Thời kỳ Minh Mạng trị vì cũng là giai đoạn thực dân bành trướng: hai cường quốc Anh, Pháp đã bắt đầu xâm chiếm các nước Á đông từ đầu thế kỷ XIX. Họ dùng đủ mọi thủ đoạn: xin buôn bán, xin một mảnh đất để mở thương điếm, xin cứu một giáo sĩ (đã được tha), hoặc xin tự do truyền giáo…, tất cả mọi lý do đều có thể dùng để thâm nhập vào nước ta, thậm chí cả sự hăm dọa sẽ đem quân trừng trị nếu những yêu cầu không được thoả mãn. Những việc này bắt đầu xẩy ra từ năm 1802, khi vua Gia Long lên ngôi, và nhà vua đã có những biện pháp đối đầu trong những năm trị vì (1802-1819). Vua Minh Mạng tiếp tục chặn đứng tham vọng ấy, bằng cách xây dựng một nhà nước hùng mạnh về mọi mặt, đặc biệt củng cố các vị trí phòng thủ trọng yếu, cải tổ quân đội, kiến tạo thành trì, khiến Việt Nam trở thành một nước lớn, không thể xâm phạm được.
Qua các chương trước, ta đã thấy Trương Vĩnh Ký trong cuốn Cours d’histoire annamite (Giáo trình lịch sử An Nam) là người đầu tiên tố cáo vua Minh Mạng là khuôn mặt tàn ác nhất của nhà Nguyễn: chiếm ngôi cháu, bạo hành trong triều[1], bế quan toả cảng (không cho người Âu vào buôn bán) và cấm đạo-giết đạo, nên nước Pháp phải “can thiệp” vào[2] . Hình ảnh này được linh mục Louis-Eugène Louvet vẽ thêm chân rết, đặt tên vua là «bạo chúa Néron của Việt Nam» trong bộ sách La Cochinchine Religieuse (Đạo giáo ở nước Nam), in năm 1885, ra đời sau sách của Trương Vĩnh Ký sáu năm.
Nhờ hai tác giả này, mà «sự tàn ác» của vua Minh Mạng được phóng đại và truyền tụng tới ngày nay. Trên Internet, Wikipédia tiếng Pháp viết: «đỉnh điểm [của tội ác Minh Mạng] là việc xử tử Giám mục Marchand», nhưng không đả động đến nguyên nhân dẫn đến án tử hình.
Trong chương 12 này, chúng tôi tìm hiểu chính sách đối nội và đối ngoại của vua Minh Mạng, tại sao có những quyết định triệt để về việc cấm đạo, để chiếu một ống kính công bằng và gần sự thật hơn về vị vua thứ hai của nhà Nguyễn, trong giai đoạn lịch sử khó khăn này.
Từ sợ sệt đến xuyên tạc vua Minh Mạng
Vua Gia Long mất vì bệnh thủy thũng [phù thũng] ngày 3-2-1820. Minh Mạng lên ngôi, năm 29 tuổi, là một người uyên-thâm nho học, có văn tài, có kinh nghiệm cai trị, từng trông coi việc triều chính từ nhiều năm trước. Khác hẳn tính cha, ông là người nghiêm khắc, các quan trong triều đều sợ, đặc biệt ba người Pháp: Giám mục Labartette, Đại diện Tông tòa miền Bắc, Chaigneau và Vannier, hai người lính đến giúp Nguyễn Ánh từ những ngày đầu, rồi ở lại làm quan trong triều.
Vì sợ Minh Mạng từ khi ông chưa lên ngôi, nên năm 1819, Giám mục Labartette và Vannier đã viết thư cho Giám đốc Hội Thừa Sai, tức linh mục de la Bissachère, được coi là “chuyên gia” về Việt Nam và linh mục Baroudel, thủ quản tu viện Macao, là hai nhân vật công giáo có thẩm quyền lúc bấy giờ, đồng loạt đổ tội cho Chi Dam (Thái tử Đởm, tức Minh Mạng sau này) và Chi Dai (em út của Minh Mạng) “có mối thù không đội trời chung với đạo Thiên chúa, thề sau khi cha chết, sẽ “tàn sát” đạo này.“[3]
Xét kỹ lại, lời «thề» này khó có thể có thật, vì thề là lời hứa của kẻ yếu, còn một người sắp lên làm vua, nắm quyền quyết định tối cao, muốn gì cứ việc ra lệnh, đâu cần phải thề thốt?
Mặt khác, Hội Thừa Sai Paris do de la Bissachère[4] quản lý, đây là nhân vật đầu tiên xuyên tạc và bôi nhọ hai vua Gia Long và Quang Trung, bằng văn bản, mà chúng tôi đã trình bày trong cuốn Vua Gia Long và người Pháp.
Những «thông tin» khả nghi này dẫn đường cho những người như Trương Vĩnh Ký và Louvet, viết những lời độc địa nhất về nhà vua.
Để tìm hiểu sự thật, chúng ta cần khảo sát nguyên nhân việc cấm đạo và những chính sách được thi hành dưới thời Minh Mạng.
Nhắc lại nguyên nhân việc cấm đạo ở Á Châu
Trong ba thế kỷ XVII, XVIII và XIX, như chúng ta đã biết, ban đầu, các chúa Trịnh Nguyễn, đều cho phép đạo Gia Tô được truyền bá trong nước.
Nhưng từ khi biết rằng: người công giáo phải tuân theo sắc lệnh của Giáo hoàng Inocent X (1644-1655) ra năm 1645, cấm Nghi Lễ Trung hoa (Les Rites Chinoises) tức là: từ bỏ tam giáo (Phật, Khổng, Lão) và cấm thờ cúng tổ tiên, là hai điểm nền tảng của văn hóa Đông phương, thì hầu hết các nước Á Châu đều cấm đạo.
Tuy vậy, tình hình cấm đạo ở Việt Nam, không thể so sánh với tình hình Nhật Bản.
Ở Nhật, ngày 15-8-1549, khi linh mục François-Xavier đến truyền đạo, nước Nhật ở dưới thời Mạc Phủ Muromachi (1336-1573), ông được tiếp đãi tử tế, được cấp cho một ngôi chùa bỏ hoang, nhưng bị các sư chống đối.[5]
Sau 17 tháng ở Nhật, cha François-Xavier thu phục được khoảng 12.000 giáo dân[6]. Tiếp xúc với người Nhật, François-Xavier hiểu họ chịu ảnh hưởng sâu đậm triết học và tôn giáo Trung Hoa, nên ông quyết định sang Tầu để truyền giảng Phúc âm. Đầu tháng 9-1552, ông đến đảo Sancian (Shangchuan), cách Macao khoảng 100 cây số về phiá tây nam, tìm cách vào lục điạ, nhưng ba tháng sau ông qua đời (ngày 3-12-1552), sau này được phong làm Thánh François-Xavier. Đạo Chúa được truyền ở Nhật, từ 1569 đến 1614, cho nên khi bị cấm, đã có một số thầy tu đáng kể, trốn ra nước ngoài và chữ quốc ngữ Nhật, tức chữ Nhật viết bằng mẫu tự la tinh do họ tìm ra, đã giúp ích rất nhiều cho những người soạn chữ quốc ngữ Việt sau này.
Theo Sylvie Morishita, năm 1614, Shogun Tokugawa Ieyasu ban hành dụ cấm đạo đầu tiên, hiệu lực tới 1873, dựa trên ba điểm: cấm đạo công giáo, đóng cửa nhà thờ và trục xuất giáo sĩ. Nhưng một số giáo sĩ vẫn ở lại Nhật trong vòng bí mật. Kể từ năm 1620, Nhật áp dụng cực hình tra tấn, để kiếm những người bội giáo, chứ không muốn có những người tử vì đạo. Đến năm 1855-1860, khi Nhật mở cửa, giáo sĩ của Hội Thừa Sai Paris mới được phép trở lại giảng đạo ở ba nơi: Hakodate, Yokohama và Nagasaki.[7]
Ở Việt Nam, tình hình rất khác, bất kể chính sách cấm đạo, cấm giáo sĩ, từ thời chúa Nguyễn, các giáo sĩ vẫn trốn vào, và được giáo dân giấu giếm. Giáo sĩ de la Bissachère (1764-1830), tháng 3-1790 đến Bắc Hà sống trốn tránh, giảng đạo ở vùng Nghệ An, dưới triều Quang Trung, viết cuốn Ký sự Bissachère bôi nhọ Quang Trung (1788-1792) và Gia Long (1802-1809) thậm tệ[8]. Năm 1802, khi Gia Long lên ngôi, đánh ra Bắc, đầu tháng 7-1802, đến Nghệ An, de la Bissachère và Giám Mục Castorie [La Mothe] (1751-1816) cai quản địa phận miền tây Bắc Hà ra chào. Năm 1806, Bissachère bị bệnh phải trở về Macao, rồi năm 1815, về Pháp, trở thành «chuyên gia về Á đông» cho chính phủ Louis XVIII. Bissachère mất năm 1830[9]
Việc bôi nhọ vua Gia Long và xuyên tạc lịch sử truyền giáo, bắt đầu với Ký sự Bissachère, in năm 1810, ở Paris, nhất là, từ năm 1815, khi Bissachère trở thành «chuyên gia về Á đông».
Lý do cấm đạo: phòng thủ ngoại xâm
Việc cấm đạo ở Việt Nam, ngoài lý do bảo tồn văn hóa phương Đông như các nước Á châu, còn một lý do nữa không kém phần quan trọng là để ngăn ngừa sự xâm lược của người Anh.
