“Triển vọng của văn chương hải ngoại cũng là triển vọng của văn chương Việt Nam, tôi muốn được hiểu như vậy” (Thuỵ Khuê)
Đặng Thơ Thơ: Trước khi đi vào phỏng vấn, xin được hỏi cô một câu ngoài lề: trong bốn thập niên tham gia vào thế giới viết lách, cô đã để lại một “tài sản” văn học nghệ thuật và lịch sử phong phú, đa dạng: biên khảo văn học, phê bình văn chương, bình luận cũng như phỏng vấn về âm nhạc, hội họa… và biên khảo sử học. Nếu cần một danh xưng để chỉ cây bút Thụy Khuê thì danh xưng nào là thích hợp nhất?
Thụy Khuê: Cảm ơn Đặng Thơ Thơ đã cho tôi dịp nói chuyện với độc giả Da Màu. Tôi được độc giả biết đến vào khoảng 1987-1988, như một người viết phê bình. Từ những ngày ấy đến nay, tôi làm nhiều việc khác nhau: song song với việc phê bình và nghiên cứu văn học, tôi còn phụ trách chương trình Văn Học Nghệ Thuật của đài RFI, từ năm 1990 đến 2009: giới thiệu và phỏng vấn các văn nghệ sĩ và các nhà biên khảo. Rồi từ hơn mười năm nay, chuyển sang nghiên cứu lịch sử. Tất cả những công việc này tưởng như rời rạc, nhưng thực ra liên quan mật thiết với nhau, kể thì dài dòng lắm, ở đây tôi chỉ xin nói qua về mặt “kỹ thuật”: những điều tôi học được trong phê bình, giúp tôi rất nhiều trong việc đọc các tư liệu nghiên cứu lịch sử. Hoặc việc gần cận các nhà nghiên cứu đi trước, các văn nghệ sĩ đàn anh, giúp tôi học cách làm việc của họ, cách đối xử với chữ nghĩa. Việc giao tiếp với các nhà văn miền Bắc (trước khi có phong trào giao lưu) giúp tôi hiểu môi trường sống ở Bắc, hiểu những suy nghĩ, tư tưởng của nhiều nhà văn miền Bắc. Vì vậy, có thể nói, những gì đã trải qua trong đời, luôn luôn là chất liệu cho mình xây dựng đường đi, nước bước, và chất liệu quý giá ấy, đối với người cầm bút, chính là con người. Tôi không bao giờ quên câu nói của nhạc sĩ Phạm Duy, có lần tôi hỏi ông: “Anh có truyền lại cho con cháu những kinh nghiệm sáng tác của anh?” Ông cười buồn: “Muốn sáng tác được thì phải sống, mà chúng nó có sống đâu?” Chữ “sống” ông nói ở đây nghiã là lăn lộn với cuộc đời, với con người, các con ông sinh ra là những “công tử”, thì không cần phải lăn lộn, tôi hiểu ý ông như vậy. Tôi thấy lời Phạm Duy luôn luôn đúng. Trở lại với câu hỏi của Đặng Thơ Thơ, tôi cho rằng, người đọc là người chọn danh xưng cho người viết, chứ không phải người viết tự xưng mình. Khi đọc những cuốn sách viết về lịch sử thì họ gọi mình là nhà nghiên cứu lịch sử, khi đọc những sách phê bình văn chương, thì họ gọi mình là nhà phê bình văn học, vv… nói chung, họ thường gọi tôi là nhà phê bình và nghiên cứu, nhưng Đặng Thơ Thơ cứ gọi Thụy Khuê là đủ.
Đặng Thơ Thơ: Cám ơn cô Thuỵ Khuê. Với nhiều thính giả của đài RFI, hai chữ Thuỵ Khuê còn gợi liên tưởng đến một giọng nói thật ấm áp, truyền cảm, thu hút, và đây cũng là “Thuỵ Khuê ” đầu tiên mà em được biết khi mới định cư ở Mỹ. Trở lại chuyện định danh, một tác giả trong nước cho rằng: “thuật ngữ văn học hải ngoại cần trở thành một phạm trù lịch sử, và nên thay thế bằng “Văn học (VN) ở nước ngoài”. Tác giả này, cho rằng hai chữ “hải ngoại” (bên ngoài biển) mất đi cơ sở thực tại của nó, một là, nó không đủ sức bao gộp cả một cộng đồng văn học VN rộng lớn trên toàn cầu; hai là mạng lưới Internet đã xoá nhòa ranh giới trong và ngoài nước ; và ba là, lịch sử đã sang trang, đất nước đã hòa hợp, vân vân… Một tác giả khác, cũng ở trong nước, cho rằng chỉ có “tác giả hải ngoại” chứ không hề có “văn học hải ngoại”, vì thế, duy trì danh xưng “văn học hải ngoại” là một hành động có màu sắc chính trị. Xin cô cho biết ý kiến về những nhận định này.
