn chúng tôi khi ra khỏi lối đi nối từ máy bay vào phi trường của quốc gia tiếp nhận, là ngỡ ngàng, choáng váng trước vẻ đồ sộ, mênh mông của nó. Sau mấy phút bàng hoàng, chúng tôi bắt đầu thấy rõ hơn những gì đang bao quanh mình. Cao tít phía trên đầu của bao nhiêu là hành khách đang tấp nập qua lại, chúng tôi thấy trên tường hàng chữ thật lớn ghi tên quốc gia chủ nhà bằng tiếng Esperanto, nơi từ đây về sau sẽ là miền đất định cư của mình suốt cuộc đời còn lại: UNIO DE LA SUPERAJ ŜTATOJ DE EL DORADO. Ho mia Dio! Tôi thầm kêu lên trong đầu. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được thấy tiếng Esperanto bằng xương bằng thịt, ngoài cuốn sách cũ rích của mình. Thật nhanh, tôi lẩm nhẩm dịch cái tên ấy ra tiếng Việt để có thể thấm thía hơn nó nghĩa là gì, LIÊN BANG THƯỢNG ĐẲNG EL DORADO5.

Bên trái của hàng chữ to tướng đó là một lá cờ cũng không kém phần uy nghi. Đó là lá cờ màu xanh lá cây, ở góc trên phía trái có một hình vuông nền trắng, bên trong là một ngôi sao cũng màu xanh lá cây. Đây là lá cờ chính thức của Esperanto, được các tổ chức từ nhiều quốc gia khác nhau dùng trong các hội nghị quốc tế hằng năm về ngôn ngữ này. Lẽ ra tôi phải mừng khi lần đầu tiên được thấy tận mắt lá cờ ấy, tuy nhiên, không hiểu sao tôi lại thoáng thấy ớn lạnh xương sống bởi một ý nghĩ chợt thoáng qua, mình chạy trốn ngôi sao vàng để gặp một ngôi sao xanh. Màu sắc có làm thay đổi được gì không, chẳng biết.

Bên phải của hàng chữ là một bức chân dung khổng lồ, tôi đoán là lãnh tụ của El Dorado, một người đàn ông da trắng, tóc vàng, với đôi mắt nhìn chòng chọc vào người đang nhìn bức ảnh. Kiểu chụp của bức ảnh, cũng khá lạ, không thể hiện thần thái của một lãnh tụ mà lại gợi lên cho người nhìn hình ảnh trên một cái mugshot. Tôi lại thấy muốn dựng tóc gáy. Tôi vừa để lại sau lưng hình ảnh nhan nhản khắp nơi của một lãnh tụ bên kia bờ đại dương, để bây giờ nhìn thấy một hình ảnh lãnh tụ khác, có phần đe doạ hơn nhiều.

Dưới hàng tên quốc gia bằng chữ in, tôi đọc được hàng chữ Ĉi tio estas registaro de blankulo, kaj je la Dio de niaj patroj ĝi restos registaro de blankulo6. Wow! Tôi lại lẩm nhẩm dịch—Đây là chính quyền của người da trắng, và theo ý Thượng Đế của ông cha chúng ta, chính quyền này sẽ mãi mãi là của người da trắng—Không biết những người đang đi cùng tôi có đọc thấy hàng chữ này và có cảm giác ra sao, nhưng tôi thì thấy nổi gai ốc khắp người.

Trời đã ngả tối khi chúng tôi ra khỏi phi trường. Chiếc xe buýt dài từ từ lăn bánh ra khỏi chỗ nhộn nhịp của người và xe đi đi đến đến, đưa chúng tôi vào thành phố. Cả một vùng ánh sáng rực rỡ, chói loà phủ chụp lấy chúng tôi, toả ra từ những toà nhà chọc trời cao chót vót. Tôi ngây ngất, sững sờ trong vùng ánh sáng huy hoàng đó, ngỡ như vừa từ chốn âm ty qua đến cõi thiên đàng. Xe buýt đưa đoàn lưu dân về một khách sạn sang trọng để mọi người được ăn uống, tắm táp và ngủ nghỉ, đợi sáng mai được chuyển qua Trung Tâm Di Trú làm thủ tục chính thức định cư ở USSED, tên viết tắt của quốc gia mở rộng vòng tay chào đón những người tị nạn chúng tôi.