Từ khi lên ngôi năm 1802, vua Gia Long vẫn lo ngại nước Anh xâm lấn, nên luôn luôn chuẩn bị đề phòng, không cho nước này vào “buôn bán”.
Đại Nam thực lục ghi, năm 1803 “Hồng Mao sai sứ đến hiến phương vật, dâng biểu xin lập phố buôn ở Trà Sơn dinh Quảng Nam. Vua nói rằng :”Hải cương là nơi quan yếu, sao lại cho người ngoài được! Không cho. Sai trả vật lại và bảo về “[10].
Năm 1804, Anh lại dâng phương vật, xin thông thương và xin được ở lại Đà Nẵng để buôn bán. Vua cũng không cho. Sau này còn xin hai ba lần nữa cũng không được.[11]
Kergariou, thuyền truởng tầu Cybèle của Pháp, cũng ghi lại những việc này trong chuyến đi Viễn Đông năm 1817: “Ông [vua Gia Long] rất sợ người Anh, lo ngại họ đến chiếm hải cảng Đà Nẵng mà họ đã tìm cách mua lại mà không được“[12]
Việc này, Đại Nam thực lục chỉ viết sơ sài. André Salles, Thanh tra thuộc địa (Inspecteur des colonies) về hưu, trong cuốn Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille [Jean-Baptiste Chaigneau và gia đình][13], viết rõ hơn:
«Tháng 9 và 10-1803, tầu Anh đại diện công ty Anh Ấn (Compagnie des Indes Britaniques), ghé Đà Nẵng. Chaingeau và Vannier được cử ra tiếp và thông báo cho vị đại diện Anh là Roberts những luật lệ của triều đình và quyền có thể buôn bán không giới hạn. Triều đình nhận thư, dịch thư của họ, trong khi vua đi kinh lý ở Bắc chưa về. Tầu Anh đã kiên nhẫn và gan lì đợi, chắc có hậu ý; một nguồn tin cho biết họ muốn đất Cù Lao Chàm cách Hội An 2 hải lý. Mười tháng sau, tầu vẫn đậu ở Đà Nẵng, chỉ nhổ neo ngày 14-8-1804. Trước khi đi, họ đã trao cho sứ giả của vua một lá thư phản đối, xấc xược, được lưu lại trong tập «Le Receuil de Saigon», với những lời lẽ đe dọa: “Hơn nữa, tôi còn phải báo cho Bệ hạ biết nếu ngài cho một nước nào, kẻ thù của Anh, mở một thương điếm hay dễ dàng buôn bán bất cứ thứ gì, thì ngài nên coi rằng sự tiếp xúc với họ, sẽ có hậu quả là chuốc mối hận thù của chính phủ Anh.“[14]
Kẻ thù của Anh ở đây, không ai lạ gì, là Pháp (tuy ngoài mặt, Anh Pháp đã ký hiệp ước hòa bình Amiens ngày 25-3-1802).
Trước những lời đe dọa côn đồ như vậy, vua Gia Long quyết định: không cho người Anh vào buôn bán vì đằng sau sau “sự buôn bán” là ý đồ xâm lược. Vua cũng từ chối đề nghị của Pháp xin thông thương, mặc dù có cảm tình với Pháp qua Bá Đa Lộc, nhưng vua ngại, nếu cho phép Pháp, thì Anh cũng đòi vào.
Năm 1812, một chiến hạm Anh xuất hiện tại Đà Nẵng, ở lại 15 ngày để «đòi nợ» số tiền 300.000 đồng cho hãng buôn Anh là Abbott và Maitland, ở Madras (Ấn Độ), nhưng vua Gia Long đã trả rồi, có biên lai chứng nhận; thuyền trưởng Anh phải nhổ neo đi nhưng hăm dọa rằng “Sẽ trở lại đây đòi nợ với đoàn chiến hạm phủ kín mặt biển và sẽ đổ bộ 20.000 người”. Vì thế vua Gia Long chuẩn bị phòng thủ, cho xây các pháo đài ở Đà Nẵng[15].
Và trước khi mất, vua dặn con phải đề phòng cả Anh lẫn Pháp, bởi hai nước này kình địch nhau, nếu cho Pháp một đặc quyền thì Anh sẽ ganh tỵ và gây hấn.
Đó là lý do chính đưa đến quyết định: các tầu Tây dương không được tự do đậu ở bất cứ cửa biển nào, trừ Đà Nẵng, để chính quyền dễ bề kiểm soát, trong khi tầu bè của các nước Á Châu, được ra vào tự do ở mọi hải cảng.[16]
Chính sách ngoại giao của vua Minh Mạng
Vua Minh Mạng lên ngôi năm 29 tuổi, là người học vấn uyên thâm, có kinh nghiệm lãnh đạo, vua cải tổ việc nội trị và giáo dục, đặt quốc sử quán, chấn chỉnh quân đội, luyện tập binh mã, xây dựng thành trì, đặc biệt «sai xây đắp cửa Hải Vân ở đỉnh núi Hải Vân [năm Bính Tuất (1826)]… Ngạch [Bậc cửa] trước viết ba chữ Hải Vân quan[17].
Nhận thấy vị trí trọng yếu của Hải Vân, vua Minh Mạng cho xây trên đỉnh núi một thành đài kiên cố, với quân đội canh gác, để bảo vệ con đường bộ duy nhất từ Đà Nẵng về kinh đô, nên khi Tướng Rigault de Genouilly chiếm được Đà Nẵng, định vượt Hải Vân quan để đánh Huế (1858) đã bị thất bại hoàn toàn.
Đối với người Âu, vua Minh Mạng có một chủ trương bất biến: “Họ đến ta không ngăn, họ đi ta không giữ”[18], được vua xác định nhiều lần trong các dụ ban ra.
Về việc buôn bán với nước ngoài, Minh Mạng áp dụng luật lệ có sẵn từ đời Gia Long:tất cả các nước đều có quyền ra vào buôn bán không giới hạn. Nhưng thuyền tầu của người Âu chỉ được quyền đỗ ở vịnh Đà Nẵng.
Về việc đóng thuế nhập khẩu, Minh Mạng có bảng định rõ giá thuế cho mỗi nước, hải quan cứ theo đó mà áp dụng. Tất cả những điều này đều ghi trong Đại Nam thực lục, nhưng phần nhiều người viết sử không đọc, chỉ chép lại luận điệu của giáo sĩ và thực dân: «vua nhà Nguyễn bế quan toả cảng», và coi đó là một trong những lý do biện hộ cho việc Pháp đánh chiếm nước ta.
Một điều cần biết: cho đến năm 1847, khi tầu hải quân Pháp đậu ở vịnh Đà Nẵng bắn phá năm chiếc thuyền đồng của triều đình, rồi bỏ đi, vua Thiệu Trị cũng chưa ra lệnh cấm đoán nào.
Chỉ từ năm 1858, sau khi liên quân Pháp-Tây Ban Nha đánh phá Đà Nẵng, bắt đầu cuộc xâm lăng thực sự nước ta, vua Tự Đức mới ra dụ cấm tầu Tây dương vào hải cảng Việt Nam.
Trước đó, tầu của người Âu được tự do ra vào cửa biển Đà Nẵng, vì vậy, cái được gọi là bế quan toả cảng, chỉ nằm trong hệ thống tuyên truyền xuyên tạc của người Âu, được sử gia Việt chép lại.
Trái ngược với những lời buộc tội bế quan toả cảng, vua Minh Mạng quan tâm đến việc giao thiệp với nước ngoài và tình hình thế giới.
Năm 1832, vua gửi Lý Văn Phức đi Lữ Tống (Lucon hay Luzon, đảo lớn nhất của Phi Luật Tân, thuộc địa của Y Pha Nho từ năm 1571) và gửi Phan Huy Chú đi Batavia (Djakarta), khi về ông viết cuốn Hải Trình chí lược kể lại đời sống vùng Hạ châu.
Năm 1833, Minh Mạng lại cử Lý Văn Phức đi Tân Gia Ba (Singapour).
Đầu năm 1840, vua cử một phái đoàn đi Pháp và Tây Ban Nha, khi họ trở về năm 1941, vua đã băng ngày 20-1-1841.
Việc cấm đạo dưới thời Minh Mạng
Khi mới lên ngôi, vua Minh Mạng không ra lệnh cấm đạo.
Chỉ từ năm 1825, Minh Mạng thứ 6, khi tàu Thétis đến Đà Nẵng, chở giáo sĩ Rogerot trốn vào và đi giảng đạo khắp nơi; từ đó, vua mới ra dụ đầu tiên cấm các giáo sĩ vào vùng Quảng Nam.
Dụ đầu tiên này, ra tháng 2-1825, tuyệt đối cấm các giáo sĩ Tây phương vào Việt Nam, đại ý như sau:
«Cái đạo đồi trụy của người Tây dương làm hư hỏng con người. Đã từ lâu, nhiều tầu Tây dương đến đây buôn bán và để lại các cha cố ở trong vùng [Quảng Nam] này.
Các cố đạo dụ dỗ, làm hư hỏng quần chúng, biến đổi và làm suy đồi phong tục. Chẳng đích thực là một đại họa cho quốc dân sao? Vì thế, ta cần phải chống lại tệ nạn này, để dìu dắt dân ta vào con đường chính đạo. Đây là dụ của vua, hãy tuân theo.»