Thụy Khuê: Câu hỏi của Đặng Thơ Thơ thực ra là hai, vì có hai người cùng phát biểu về chuyện danh xưng Văn học Hải ngoại, nhưng với nhiều ý khác nhau. Tôi sẽ phân ra những đoạn nhỏ để trả lời cho rõ ràng.
1- Về cái tên “Văn học hải ngoại”: Ngày trước, cũng đã có lúc ở hải ngoại mọi người đã bàn cãi về vấn đề định danh dữ lắm, và người ta đưa ra những tên như: văn học di tản, văn học di dân, văn học lưu vong, văn học ngoài nước, văn học hải ngoại, vv… rút cục hai chữ hải ngoại được phần đông chấp nhận rồi trở thành tên chính thức của thời kỳ văn học này. Bởi vì chữ di tản, chỉ cộng đồng người Việt bỏ nước ra đi sau 1975, phần lớn là những thuyền nhân; nhưng không phải người viết văn nào cũng thuộc thành phần này. Chữ di dân cũng không hợp, vì người Việt không “di dân”, chẳng ai tự ý bỏ nước ra đi để kiếm ăn. Về sau, người ta xin đi Mỹ để xin tiền trợ cấp, trong họ tôi có vài người như vậy, lại là chuyện khác. Chữ lưu vong cũng không ổn, bởi vì nhiều tác giả không viết về sự “lưu vong” của mình trong tác phẩm. Rút cục phải tìm ra một tên ít sai nhất và hai chữ hải ngoại được giữ lại như một định danh có tính cách địa lý, phi chính trị, và không phản lại nội dung của bất cứ tác phẩm nào.
2- Tại sao gọi là Văn học hải ngoại mà không là Văn học ngoài nước? Hai chữ này đồng nghiã, nhưng sắc thái khác nhau: Hải ngoại là từ Hán Việt, tự nhiên “sang trọng” hơn ngoài nước, là từ nôm na thuần Việt. Khi đặt tên cho con, người ta dùng từ Hán Việt: Hùng, Dũng… mà không đặt tên là Rường, Cột, hay Cái Bàn, Cái Ghế… Vậy khi đặt tên cho dòng văn học của những người rời nước sau biến cố 1975, người ta chọn hai chữ hải ngoại “sang trọng” hơn hai chữ ngoài nước.
Nhưng không phải cứ dùng tiếng nôm là nôm na mách qué. Ví dụ như Văn học miền Nam là chữ nôm, nhưng có lẽ vì không tìm thấy từ Hán Việt thích hợp, để chỉ thời kỳ (1954-1975) nước ta chia làm hai miền Nam Bắc, miền nào có văn học của miền ấy. Hoặc những chữ Văn học quốc nội cũng là từ Hán Việt nhưng ít ai dùng, bởi hai chữ quốc nội nặng chình chịch vì có dấu nặng.
Sau khi những chữ Văn học hải ngoại đã được chọn rồi, thì tên này trở thành tên chính thức của nền văn học do người Việt xây dựng ở ngoài nước, sau ngày 30-4-1975.
Còn những chữ Văn học ngoài nước, như một quy ước, để chỉ sản phẩm văn học của nhiều thế hệ người Việt sống ở ngoài nước, từ Phạm Duy Khiêm, Hoàng Xuân Hãn đến ngày nay.
3- Người viết và tác phẩm của Văn học hải ngoại: Kể từ thập niên 1990 trở đi, khi Khánh Trường ra tờ Hợp Lưu (1992), đăng các bài viết cả trong lẫn ngoài nước, thì diện mạo nền văn học này thay đổi hẳn: Văn học hải ngoại trở thành diễn đàn chung của các tác giả trong, ngoài với nội dung phong phú và đa dạng, so sánh với nền văn học trong nước lúc đó, sau thời kỳ đổi mới, lại bị hệ thống kiểm duyệt khắt khe đè nặng.
Cần phải nhắc đến tên những người đã đắc lực “chuyển lửa” giúp việc đưa các tác phẩm trong nước ra ngoài: Bạch Thái Quốc, từ những năm 1987-1988 (khi ấy anh đang quản trị Nhà Việt Nam, nơi bán các sản phẩm ở trong nước gửi ra) thường đi đi về về nước, và anh đã đem cho tôi nhiều tài liệu báo chí về nền “Văn học đổi mới” còn gọi là “Văn học phản kháng”, gồm những bài viết nổi tiếng của Nguyễn Minh Châu, Hoàng Ngọc Hiến, Nguyên Ngọc… và rất nhiều “cột trụ” khác của thời đó, nhất là các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp, Dương Thu Hương, Phạm Thị Hoài… để tôi có thể viết bài giới thiệu trên tạp chí Văn Học của Nguyễn Mộng Giác và tạp chí Thế Kỷ 21 của Lê Đình Điểu, với sự giúp đỡ của anh Đỗ Ngọc Yến, giám đốc cơ sở Người Việt, anh Yến là người “khai sinh” ra làng báo hải ngoại, anh đã nhận tất cả bài vở tài liệu tôi gửi sang Mỹ bằng fax, vì lúc đó chưa có phương tiện nào nhanh hơn.