Đêm hôm đó, quả là tôi đã nằm mộng suốt đêm trong thiên đường7. Vừa sung sướng vì đã đến nơi an toàn, vừa ngỡ ngàng vì bao nhiêu điều mới lạ chung quanh. Tôi như mê mê tỉnh tỉnh, lúc thì nghe rõ tiếng xe cộ lao xao từ bên ngoài vẳng vào, lúc thì thấy mình đứng hát câu Tôi đến mừng em trong tiệc cưới8 trong đêm bẽ bàng đến gặp hai cố nhân: người tình cũ và người bạn cũ, lúc thì thấy mình trước tấm bảng trong lớp học-phòng ngủ, trịnh trọng đọc cho ba học trò đọc theo, Unio de la Superaj Ŝtatoj de El Dorado.

Đến tang tảng sáng, tôi mới chợp mắt hẳn, nhưng chỉ được chốc lát thì đã bị khua dậy, đưa vào sảnh khách sạn để ăn sáng rồi lại lên xe buýt qua Trung Tâm Di Trú.

Toà nhà xám xịt, nổi bật trên nền trời xanh, không có vẻ gì là đang nồng hậu chào đón chúng tôi cả. Ánh sáng đèn điện muôn màu của ban đêm bây giờ đã nhường chỗ cho những tia nắng chói chang của mặt trời, soi rọi mọi thứ trên thế gian, kể cả những gì màu đen hay xám xịt, như toà nhà này.

Bước vào bên trong, chúng tôi thấy lại những hàng chữ, cờ xí và chân dung lãnh tụ như đã thấy ở phi trường hôm qua. Đặc biệt, có thêm hai hàng chữ khác. Hàng chữ thứ nhất khiến tôi thấy ấm lòng đôi chút: Bonvenon al USSED!—Chào Mừng Quý Vị Đến El Dorado!Hàng chữ bên dưới, đọc vào tôi không biết nên mừng hay nên lo, Ni parolas nur Esperanton—Chỉ nói tiếng Esperanto.

Nhân viên di trú, khác hẳn với lời chào mừng, ai nấy đều mặt lạnh như tiền. Tôi để ý thấy ngoại trừ một số ít là người gốc da đen, da nâu hay da vàng, đa số là người da trắng. Họ đi đi lại lại, lầm lầm lì lì, làm những động tác thân thể cứng đơ, không khác gì những người máy. Khi nhóm chúng tôi đã yên vị rồi, một số nhân viên bắt đầu phát cho chúng tôi những cái gắn vào tai để chúng tôi có thể nghe bằng tiếng Việt những lời chỉ dẫn làm thủ tục bằng tiếng Esperanto của người đang đứng sau một cái bục trước mặt chúng tôi. Trong đó, họ có nhắc nhở, Vi devas lerni esperanton kaj neniam povas paroli vian gepatran lingvon—Quý vị phải học tiếng Esperanto và không bao giờ được dùng tiếng mẹ đẻ của mình.

Một trong những điều đầu tiên mà chúng tôi phải làm là từ bỏ tên họ, để từ giờ trở về sau chỉ mang một cái mã có vừa chữ vừa số theo thứ tự sau: (i) Phái tính (V/vira cho phái nam, I/ino cho phái nữ, và N/nek cho những ai không muốn xác định phái tính; (ii) Chủng tộc (A cho da trắng, B cho da nâu, C cho da vàng và D cho da đen); (iii) Danh tính (tháng, ngày, năm sinh); (iv) Tình Trạng Di Trú (DC/denaska civitano cho công dân bản xứ, NC/naturigita civitano cho công dân nhập tịch, và EN/enmigrinto cho dân nhập cư; và sau cùng là (v) Loại Máu (đánh số từ 1 đến 8 cho các loại máu khác nhau). Đối với hạng mục nhận diện sau cùng, chúng tôi được lấy mẫu máu chớp nhoáng ngay tại chỗ.