Tiếp theo đó, là lệnh truyền cho quan Trấn thủ tỉnh Quảng Nam:
«Khi có tầu thuyền của Pháp đến, phải kiểm soát và khám xét kỹ lưỡng. Ngoài ra, còn phải canh gác cẩn mật các bến tầu, trên đỉnh núi, tất cả các cửa ngõ thuỷ, bộ, đề ngăn chặn không cho bất cứ cha cố Tây dương nào lén lút trốn vào, lẩn trong dân chúng, gieo rắc trở lại những điều ngu muội, ở trong nước…»
Minh Mạng năm thứ 6, ngày 1, tuần trăng 1 (tháng 2-1825)[19]
Việc các giáo sĩ vào lậu
Khi Minh Mạng lên ngôi, những năm đầu chưa có quyết định gì về đạo Gia-Tô, nhưng nhà vua cũng không muốn đạo này bành trướng, nên không cho phép giáo sĩ nhập cảnh; tuy vậy các giáo sĩ vẫn vào lậu. Việc đưa các giáo sĩ vào lậu, được hai người Pháp Chaigneau và Vannier, trước theo Nguyễn Ánh, sau ở lại làm quan trong triều, chủ yếu hỗ trợ. Việc này bắt đầu từ năm 1820, khi Minh Mạng lên ngôi, vua biết nhưng lờ đi.
Đầu tiên là vụ tàu Larose: Chaigneau xin phép về Pháp nghỉ, rồi đi tầu Larose trở lại Việt Nam, tàu rời Bordeaux ngày 1-12-1820, đến Huế ngày 17-5-1821, đem theo 4 giáo sĩ: Ollivier, Géland, Taberd, Gagelin. (Géland chết trong chuyến đi). Vua Minh Mạng biết nhưng bỏ qua, không hỏi tội.
Việc này được Chaigneau kể lại trong thư gửi cho de la Bissachère ngày 1-1-1823, như sau: «Linh mục Thật (người Việt), thân tín của tôi, đã làm lễ rửa tội cho các con tôi, sau bội giáo, trở thành con quỷ được phóng thích, đã tố cáo tôi những tội: Ở Pháp về năm 1821, đi tầu Larose, đem theo ba giáo sĩ: Ollivier, Taberd và Gagelin. Ba bốn ngày sau họ lên bộ, “mặc đồ Việt, giấu kỹ trong một thuyền nhỏ”, với sự trợ giúp của tôi.»[20]
Tháng 3-1822, tầu Cléopâtre bí mật đưa giáo sĩ Imbert lên bờ, Chaigneau tưởng không ai biết. Tuy ông nhận được thư từ Paris ngày 27-6-1822, nói rằng những “âm mưu của vị quan lo việc ngoại giao đã sang đến Pháp”. Tức là việc Chaigneau đưa giáo sĩ vào lậu đã sang tới Pháp.
Một mặt khác, theo lời các giáo sĩ, Chaigneau và Vannier đều chán Việt Nam, muốn về Pháp.
Ngày 9-12-1822, linh mục Taberd viết cho một người bạn: “Hai ông này [Chaigneau và Vannier] chán ở đây rồi, muốn trở về Pháp”. Chaigneau cũng viết cho linh mục Baroudel ngày 23-5-1823: “Tôi sẽ lấy tầu Larose về Pháp trong kỳ gió mùa sắp tới“.
Khi Giám mục Labarlette từ trần, ngày 6-8-1823, cả hai đều được vua Minh Mạng cho phép đi đưa đám, cái chết này càng làm cho hai ông thêm buồn bã[21]
Trong thư ngày 1-11-1823 gửi Bissachère, Chaigneau viết: “Tôi hy vọng không phải ở thêm một năm nữa ở cái xứ thổ tả này (ce maudit pays). Không có cách nào chịu được, tôi muốn phát khùng.” [22]
Đầu tháng 10-1824, Chaigneau và Vannier xin nghỉ. Được chấp thuận ngày 8-10. Ngày 11-10 vua Minh Mạng cho hai ông nhiều bằng cấp danh dự. Ngày 25-10 bán nhà. Ngày 15-11 hai gia đình rời Huế, mà không biết chắc có tầu ở Đà Nẵng đi Sài Gòn.
André Salles thuật lại câu chuyện này và đặt câu hỏi: Tại sao vội vã thế? Rồi tự đáp: Vì “Vua nước Nam đã gửi cho Chaigneau một cái khay trên có một chiếc thuyền nhỏ và một dây lụa, có nghiã là ông phải đi, hoặc phải thắt cổ”.
Salles muốn ám chỉ rằng vì bị vua Minh Mạng buộc tội phải tự tử (tam ban triều điển) nên Chaigneau và Vannier phải vội vàng rời Huế, mặc dầu trong chính cuốn sách này, Salles lại kể hai người chỉ muốn rời cái «xứ thổ tả» này để về Pháp cho nhanh.
Rồi vài trang sau, Salles kể tiếp: Tháng 10-1827, vua Minh Mạng gửi cho Chaigneau và Vannier một lá thư dài (viết ngày 24-12-1826) và mỗi người một món quà gồm những bình men Huế và tơ lụa, khiến hai bà vợ hết sức vui mừng và công chúng Lorient thán phục.[23], nhưng Salles vẫn cho là một «thủ đoạn» của nhà vua, giả bộ tử tế, và ông tiếp tục chỉ trích vua: trong thư, không nói đến các chức tước khác của Chaigneau, mà chỉ đề gọn hai chữ Chưởng Cơ. Năm 1830, chính phủ Pháp bãi lương hưu của Chaigneau. Ông mất tại Lorient ngày 31-1-1832, ở tuổi 63[24].
Chuyện Chaigneau cho ta thấy tình trạng chung: người Pháp đến nước ta, dù được trọng đãi, vẫn muốn trở về quê hương, và khi về, dù được vua biệt đãi, quà cáp, nhưng người (Pháp) thuật lại vẫn không vừa lòng, luôn tìm cách mỉa mai, tố cáo, trách móc vua và triều đình.
Giám mục Taberd
Jean-Louis Taberd, sinh ngày 18-6-1794, tại Saint-Étienne (Loire), thụ linh mục ngày 27-7-1817, làm trợ tế ở Montluel (Ain) và ở giáo khu Saint-Irénée, Lyon. Đi truyền giáo ngày 7-11-1820, thăng Giám mục Isauropolis và Giám mục Tông tòa Nam Hà ngày 18-9-1827, thụ phong tại Bangkok ngày 30-5-1830. Năm 1838, giữ quyền Giám mục Tông tòa vùng Bengale, qua đời ở Calcutta ngày 31-7-1840.[25]
Taberd ở Việt Nam từ 1820 đến 1837, sống 17 năm dưới triều Minh Mạng, là người chủ trì việc đưa các giáo sĩ vào lậu, bất chấp sự cấm ngặt của triều đình.
Năm 1825, thêm hai giáo sĩ Jaccard và Régereau vào lậu. Jaccard trốn ra Bắc. Tháng 1-1825 Régereau đi tầu Thétis vào Đà Nẵng, bị tố cáo, bị truy nã, trốn vào Nam, rồi phải đi Singapour, hai năm sau mới vào lại miền Bắc.
Vụ Régereau, khiến vua Minh Mạng nổi giận, xẩy ra tháng giêng, đến tháng 2 năm 1825, vua ra chỉ dụ cho quan trấn thủ các hải cảng phải tuyệt đối khám xét, không để cho một giáo sĩ nào lọt vào. Tuy vậy từ 1825 đến 1830 vẫn có 6 giáo sĩ vào lọt: Noblet, Bringole, Cuenot, Marchand, Mialon và Viale. Năm 1827, Giám mục Taberd được thăng chức Giám mục Tông tòa, chức này bị bỏ trống 5 năm, từ khi Giám mục Labartette qua đời năm 1823.
Một bức thư của Taberd nói về Lê Văn Duyệt
Thư này viết ở Huế ngày 28-2-1828:
«… (Lê-Van-Duyet) hầu như là (đại thần) duy nhất yêu quý nước Pháp và nhớ đến công trạng lớn lao của đức Giám mục Pigneau [Bá Đa Lộc] và của cả nước ta [Pháp]. Ông là người duy nhất mà Vua sợ. Ông đã mạnh mẽ chống lại việc lên ngôi của vua này [Minh Mạng], bởi vì không phải là con chính thức, nhưng ông vua quá cố [Gia Long] nhất định đưa lên […]
Chúng tôi đã viết thư cho ông đại thần này [Lê Văn Duyệt] và đã nhờ nhiều người trình bày với ông tình trạng của chúng tôi và nhất là tình trạng đáng thương của giáo hội Bắc Hà. Khi nghe kể, ông kêu lên: «Ta chẳng biết gì hết cả. Các thầy người Pháp đã phạm tội gì mà bị tàn sát như thế?… Nhà vua chiều chuộng bọn sư mô, nhưng bọn này đã giúp gì cho đất nước này? Nhà vua không nhớ ơn các giáo sĩ, đã cho chúng ta cơm gạo khi chúng ta đói khát, cho chúng ta quần áo, khi chúng ta trần truồng, không có gì để che thân… Nhà vua đền bao nhiêu ơn huệ bằng bao nhiêu bội bạc, như thế đó … Ta sẽ ra Huế, và ta sẽ nói với ông ta».
Quả thật, vị đại thần này từ Đồng Nai ra Huế vì nhiều việc trong tháng 12-1827.
Trong lúc tôi viết thư này cho ông, ông ta vẫn còn ở đây… Tôi đã được hai lần trình diện ông và ông tiếp đón nồng hậu…»[26]
Lá thư này, không ghi rõ Taberd viết cho ai, nhưng cho thấy vị Giám mục Tông tòa này, không hề ngần ngại đưa vào miệng Lê Văn Duyệt những câu, như: Nhà vua không nhớ ơn các giáo sĩ, đã cho chúng ta cơm gạo khi chúng ta đói khát, cho chúng ta quần áo, khi chúng ta trần truồng, không có gì để che thân” mà không ngượng ngùng chi cả. Bởi vì trong cả bộ sách đồ sộ Histoire de la Mission de Cochinchine, 1658-1823 (Lịch sử truyền giáo ở nước Nam, 1658-1823) của Andrien Launay, không thấy câu nào viết về chuyện: Các giáo sĩ đã cho chúng ta [người Việt] cơm gạo khi chúng ta đói khát, cho chúng ta quần áo, khi chúng ta trần truồng, không có gì để che thân».
Nhưng những lời bịa đặt này của Taberd được nhiều tác giả Pháp trích dẫn để khen ngợi Lê Văn Duyệt. Hoàng Cao Khải cũng vào bè Taberd, vinh thăng Lê Văn Duyệt.
Việc gọi các giáo sĩ về kinh dịch sách
Để ngăn ngừa việc giảng đạo, năm 1827, vua Minh Mạng ra lệnh cho giáo sĩ về kinh dịch sách. Là người uyên thâm nho học, không thể chấp nhận đạo Chúa, nhưng chính sách cấm đạo của vua rất trí thức: ông không bắt giáo sĩ vào tù mà ông sử dụng khả năng của họ rất đúng chỗ, bắt họ dịch sách.
Năm Đinh Hợi (1827) Minh Mạng thứ 8, Đại Nam thực lục chép:
“Bổ người Tây Dương là Phú Hoài Nhân [Marchand] làm Chánh thất phẩm thông dịch ty Hành nhân, Tây Hoài Hoa [Taberd hay Odorio?] và Tây Hoài Hóa [Gagelin] làm Tòng thất phẩm thông dịch ty Hành nhân, mỗi tháng cấp cho mỗi người 20 quan tiền, 4 phương gạo lương, 1 phương gạo trắng, sai phủ Thừa Thiên trông coi, cấm không được ra ngoài dạy học trò để truyền giáo. (Bọn Hoài Nhân đều là tên họ vua cho)”.[27]
Về việc này, Giám mục Taberd gửi thư về Hội Thừa Sai Paris trình báo như sau:
Huế, ngày 20-2-1828
“Trong tháng 12 năm 1826, vua gửi người đi tìm tôi ở chủng viện và ban hành một sắc lệnh gọi tất cả các giáo sĩ về kinh, để thay thế hai ông Chaigneau và Vannier làm thông dịch, vua cho mỗi người ba thoi bạc làm lộ phí, nếu ai trốn sẽ bị tội. Ở Bắc Hà không ai ra trình diện. Ở Đồng Nai [Sài Gòn], quan Công Thượng Vương [Lê Văn Duyệt] phái ông Régereau ở lại trông nom tu viện và gửi ông Gagelin, cha Odorico[28] và tôi [Taberd] về Huế. Tại đây, vua cấp cho một ngôi nhà trong thành phố, nhưng tôi bị bệnh kiết lỵ từ 15 tháng nay, ốm gần chết, nên được ở trong xóm đạo bên cạnh. Hai lần vua gửi các thầy thuốc đến chữa. Đến tháng 9 [1827] chúng tôi biết vua muốn gì: ngăn ngừa chúng tôi đi truyền đạo. Vua gửi cho chúng tôi phẩm hàm tước quan, nhưng chúng tôi viết đơn từ chối và xin vua cho được tự do. Chẳng biết đơn có đến tay vua hay không. Rất khó tiếp cận với vua vì các quan rất sợ ông. Vua muốn tìm người giỏi về thiên văn, chính trị và quân sự, nhưng nhất là muốn ngăn cản chúng tôi đi truyền đạo… “[29]
Những lời trên đây chứng tỏ Taberd kiên trì trong vị trí đối đầu: từ chối lệnh vua, tiếp tục tự do giảng đạo. Nhưng cho đến đây, vua Minh Mạng vẫn chưa áp dụng biện pháp thanh trừng.
Và ta thấy: Phú Hoài Nhân tức Marchand, được vua trọng đãi nhất, phong làm Chánh thất phẩm thông dịch ty Hành nhân. Sau này Marchand sẽ trở thành người cầm đầu giáo dân chiến đấu cùng loạn quân Lê Văn Khôi, chống lại triều đình và bị xử tử.
Loạn Lê Văn Khôi
Tháng 4-1833, Lê Duy Lương, nhân danh con cháu nhà Lê, khởi loạn ở Bắc, có giáo sĩ trợ giúp với chủ trương lật đổ triều Nguyễn mở triều đại nhà Lê mới, theo đạo Gia Tô.
Tháng 5-1833, Lê Văn Khôi, con nuôi Lê Văn Duyệt, khởi loạn trong Nam, với sự hỗ trợ của giáo dân do linh mục Marchand chỉ đạo, cũng muốn lật đổ triều Nguyễn, lập một “nước” ở Gia Định, theo đạo Gia Tô.
Cuộc nổi loạn Lê Văn Khôi khởi đầu từ năm 1832: nguyên trong số quan cai trị tỉnh Phan An (tức Gia Định), có bố chính Bạch Xuân Nguyên tàn ác, lạm dụng việc điều tra về Lê Văn Duyệt, lúc đó đã qua đời, để trị tội bọn bày tôi của Duyệt, trong số đó có Lê Văn Khôi, con nuôi của Duyệt.
Lê Văn Khôi âm mưu với bọn lính Hồi lương và Bắc thuận, là những tội pham ở Bắc bị đầy vào Nam làm lính, đêm 18 tháng 5 năm Quí Tỵ (5-7-1833), Minh Mạng thứ 14, Khôi cùng 27 lính Hồi lương vào dinh quan bố chính giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên. Tổng đốc Nguyễn Văn Quế đem quân đến cứu, cũng bị giết.
Khôi tự xưng là Đại nguyên soái, đặt quan chức như một triều đình riêng, chỉ trong một tháng, chiếm được sáu tỉnh Nam kỳ.
Vua Minh Mạng phái đại quân vào dẹp, gồm: các tướng Tống Phúc Lương, Nguyễn Xuân, Trương Minh Giảng làm tham tán, cùng với Phan Văn Thúy và Trần Văn Năng, thống lĩnh thủy bộ binh tượng vào đánh, trung quân của Khôi đầu hàng, Khôi liệu chống không nổi, thu quân vào thành Phan An, đóng cửa lại chống cự và sai người sang Xiêm cầu viện. Quân Xiêm chia làm 5 đạo thủy bộ sang đánh nước ta: Đạo thứ nhất, thủy binh, hơn 100 chiến thuyền đánh lấy Hà Tiên. Đạo thứ hai, bộ binh, đánh Nam Vang (Pnom Penh) rồi tiến chiếm Châu Đốc và An Giang, đạo thứ ba đánh Cam Lộ [Quảng Trị], đạo thứ tư đánh Cam Cát, Cam Môn [Nghệ An], đạo thứ năm đánh Trấn Ninh.
Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân, phá quân Xiêm ở mặt Nam. Nguyễn Văn Xuân và và Phạm Văn Điển phá quân Xiêm và quân Lào ở mặt trận Quảng Trị, Nghệ An và Trấn Ninh. Thành Phan An tức Gia Định do Lê Văn Duyệt xây toàn bằng đá ong (năm 1830) thành cao, hào rộng, rất kiên cố, không thể phá nổi. Quan quân thiệt hại rất nhiều. Lê Văn Khôi cũng bị bệnh chết.
Việc dẹp băng đảng Lê Văn Khôi gặp khó khăn, chính vua Minh Mạng điều khiển “cuộc chiến”. Quan quân nhiều lần tấn công vào thành Phan An, thất bại, vì loạn quân được giáo dân tiếp tế và bí mật thông báo tình hình tướng sĩ vây ngoài thành: những quyết định mật, chúng đều biết cả.
Đến tháng 7 năm Ất Mùi (tháng 9-1835) vua Minh Mạng quyết định cho tổng tấn công.