Thế rồi từ ngày hôm ấy, tôi không còn là Nguyễn Thiên Khiếm nữa, mà là VC-04-30-1965-EN-7. Để tiện việc xưng hô, cô nhân viên cho biết mọi người thường gọi nhau bằng tháng và ngày sinh, tất nhiên là sẽ có sự trùng hợp nhưng không phải lúc nào cũng có chuyện đó. Giống như thiếu gì có người tên Việt hay Nam vậy. Như vậy, từ đây về sau, “tên” của tôi sẽ là Kvar-Tridek (4-30), đọc theo tiếng Esperanto.

Sau khi tất cả những ai hiện diện đã được mang một mã chữ-số thay thế cho tên gọi của mình, mọi người được yêu cầu nghỉ 15 phút trước khi được lần lượt gọi vào phỏng vấn để được chính thức cấp thẻ nhập cư. Ai nấy đều tản mát ra khắp nơi. Có người ngồi nghỉ ngơi ngay tại chỗ. Nhiều kẻ bước ra ngoài, tản bộ trong ánh nắng vẫn còn dìu dịu của buổi sáng, hoặc ngồi ở băng ghế dưới vài tán cây râm mát. Tôi cũng tìm được một băng ghế, đang xoay mình sắp ngồi xuống thì một người đàn ông Á châu đi ngang nói giọng rất sõi:

Bonan matenon! Kio estas via kodo?—Chào anh! Mã của anh là gì?”

Tôi hơi giật mình, ngoảnh lại đáp:

Saluton! Mi estas Kvar-Tridek—Chào anh. Tôi là 4-30.”

Nhìn vẻ mặt của anh ta, tôi hỏi tiếp, bằng tiếng Việt:

“Anh người Việt hả?”

Anh ta gật đầu, định trả lời tôi thì có một nhân viên đi ngang qua. Anh vội cao giọng:

Jes. Mi estas vjetnama. Mia kodo estas dekdu-ses—Phải, tôi là người Việt. Mã của tôi là 12-6.”

Chờ cho anh nhân viên đi khuất, anh ta thì thầm với tôi:

“Chớ có nói tiếng Việt khi có ai đứng gần. Tôi là Đức, nhân viên bảo vệ. Anh tên gì?”

“Tôi tên Khiếm,” tôi cũng thì thầm theo. “Thật ra, nói tiếng Esperanto cũng là một điều hay. Tôi đã học và dạy tiếng này được mấy năm rồi.”

“Hay chỗ nào?” Đức cười gằn làm tôi cụt hứng. “Sao anh nghĩ là nó hay?”

“Thì hồi cộng hoà người ta gọi Esperanto là Thế Giới Ngữ, còn thời cộng sản họ gọi là Quốc Tế Ngữ, chẳng phải thứ tiếng này có tính chất đại đồng hay sao?”

“Đại đồng!” Đức nhại lại chữ tôi vừa dùng, cười gằn thêm một cái nữa. “Anh bảo là đã học và dạy Esperanto lâu rồi, bộ anh không thấy thứ tiếng này chẳng có gì là ‘thế giới’ hay ‘quốc tế’ sao? Thế giới, quốc tế chỗ nào mà chỉ toàn là chữ có gốc từ tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Đức hay tiếng Nga, hầu như chẳng có từ ngữ nào từ châu Á, châu Đại Dương hay châu Phi cả. Anh thử nghĩ mà xem!”

Lại có một nữ nhân viên da trắng đi qua trước mặt chúng tôi. Đức đổi giọng, vui vẻ nói:

Mi tre ĝojas, ke vi atingis ĉi tiun landon!—Tôi rất mừng vì anh đã đến được đất nước này!”

Ankaŭ mi—Tôi cũng vậy,” tôi nheo mắt, đáp lại.