Giờ thìn, ngày 16 tháng 7 năm Ất Mùi (8-9-1835): các tướng Nguyễn Xuân, Phạm Hữu Tâm, các Tham tán Hồ Văn Khuê, Trần Văn Trí, Nguyễn Công Hoan, Tổng đốc Nguyễn Văn Trọng, Khâm phái Nguyễn Tri Phương, các Lãnh binh Mai Công Ngôn, Lê Sách, Trần Hữu Thăng, chia làm nhiều đường đánh vào, lấy lại được thành. Bắt hoặc chém 1832 loạn quân. Tin thắng trận về Kinh, vua mừng lắm. Làm thơ, khao quân, thưởng tướng.[30]
Đại Nam thực lục ghi:
“Sáu tên giặc hiện đã bị bắt là thủ nghịch [người cầm đầu] Nguyễn Văn Chắm cùng với Lê Bá Minh, Đỗ Văn Dự, Lưu Tín, Phú Hoài Nhân và con Lê Văn Khôi là Lê Văn Viên, phải mau mau tống vào cũi sắt, phái giải đến Kinh […] Còn lũ đầu mục ngụy [đầu mục là lãnh đạo một nhóm hay một làng] và đồ đảng ngụy theo giặc làm phản đã đến 3 năm, khiến cho quân dân gan óc lầy đất tội không kể xiết […] Vậy trước hãy tra rõ ngay quê quán những tên đầu mục giặc, đưa về bộ xét, rồi sau sẽ gộp với vợ cả, vợ lẽ, con trai, con gái của nghịch Khôi, đều lăng trì xử tử mà quăng xuống sông tất cả. […] Còn những đồ đảng giặc, không kể trai, gái, già, trẻ, chẳng cần tra rõ quê quán, đều điệu ra ngoài đồng, chém đầu, rồi đào một cái hố lớn ở cách thành vài dặm về mặt sau, vứt thây xác xuống đó mà lấp đất, chất đá đắp thành gò to trên dựng bia khắc chữ “nghịch tặc biền tru xứ”(chỗ nghịch tặc chụm đầu bị giết) để tỏ rõ phép nước, và hể hả lòng người”.[31]
Sáu đầu đảng bị trừng trị thảm khốc: Sau khi bị xử lăng trì, “Đầu các nghịch Minh, nghịch Tín, nghịch Dự và Văn Viên trước hãy giã nhỏ, cho vào hố xí. Đầu nghịch Khôi [con Lê Văn Khôi], nghịch Chắm, nghịch Du đưa khắp đến các địa phương từ Quảng Trị ra Bắc, Quảng Nam vào Nam, cũng treo lên sào cao bêu ba ngày, rồi đưa về chỗ địa phương mà chúng đã phạm tội, giã nhỏ, cho vào hố xí”[32]
Phú Hoài Nhân, tức Cố Du, tên thật là Mã Song (Marchand) là người được vua Minh Mạng ban phẩm tước cao nhất trong hàng giáo sĩ dịch sách, là một trong những lãnh đạo loạn quân, cỡi voi tẩu thoát, trong trận đánh cuối cùng. Marchand bị xử lăng trì cùng với 5 đầu đảng khác.
Việc Lê Văn Khôi nổi loạn, cầu cứu quân Xiêm, tấn công trên toàn lãnh thổ, khiến đất nước xáo trộn, vừa phải đánh ngoại xâm, vừa dẹp loạn, trong ba năm: 1833, 1834, 1835, làm hao binh, tổn tướng. Dù biết có cha cố chỉ đạo giáo dân tiếp sức với loạn quân, nhưng vua Minh Mạng vẫn chưa có phản ứng gì. Chỉ từ khi bắt được cố Du (Marchand) tại trận, trong số những người lãnh đạo cuối cùng của loạn quân Lê Văn Khôi, vua Minh Mạng mới thay đổi chính sách với đạo Gia-Tô: Ra lệnh cấm đạo gắt gao hơn trước.
Nhưng các giáo sĩ vẫn bất chấp lệnh cấm, lẻn vào, và được giáo dân che chở.
Đến cuối năm 1840, Đại Nam thực lục ghi tình hình ở Nam Định:
“Bọn theo tả đạo, vào khoảng canh vắng đêm khuya thường nghe chúng đọc ngầm kinh của đạo Gia Tô.
Vua dụ rằng: “Những dân trước theo tả đạo, trong óc bị che lấp đã sâu, đã nhiều lần nghiêm cấm, nguồn tệ vẫn chưa dứt, thực là không thoả mãn lòng người. Nay nên nghiêm sức phủ huyện sở tại khuyên bảo cho khéo, không nên vội đốc trách làm dao động nhiễu loạn, cũng không nên cho là việc ngẫu nhiên, qua việc lại quên đi, cốt phải dỗ bảo có cách, khiến cho dân chúng dần dần tiến lên, lâu ngày ngấm nghiã, tự nhiên có thể tiêu tan ngầm ngấm được sự tập quán đã lâu vậy“[33]
Lời Minh Mạng cũng như lời Thiệu Trị, Tự Đức sau này, gần giống nhau, được ghi lại trong Đại Nam thực lục: không ra lệnh đàn áp hay giết dân, trong các dụ viết hay nói, vua Minh Mạng chỉ dặn các quan phải “khuyên bảo cho khéo, dỗ bảo có cách“, vua Tự Đức dụ rằng: dân chúng không biết, dễ bị lung lạc, phải phân chia họ đi các nơi khác nhau, đừng để cho ở gần các cha cố.
Dụ cấm đạo đầu tiên
Dụ này ra ngày 6-1-1833 (ngày 16-11-Nhâm Thìn), thời điểm Lê Văn Khôi khởi loạn, lời lẽ ôn tồn, khuyên giải, mặc dù đạo Gia-tô đã khá mạnh, quần thần có người theo:
«Vua nghe thấy nói rằng: «Đạo Gia Tô, ta cho chỉ có lũ ngu mới bị mê hoặc, không ngờ ngay ở bên tả hữu ta cũng có kẻ tin theo, thật đáng rất lạ». Vua bèn sai bộ Hình bắt để trị tội.
Dân ở phường Nam Dương Tây, tỉnh Quảng Trị, trước đây cũng theo đạo, đến bấy giờ biết hối, đem hủy hết các ảnh, tượng và kinh thánh, còn nhà thờ, nhà giảng thì triệt hạ, sung công. Quan tỉnh đem việc tâu lên.
Vua đặc cách tha tội cho họ, nhân dụ bộ Hình rằng: «Đạo Gia Tô nguyên từ người Tây dương đem vào truyền bá đã lâu, dân ngu phần nhiều bị mê hoặc mà không biết hối. Thử nghĩ: cái thuyết thiên đường, tóm lại, chỉ đều là chuyện hoang đường, không có bằng chứng. Hơn nữa, không kính thần minh, chẳng thờ tổ tiên, rất trái với chính đạo. Thậm chí lập riêng nhà giảng tụ tập nhiều người, cám dỗ dâm ô phụ nữ, lừa gạt lấy mắt người ốm. Những việc trái luân lý, hại phong hoá, điều ấy kể ra còn nhiều, thực đã phạm đến pháp luật. Đạo ấy lại quy là tà thuật hơn đạo nào hết. Trong luật đã có điều cấm rõ ràng rồi. Trước kia những xã Mông Phụ ở Sơn Tây và xã Dương Sơn ở Thừa Thiên tập nhiễm đạo ấy, vừa mới nhóm lên, tức thì nghiêm trị. Đó là mắt thấy tai nghe, đổi theo đường lành tránh xa tội lỗi. Nay dân hạt Quảng Trị đã biết hồi tâm nghĩ lại, theo về đường thiện, phải nên, ta đã xuống chỉ gia ơn miễn tội rồi. Nhân nghĩ, có kẻ còn cố chấp mê man, trôi giạt quên đường về. Song, tính giữ đạo thường, người người đều có, nếu biết tỉnh ngộ, liền có thể trở thành lương thiện. Phải nên một phen khuyên bảo khiến họ biết đường đổi mới, để tỏ cái ý, trước hãy giáo dục, sau mới dùng đến hình phạt.
Vậy truyền dụ Tổng đốc, Tuần phủ các tỉnh bá cáo khắp quan, quân, dân, thứ trong hạt. Có ai trước đã trót theo đạo Gia tô, nay nếu cảm phát lương tâm biết sợ, biết hối, thì cho phép được đến bày tỏ với quan sở tại tình nguyện bỏ đạo. Quan địa phương xét quả thành thực thì cho làm ngay tại chỗ: bước qua cây thập tự rồi làm tập tâu lên vua, sẽ được chuẩn cho miễn tội. Còn những nhà thờ, nhà giảng, thì cho lệnh hủy diệt đi. Bao nhiêu việc mê tín sai lầm trước đó đều không xét nữa. Sau phen răn bảo thiết tha này, nếu kẻ nào không chừa thói cũ còn dám lẻn lút tụ tập nhau, cam tâm vi phạm lệnh cấm, một khi bị phát giác ra thì liền bị trị tội nặng. Lại nghiêm cấm lũ võ biền, lại dịch và các tổng lý không được tạ sự mà nộ nạt, hống hách, bắt càn, nhiễu dân. Kẻ nào vi phạm sẽ phải tội.»[34]
Chỉ dụ cấm đạo trên đây chứng tỏ vua Minh Mạng là người hay chữ, lời văn điềm đạm, khoan dung mà vẫn đầy quyền uy. Nhưng việc cấm đạo rất nghiêm khắc. Vua coi đạo Gia-tô là «tà thuật», khái niệm «thiên đường» là «hoang đường» vì không có bằng chứng. «Không kính thần minh [Thần Phật] chẳng thờ tổ tiên» là lỗi nặng trong xã hội Việt Nam. Việc «lập riêng nhà giảng tụ tập nhiều người, cám dỗ dâm ô phụ nữ, lừa gạt lấy mắt người ốm» có lẽ vua nghe báo cáo bịa đặt của những người ghét đạo.
Minh Mạng không nói gì đến giáo sĩ Pháp, tuy vậy, trên thực tế, giáo sĩ Pháp rất sợ, bỏ chạy sang Lào, Xiêm, để tránh bị bắt về Kinh dịch sách, hoặc bị quản thúc tại giáo phận của mình.
Trường hợp Gagelin và Marchand
Vì loạn Lê Văn Khôi, được giáo sĩ và giáo dân giúp sức, vua Minh Mạng mới ra chỉ dụ cấm đạo và Gagelin, sẽ là giáo sĩ Pháp đầu tiên bị xử tử, năm 1833.