Đức nói thật nhanh, gần như nín thở, như thể anh sợ không có đủ thì giờ nữa:

“Nói cho anh biết trước để chuẩn bị tinh thần, bắt đầu từ ngày mai, anh sẽ phải mặc đồng phục như mọi người, được cấp một chiếc xe cùng một hiệu duy nhất, được ở trong một căn chung cư rập cùng một khuôn, phải ăn uống những món như mọi người khác…”

Ngưng một giây, Đức lại tiếp tục:

“Anh và mọi người sẽ chỉ đọc một tờ báo duy nhất trên cả nước, xem truyền hình trên cùng một băng tần, đọc những cuốn sách hay xem những cuốn phim đã được đóng dấu chấp thuận… Về việc làm, nghề sẽ chọn anh chứ anh không được chọn nghề. Và đây là điều quan trọng nhất: Mỗi ngày anh sẽ phải đứng trước chân dung lãnh tụ ba lần để đọc Kinh Thánh, tựa như người Hồi giáo làm lễ Salah hằng ngày của họ vậy. Ngoài ra, anh khỏi phải lo thiếu ánh đèn điện như anh đã từng thiếu thốn ở trong nước. Ở xứ này, ánh đèn điện sẽ chiếu rọi hực hỡ, chói loà vào tất cả những gì khuất lấp trong xương thịt lẫn linh hồn của anh.”

Vừa lúc ấy, loa phóng thanh vang vang gọi mọi người trở lại phòng đợi để chuẩn bị được phỏng vấn. Đức uể oải đứng lên, buông một lời chào và một lời chúc:

Ĝis revido kaj bonŝancon!—Gặp lại anh sau và chúc anh may mắn!”

Ĝis!” Tôi thẫn thờ đáp lại. “Kaj koran dankon—Và cám ơn anh nhiều.”

Tôi lững thững đi theo dòng người, chậm rãi quay lại phòng đợi. Một lát sau, tôi nghe mã của mình đọc qua chiếc loa từ một góc phòng:

Va-Co-Nulo-Kvar-Tridek-Unu-Naŭ-Ses-Kvin-E-Na-Sep!

Tôi đứng bật dậy như một cái máy. Đi dọc theo bức tường hướng về phía cánh cửa đang mở rộng chờ tôi vào, tôi chợt ngước lên nhìn bức chân dung lãnh tụ đang đăm đăm ngó tôi. Căn phòng đầy tiếng xì xào của người nói lời qua tiếng lại, nhưng tôi nghe như có tiếng thở dài áo não của chính mình từ một chỗ nào rất sâu trong tận đáy hồn.

Trần C. Trí

___________________________________

1 Ngày Cưới Em (1962)Y Vũ
2 L’Amour c’est comme une cigarette (1981)Michel Mallory & Florrie Palmer
3 Dulle Griet (1563) Pieter Bruegel de Oudere
4 Tiếng Esperanto là một thứ tiếng nhân tạo, do bác sĩ người Ba Lan gốc Nga Ludwik Lejzer Zamenhof phát kiến. Tên gọi ngôn ngữ này có nghĩa là “Người Hy Vọng”, vì theo lập luận của tác giả, khi mọi người trên thế giới nói cùng một thứ tiếng thì sẽ không còn chiến tranh nữa.
5 El Dorado là tên của một thành phố vàng tưởng tượng,  được cho rằng toạ lạc tại một nơi nào đó ở Nam Mỹ. Tính từ dorado trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là “vàng”, “bằng vàng” hoặc “vàng son”.
6 Nguyên văn tiếng Anh: This is a white man’s government, and by the God of our fathers it shall remain a white man’s government, trích trong tiểu thuyết The Clansman của Thomas Dixon (1905).
7 Cho Đời Chút Ơn (1993) – Trịnh Công Sơn
8 Nhà Anh Nhà Em (1971) – nhạc Anh Sơn – Thơ Hà Liên Tử (1958)

bài đã đăng của Trần C. Trí

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)