François-Isidore Gagelin, sinh ngày 10-5-1799 tại Montperreux (Doubs), đi Nam Hà truyền giáo ngày 7-11-1820, được phong linh mục ngày 28-9-1822, bị kết án xử giảo (thắt cổ), xử ngày 17-10-1833, tại Bãi Dâu, trên bờ sông Hương. Được Giáo hoàng Léon XIII, tuyên dương Bienheureux (Chính quả) ngày 7-5-1900[35].
Giáo sĩ Gagelin bị bắt vì tội đã trốn khỏi địa hạt bị quản thúc, đi khắp nơi giảng đạo. Các giáo sĩ Jaccard và Odorico cũng bị bắt, nhưng chỉ bị đuổi sang Xiêm, rồi ít lâu sau, tình hình dễ thở hơn, họ lại tìm cách trở về Việt Nam. Có lẽ Gagelin còn có tội khác hoặc tái phạm nhiều lần, nên ông đã bị xử giảo ngày 17-10-1833.
Gagelin là giáo sĩ Pháp đầu tiên bị xử tử hình.
Giám mục Taberd, Đại diện Tông toà, bị con chiên buộc tội là nguyên nhân những bất hạnh của họ, sợ quá, chạy tuốt sang Xiêm, rồi đi Pinang, phong chức cho Cuenot, trợ tá, làm Giám mục Métellopolis (tháng 5-1835). Tháng 6-1835 Cuenot trốn vào Nam Hà.
Taberd đi Calcutta, tại đây cho in cuốn tự điển Taberd, ghi là của Bá Đa Lộc soạn năm 1771-1772. Ông qua đời ở Calcutta, năm 1840.[36]
Người thứ hai bị xử tử là cố Du tức cha Marchand, bị bắt trong sào huyệt cuối cùng của loạn quân Lê Văn Khôi, bị xử lăng trì ngày 30-11-1835 cùng với 5 người khác.
Lăng trì là tội nặng nhất (cắt từng miếng thịt cho đến chết), Gia Long đã áp dụng cực hình này với bốn con của Quang Trung, nhưng cho voi xé xác, và đem hài cốt Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, giã nát rồi vứt đi.
Minh Mạng có lẽ vì tức giận (đánh ba năm mới dẹp xong loạn Lê Văn Khôi) và muốn làm gương, nên đã áp dụng hình thức nặng nề nhất của án tử hình trong luật Gia Long.
Tuy vậy đạo Gia-Tô vẫn tiếp tục bành trướng. Giám mục Cuenot, trốn ở Go thi (Gò Thị) vùng Bình Định, tiếp tục giảng đạo.
Năm 1836, thêm bẩy giáo sĩ: Candalh, Jeanne, Lefèbvre, Viale, Miche, Duclos, Chamaison vào lậu, họ lập hai trường dạy đạo, một ở Bắc, một ở Nam, hoạt động công khai như không hề có dụ cấm đạo.[37]
Năm 1836, định điều lệ cấm tà giáo và người Tây dương
Tháng 2-1836, Minh Mạng sai định rõ điều lệ «cấm chỉ tà giáo Tây dương».
Tả phó đô ngự sử viện Đô Sát, Phan Bá Đạt tâu, đại ý:
«Tà giáo Tây dương làm say đắm lòng người, thực là một đại kiệt hiệt hơn hết trong các đạo dị doan. Bấy lâu nay được răn dạy cặn kẽ, huỷ bỏ nhà thờ, cấm họp giảng đạo» mong cho mọi người thay đổi dần dần. Nhưng từ «năm Minh Mạng thứ 14 (1833) thành Phiên An cũ nổi biến, có đạo trưởng người Tây tên là Mã Song [Marchand], đồng loã với nghịch Khôi, ngầm thông với giặc Xiêm, tập hợp đồ đảng theo đạo Gia Tô, cố giữ cô thành, chống cự quan quân, lâu đến 3 năm!»… Vì vậy, từ nay quyết định chặn đứng tệ nạn này và áp dụng luật:
Trong các tấn phận [chỗ phòng thủ] ở cả nước, tầu bè Tây dương chỉ được vào Đà Nẵng, còn các cửa biển khác cấm hết. Thuyền bè Tây dương đến đâu thì viên tấn thủ phải khám xét. Kẻ nào lẩn trốn ở lại, bị tấn thủ bắt giải, sẽ bị khép vào tội trinh thám ngoại quốc vào dò la trong nước, xử tội chém. Nếu viên tấn thủ cố tình dung túng để cho đạo trưởng Tây dương hay người Tây dương lén lút trú ngụ, cũng bị tội chém như phạm nhân.
2- Thuyền bè của người Thanh vào buôn bán thường thuê hoa tiêu người Tây dương, hoa tiêu Tây dương phải ở trên tầu, không được lên bờ.
3- Đạo trưởng Tây dương nào trốn trong dân gian, bị bắt cũng phải tội chết. Kẻ nào dung túng cũng bị đồng tội như phạm nhân.
4- Các đốc, phủ, bố, án phải thông tin răn dạy trong hạt mình, nếu không sẽ bị phạt, chiếu theo nặng nhẹ, phạt 80 trượng, hoặc giáng cấp…vv[38]
Bộ điều lệ cấm người Tây dương và giáo sĩ Tây dương trốn vào Việt Nam, năm 1836, là nghiêm khắc nhất từ trước đến nay: các giáo sĩ vào lậu, bị bắt sẽ bị xử tử. Đạo luật này được áp dụng dưới thời Thiệu Trị và Tự Đức, nhưng hai vua nhân nhượng không thi hành án tử hình, nên các giáo sĩ vẫn tiếp tục trở lại.
Chiến tranh nha phiến: Năm 1838, tình hình nước Trung Hoa đã găng lắm. Lo ngại quân Tây dương sẽ tràn vào Việt Nam, vua Minh Mạng áp dụng án tử hình cho các giáo sĩ trốn vào.
Thêm hai giáo sĩ bị tử hình là Linh mục Jaccard ở Cam Lộ ngày 21-9-1838 và Giám mục Borie bị chém đầu tại Đồng Hới ngày 24-11-1838.
Đó là những lý do tại sao dưới triều Minh Mạng có tới bốn giáo sĩ người Pháp bị tử hình.
Minh Mạng không hề “bế quan toả cảng”
Vua Gia Long, chủ trương bế quan toả cảng thực sự, vì ông sợ Anh, Pháp xâm chiếm, nhưng vua Minh Mạng chủ trương giao thiệp với nước ngoài. Ông gửi nhiều phái bộ xuất ngoại với mục đích: đo lường sự đe dọa của Tây phương, học hỏi các tiến bộ khoa học và khảo sát tổ chức thương nghiệp của họ để có thể giao tiếp.
Từ năm 1825, một năm sau khi Anh làm chủ Singapour, vua Minh Mạng sai phái đoàn sang bán đảo này để thương lượng độc quyền buôn bán, việc này được ghi nhận như sau:
“Sự buôn bán lớn giữa Singapour và xứ Đàng Trong Việt Nam là do những thần dân người Hoa của nhà vua Việt Nam tiến hành. Tuy nhiên, năm 1825, vua đã gửi hai đội vũ trang và một đoàn quan lại tới Singapour để mua hàng len và hàng thủy tinh. Sau này mới phát hiện là những viên quan này cũng tới để về tường trình [với vua] những điều kiện và quan điểm của những thuộc địa châu Âu ở Eo Malacca. (…) Cuộc viếng thăm của những chuyến thuyền buôn đã kéo theo độc quyền nhà vua về buôn bán với Singapour”[39].
Ngoài việc gửi sứ sang Tầu dò xét nhà Thanh, năm 1830, Minh Mạng còn gửi Lý Văn Phức (người gốc Tầu) đi Bengale, xem tình hình người Anh ở Ấn Độ. Khi về ông viết ba tác phẩm Tây hành kiến văn kỷ lược, Tây hành thi lược, Tây hành thi kỷ. Những sách này không biết đã được dịch ra chưa.
Năm 1831, vua lại gửi Phan Thanh Giản và Hà Tôn Quyền đi Batavia (Jakarta), dò xét người Anh ở Tân Gia Ba (Singapour) và người Hòa Lan ở Indonésia.
Năm 1832-1833, vua gửi phái đoàn Phan Huy Chú đi Singapour và Batavia, trở về ông viết cuốn Hải Trình Chí Lược (Phan Huy Lê, Tạ Trọng Hiệp, Claudine Salmon dịch). Qua tác phẩm này, ta thấy rõ Minh Mạng giao cho phái đoàn nhiệm vụ phải học hỏi những cơ sở của Tây phương và dò thám những ý đồ và mục tiêu của họ.
Ngoài ra, Minh Mạng còn bắt con trai của Chaigneau, là Đức, từ Pháp theo cha về Việt Nam, phải kể hết cho ông nghe bên Pháp đang có những phát minh gì?
Tháng 11-1839, Minh Mạng cho chế tạo một thuyền lớn chạy bằng máy hơi nước, tốn 11.000 quan tiền, các quan có ý tiếc, vua bảo: ta muốn thợ của ta học hỏi những kỹ thuật mới về máy móc tân tiến, tốn bao nhiêu cũng phải trả.
Riêng trong tháng 11-1839 [bắt đầu chiến tranh nha phiến giữa Anh và Trung Hoa], Minh Mạng gửi một lúc nhiều phái đoàn ra nước ngoài: Đào Trí Phú, Trần Tú Dĩnh đi Batavia (Jakarta) Cao Hữu Tán đi Tambelan (một đảo của Indonésia), Nguyễn Đức Long, Lê Bá Tú, Phan Tĩnh đi Tiểu Tây (Ấn Độ), Trần Đại Bản, Nguyễn Du, Lê Văn Thu, Đỗ Mậu Thưởng đi Singapour, và lần đầu tiên, vua sai Trần Viết Xương và Tôn Thất Thường sang Pháp và Anh với hai thông ngôn để do thám tình hình Âu châu.[40]
Phái đoàn đi Pháp và Âu Châu năm 1839-1841
Cuối đời Minh Mạng, tình hình Trung Hoa trở nên nguy ngập, vì bị liệt cường tấn công mọi mặt. Quân Anh đem nha phiến trồng ở Ấn Độ vào bán cho dân Trung Hoa. Năm 1830, nước Trung Hoa có 10 triệu người nghiện. Năm 1838, vua Quang Đạo quyết định cho người nghiện một năm để cai, hết thời hạn đó mà còn hút sẽ bị xử tử. Quan Khâm sai Lâm Tắc Từ được cử đến Quảng Đông để đối phó với đại nạn này, ông ra lệnh tịch thu và tiêu hủy nha phiến của Anh đổ xuống biển. Nước Anh phản ứng lại, tháng 6-1840, 15 chiến thuyền Anh chở 15.000 quân tới Macao, khai chiến. Chiến tranh nha phiến lần thứ nhất, bùng nổ.
Vua Minh Mạng lo lắng, muốn biết rõ tại sao tầu chiến Pháp thường xuyên ghé Đà Nẵng, vua sai một phái đoàn sang Pháp và Anh để thăm dò tình thế.
Linh mục Delvaux, tác giả bài L’Ambassade Minh Mạng à Louis-Philippe 1839 à 1841 (Sứ thần Minh Mạng gửi sang Louis-Philippe 1839-1841)[41], sau khi chép lại những “tội ác” mà Louvet và Trương Vĩnh Ký đổ cho Minh Mạng, Delvaux đã thuật lại khá rõ chuyến đi của phái đoàn Việt Nam do vua Minh Mạng gửi sang Pháp năm 1839. Delvaux viết:
“Việc nước Anh đem súng đạn xâm phạm nước Tầu vì quyền lợi thương mại, giáng xuống như một sự đe dọa, như tiếng còi báo động đến từ người Âu”.
Thực thế, năm 1839, là năm bản lề: sau khi quân Anh xâm chiếm Ấn Độ, gây chiến tranh nha phiến với Trung Hoa, Pháp thấy Anh thành công một lần nữa nhờ bạo lực, bèn bắt chước gửi nhiều tầu chiến đến biển Đông.
Vì vậy, cuối năm 1839, vua Minh Mạng gửi một phái đoàn sang Âu châu thăm dò tình thế.
Trong thư ngày 25-4-1840, linh mục Régereau, nguyên trợ tá của Giám mục Taberd, sau là giáo sư chủng đạo Pinang, viết:
“Ngày 28-2-1840, một chiến thuyền của vua nước Nam đến Pinang… Chiến thuyền này đến Calcutta để kiểm lại vỏ và thân tầu, trình báo tất cả việc quân Anh ráo riết sửa soạn chiến tranh [16 chiến hạm Anh sẽ tấn công Quảng Đông tháng 6-1840]. Một chiến thuyền khác của nhà vua đi Batavia để xem quân Hòa Lan động tĩnh thế nào, bởi Minh Mạng không ngủ yên. Một chiến thuyền thứ ba gửi đi Luân Đôn và nước Pháp. Nhà vua rộng rãi bỏ ra 20.000 quan tiền để chi phí chuyến đi này. Chắc chắn các sứ giả [VN] sẽ chẳng nói với chính phủ Pháp việc họ đối xử [tồi tệ] với người Pháp như thế nào trong xứ họ, v.v… Mà có nói, cũng chỉ nói láo, chứ gì.” (Lời bàn của Delvaux trong bài đã dẫn).
Delvaux, ghi thêm nhiều chi tiết:
Phái đoàn gồm 4 người: 2 sứ giả: Tôn Thất Thường 40 tuổi và Trần Viết Xương, 45 tuổi, và hai thông ngôn 20 và 22 tuổi, thuộc gia đình Võ Dõng, một người nói tiếng Pháp, một tiếng Anh. Đi từ Singapour đến Locmariaquer (Bretagne) ngày 2-11-1840. Tờ Armoricain ở Brest, số ra ngày 25-11-1840, dành nhiều cột cho phái đoàn, mô tả hình dáng, y phục, phỏng vấn, đưa tin, trong đó có những dòng: “Đội hàng hải thương thuyền của nhà vua thường xuyên giao thiệp với Batavia, Pháp ít có gì để trao đổi thương mại với Việt Nam… Những giáo sĩ, sau thời gian bị đán áp, đã được đón nhận ở Việt Nam, ngay cả ở trong triều…”
Điểm này cho thấy vua Minh Mạng đã thay đổi chính sách với giáo sĩ và đang chuẩn bị việc giao thương với Anh, Pháp, khi gửi phái đoàn sang Pháp.
Đến Paris, phái đoàn được báo chí đón tiếp nồng hậu, mời đi xem Opéra, ngồi ghế thượng hạng của các chính trị gia hàng đầu. Ngày 5-1-1841, phái đoàn dự cuộc họp của Thượng nghị viện với Thống chế Soult, Thủ tướng và ông Cunin-Gridaine, Bộ trưởng Thương mại.
Tờ Moniteur Universel ra ngày 5-1-1841 kể: “Hôm tiếp kiến ông Bộ trưởng Thương mại, họ mặc đại triều. Mỗi khi thấy điều gì lạ, họ đều thản nhiên rút bút, mực, giấy, gài ở đai lưng ra ghi chép, dù ở ngoài đường, chẳng phiền hà bận tâm gì cả”. Ngày 6-1-1841, tờ báo viết: “Phái đoàn đến Thượng nghị viện ngày 5-1. Tất cả mọi người đều nhìn, họ tỏ ra thản nhiên không hề nao núng trước những con mắt hiếu kỳ.”
Nhưng từ ngày 6-1-1841 trở đi, dường như có lệnh của chính phủ Pháp, không báo chí nào đưa tin gì nữa; ngược lại báo chí công giáo tố cáo mạnh mẽ việc “giết đạo” ở Việt Nam.
Giám đốc Hội Thừa Sai viết thư cho vua Louis-Philippe và cho Đức Giáo Hoàng “báo cáo” sự có mặt các sứ giả của Minh Mạng ở Paris, Giáo hoàng lập tức viết thư cho Louis-Philippe yêu cầu dùng thẩm quyền của nhà vua để đòi ngừng việc «đàn áp» đạo. Nhiều giám mục viết thư cho Thống Chế Soult, Thủ tướng và các Bộ trưởng, được họ hứa sẽ can thiệp.
Giám mục Chalons-sur Marne, rồi Giám mục Mans viết thư cho Martin du Nord, Bộ trưởng Tư pháp kiêm Tôn giáo của Pháp, với những lời lẽ cực kỳ mạnh mẽ:
“Minh Mạng là bạo chúa điên cuồng nhất, vượt qua tất cả những bạo chúa từng được nói đến trong lịch sử” (Nguyên văn: Minh Mạng, le plus furieux tyran qui surpasse tous ceux dont on a parlé dans l’histoire).[42]
Martin du Nord chuyển thư của hai vị giám mục đến Guizot, Bộ trưởng Ngoại giao, là người thật sự làm chủ nước Pháp từ 1840 đến 1848. Không biết Guizot trả lời thế nào. Dường như Guizot cũng không lợi dụng dịp này để đòi triều đình Huế ngừng «đàn áp» đạo thiên chúa. Chỉ có vua Louis-Philippe không tiếp phái đoàn, lấy cớ sứ bộ không xin bệ kiến theo đúng nghi thức truyền thống, việc đó chắc để trả lời việc Minh Mạng không tiếp các phái đoàn Pháp trước đây. Sau đó phái đoàn sang Anh, rồi trở lại Bordeaux lên tầu về Huế, đến nơi thì vua Minh Mạng đã qua đời.
Một số thừa sai cũng sắp lên tầu ở Bordeaux, kể lại: “Tại Pouliac chúng tôi gặp những người trong phái đoàn Minh Mạng sửa soạn về nước, họ rất hài lòng về sự tiếp đón của chúng ta. Chúng tôi dẫn anh trẻ tuổi nhất về phòng trò chuyện. Hỏi anh ta về gia đình, về đất nước, về sự tàn sát đạo ở xứ anh. Anh ta trả lời tất cả với sự lanh trí hiếm có và sự ngây thơ thật thà đáng trọng. Anh ta bảo cha mẹ anh theo đạo; rằng từ nhỏ anh đã quen với các quan đại thần; anh ta đợi đến tuổi 25 (hiện mới 19), sẽ đổi địa vị, và theo đạo của cha mẹ… anh vô cùng mừng rỡ nhận những hình ảnh [đạo chúa] mà chúng tôi gửi tặng cha mẹ anh.”[43]
Đăng lại những dòng này, Delvaux phê bình: “Người trẻ tuổi này, con của giáo dân, có thể theo đạo (có thể bỏ đạo). Minh Mạng gửi sang Pháp để tỏ thái độ chiết trung của mình, khôn khéo tính trước ảnh hưởng của anh ta tới những người Pháp, cùng đạo”.
Một trong hai vị sứ giả [Tôn Thất Thường hay Trần Viết Xương] sau khi về nước kể rằng: Một vị quan võ hàng đầu trong chính phủ Pháp đã nói với ông: “Tất cả thầy tu đến nước ông toàn bọn khốn nạn vô gia cư vô nghề nghiệp. Nếu vua nước ông thích chặt đầu ai cứ việc, chúng tôi cũng chẳng tiếc gì” [Tous ces prêtes qui vont chez vous ne sont que des misérables sans feu ni lieu. S’il plait à votre Roi de leur trancher la tête, nous ne le regrettons pas]. Những lời này, qua việc dịch lại của cha Miche, đến tai Thống chế Soult, dĩ nhiên ông cải chính, coi như là điều “không thể có“, “không thể tưởng tượng được”.
Lời ông đại tướng Pháp có lẽ không hoàn toàn “phũ phàng” như thế, nhưng chắc ý không sai: quân đội Pháp chẳng màng gì đến việc can thiệp để “cứu đạo”, họ hành động theo mệnh lệnh quân sự, ta sẽ thấy thái độ phớt lờ của Trung tá Lapierre trước nhiệm vụ đến «cứu» giám mục Lefèbvre, năm 1847, ở Đà Nẵng.
Tóm lại, sự tiếp đón phái đoàn Việt Nam của chính phủ Pháp năm 1839-1841, chứng tỏ uy tín của Việt Nam ở Âu châu, mặc dù khi vua Minh Mạng gửi phái đoàn đến Pháp, giới thừa sai đã không ngần ngại dùng những thủ đoạn tồi tệ nhất để bôi nhọ nhà vua, mong chính phủ Pháp “thanh trừng” Việt Nam, nhưng hầu như họ đã không đạt được kết quả.
Việc gửi phái đoàn sang Âu Châu, chứng tỏ Minh Mạng muốn đi một con đường mới: Mở cửa tiếp đón người Âu và thực sự canh tân đất nước theo đà tiến của nước ngoài.
Nhưng khi phái đoàn trở về Huế, vua Minh Mạng đã qua đời, ông mất đột ngột ở tuổi 50.
Đại Nam thực lục ghi ngày Ất dậu (27) vua ốm nặng, ngày Giáp Thân (28) vua mất. Tức ngày 28, tháng 12, năm Canh Tý (20-1-1841)[44] Có lẽ vì không được ghi vua chết bất đắc kỷ tử.
Tài liệu Pháp viết rõ hơn: vua mất ngày 20-1-1841, vì ngã ngựa.[45]
Thiệu Trị kế nghiệp. Nhà vua hiền lành. Vị trí Việt Nam thay đổi: không còn là một nước có người cầm quyền mạnh mẽ. Những thế lực chờ đợi để xâm chiếm Việt Nam tái hiện.
Dưới thời vua Thiệu Trị, Giám mục Lefèbvre sẽ là nhân vật chủ chốt dẫn đến cuộc chiến xâm lược Việt Nam lần thứ nhất của Pháp.
(Còn nữa)
Thụy Khuê
thuykhue.free.fr
[1] Những tội ác bịa đặt này là hủ hóa với chị dâu rồi giết đi cùng với các cháu và bức tử Nguyễn Văn Thành, xem kỳ trước.
[2] Trong cuốn «Cours d’histoire annamite à l’usage des Ecoles de la Basse-cochinchine» (Giáo trình lịch sử An Nam dùng trong các trường ở miền Nam) in năm 1875 và 1879.
[3] Thư Giám mục Labartette viết cho ông Baroudel, thủ quản tu viện Macao ngày 8-5-1819; thư Labartette viết cho de la Bissachère, Giám đốc Hội Thừa Sai, ngày 9-5-1819; thư Labartette viết cho Hội Thừa Sai ngày 17-5-1819 và thư Vannier viết cho Baroudel ngày 15-6-1819, in trong Launay, III, trang 434- 435.
[4] Về Bissachère, xin xem Vua Gia Long và người Pháp của Thụy Khuê, Nxb Hồng Đức và Saigonbooks, 2017.
[5] Từ 1192 đến 1868, Nhật ở dưới chế độ Mạc phủ, vua chỉ làm vì, Shogun (Tướng quân) là người đích thực trị vì giống như chế độ vua chúa thời Trịnh Nguyễn, ở nước ta.
[6] Theo Jean Lacouture, trong bài «La mission japonnais de François Xavier», in trong tạp chí Thụy Sĩ Choisir số tháng 11-2002.
[7] Theo Syvie Morishita, Histoire de l’Eglise du Japon (Lịch sử đạo công giáo ở Nhật) in trong tập san La Nef tháng 2-2017, số 289, bản trên mạng.
[8] Thụy Khuê, Vua Gia Long và người Pháp, chương 9: Ký sự Bissachère, thủy tổ sự bóp méo lịch sử, t.215- 232.
[9] Thụy Khuê, Vua Gia Long và người Pháp, trang 217, viết theo Tiểu sử de la Bissachère do Maybon soạn, in trong bài Tựa cuốn Ký sự Bissachère.
[10] Đại Nam thực lục chính biên, tập Một, trang 564.
[11] Đại Nam thực lục chính biên, tập Một, trang 603.
[12] Kergariou, La Mission de la Cybèle en Extrême Orient 1817, trang 127.
[13] In trong Tập san Đô Thành Hiếu Cổ (BAVH) 1923, quyển I.
[14] Nguyên văn tiếng Pháp câu cuối: «Je dois de plus informer V.M que si elle accorde un établissement ou facilité de commerce en quelque manière que ce soit, aux ennemis de la Grande-Bretagne, V. M. voudra bien considérer qu’en contractant avec eux, c’est en conséquence encourir le ressentiment du Gouvernement britannique”. (André Salles, Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille (Jean-Baptiste Chaigneau và gia đình) in trong BAVH, 1923, trang 60).
[15] Thụy Khuê, Vua Gia Long và người Pháp, trang 637-638.
[16] Đại Nam thực lục chính biên, Tập Bốn, trang 779.
[17] Đại Nam thực lục chính biên, Tập Hai, trang 485.
[18] Đại Nam thực lục chính biên, Tập Bốn, trang 917.
[19] Dịch lại bản dịch của Georges Taboulet, in trong cuốn La Geste française en Indochine (Huân trạng của người Pháp ở Đông Dương), tome 1, nxb Andrien-Maisonneuve, Paris 1955, trang 322.
[20] Documents relatifs à l’époque de Gia Long (Tài liệu liên quan đến thời Gia Long) của linh mục Cadière, (Document LXII), in trong Bulletin de l’Ecole française d’Etreme-Orient (BEFEO) (Tập San Trường Viễn Đông Bác Cổ), Tome 12, 1912, trang 1-82.
[21] André Salles, Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille (Jean-Baptiste Chaigneau và gia đình) in trong (BAVH, 1923, quyển I, trang 90.
[22] André Salles, Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, quyển I, trang 91.
[23] André Salles, Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, quyển I, trang 101.
[24] André Salles, Jean-Baptiste Chaigneau et sa famille, BAVH, 1923, quyển I, trang 102.
[25] Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III, trang 400-401.
[26] Annales de la Propagation de la Foi (Biên niên lịch sử truyền giáo) 1830-31, t. IV, p.359-361, in lại trong Taboulet, La geste française en Indochine, Tome I, trang 325.
[27] Đại Nam thực lục chính biên, tập 2, trang 649.
[28] Cha Odorico, franciscain, bị bắt năm 1833, chết trong tù năm 1833, chú thích Taboulet, quyển 2, trang 327.
[29] Thư Giám mục Taberd gửi Hội Thừa Sai Paris, viết từ Huế ngày 20-2-1828, Arch. Miss. Etrang. Dossier Cochinchine occcidentale, Texte inédit, in trong Taboulet, quyển 1, trang 327.
[30] Đại Nam thực lục chính biên, tập 4, các trang 713,714,715.
[31] Đại Nam thực lục chính biên, tập 4, các trang 717, 782, 783.
[32] Đại Nam thực lục chính biên, tập 4, trang 783.
[33] Đại Nam thực lục chính biên, tập 2, trang 684.
[34] Đại Nam thực lục chính biên, tập 3, trang 415-416.
[35] Lịch sử truyền giáo ở Nam Kỳ, Launay, III, trang 401.
[36] Louvet, La Cochinchine religieuse, tập II, trang 96.
[37] Louvet, La Cochinchine religieuse, tập II, trang 99-100.
[38] Đại Nam thực lục chính biên, Tập 4, trang 838-842.
[39] Wong Lin Ken, 1960, t. 155-56, theo chú thích số 14 của Phan Huy Lê, t. 129, Hải Trình Chí Lược.
[40] Đại Nam thực lục chính biên, Tập 5, trang 588.
[41] Bài này in trong Tập San Đô Thành Hiếu Cổ (BAVH), 1928, quyển 4, trang 257-264.
[42] Trích thư của Prilly, Giám mục Chalons sur Marne gửi Bộ trưởng Tư pháp kiêm Tôn giáo ngày 24-1-1841.
[43] Trích Annales de la Propagation de la Foi (Biên niên lịch sử truyền giáo) quyển XIV, 1842, trang 150-151.
[44] Đại Nam thực lục chính biên, Tập 5, trang 889
[45] Louvet, La cochinchine religieuse, tập II, trang 115.