Từ năm 1990, Bạch Thái Quốc trở thành trưởng ban Việt Ngữ đài RFI, nên không về nước được nữa. Đỗ Khiêm là người đã đem văn thơ của các anh Lê Đạt, Hoàng Cầm, Đặng Đình Hưng và thơ của Hoàng Hưng ra ngoài và Đỗ Khiêm thường chụp cho tôi một bản, để tôi giới thiệu trên đài RFI. Đó là sự giúp đỡ âm thầm của những người có tâm với văn học, không có họ, chưa chắc Văn học hải ngoại đã có được diện mạo như thế.
Một số nhà nghiên cứu, phê bình trong nước như giáo sư Nguyễn Huệ Chi, nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên, là những người đầu tiên viết bài ủng hộ phong trào này trên báo Văn Học.
Tóm lại, Văn học hải ngoại, ngay từ những năm 1987-1988, đã giới thiệu “Văn học đổi mới” trong nước trên tạp chí Văn học, mặc dù Nguyễn Mộng Giác khá thủ cựu, không in bài của các tác giả (không phản kháng) ở trong nước. Nhưng từ khi Khánh Trường chủ trương tờ Hợp Lưu (1992), rồi Khế Iêm và Đỗ Khiêm chủ trương Tạp Chí Thơ (1994), thì hai tập san này tràn ngập các tác phẩm trong nước gửi ra, định danh Văn học hải ngoại bấy giờ đã có nghiã là một nền Văn học Việt Nam khác, in ở nước ngoài. Tôi còn nhớ anh Lê Đạt chỉ mong nhận được Hợp Lưu và chờ Đỗ Khiêm mang Tạp Chí Thơ về cho anh, anh rất thích thú khi đọc những tờ báo ấy.
4- Trở lại việc định danh: Việc định danh bao giờ cũng có tính cách hình thức và bao quát, mà văn chương nghệ thuật là nội dung và cá nhân. Trên nguyên tắc, không thể lấy hình thức để định danh cho nội dung, và cũng không thể lấy cái chung để định hình cho cái riêng. Bởi vì bản chất của văn nghệ không cho phép ta làm việc này: Một bài văn, bài thơ, bản nhạc, bức tranh chỉ trở thành tác phẩm nghệ thuật, khi người sáng tác hoà tan được hình thức trong nội dung, tức là nhìn những bức tranh của Lê Thị Lựu[1], người ta không chỉ thấy những nét vẽ của trường phái ấn tượng, mà người ta thấy cả một phần, thân phận phụ nữ những năm 30 của thế kỷ trước, thấy sự đài các của Hà thành, thấy không khí thơ mộng của rừng xanh và các cô gái Thổ trong lời ca Phạm Duy, Văn Cao, Ngọc Bích, Trần Hoàn… Không khí thơ mộng này các nhạc sĩ tung ra để cám dỗ các chàng trai lên đường cứu nước và che đậy thực tại chết chóc kinh hoàng của cuộc kháng chiến chống Pháp. Tất cả những ảnh thực, ảnh ảo, thông qua hội họa hay âm nhạc của thời kỳ được gọi là Văn nghệ tiền chiến, đã rất bao la, không thể đếm được, chưa kể thơ văn, cho nên một sự gọi tên làm sao có thể bao trùm lên tất cả những tác phẩm vô cùng khác nhau. Và đối với Văn học hải ngoại, ta cũng không thể nhét những Nguyễn Mộng Giác, Võ Đình, Hoàng Cầm, Lê Đạt, Đỗ Khiêm, Trần Vũ, Hoàng Hưng, Phạm Thị Hoài, vv… vào trong một cái khung tên, rồi bàn cãi có nên “cho” họ vào được không. Bởi vì, khi người cầm bút đã thành danh, mỗi người là một vì sao. Việc họ ở đâu, trong hay ngoài, Hà Nội, Sài gòn, hay Cao Bằng, Cà Mau, Bến Hải, không ai chú ý đến nữa. Chẳng ai hỏi Nguyễn Du có “phản động” không, theo Quang Trung hay Gia Long, thuộc dòng văn chương nào ? Lê Bá Đảng thuộc trường phái gì, quê quán ở đâu? Là vì vậy.
Nhưng người ta vẫn bắt buộc phải định danh, để có tên gọi và để phân đoạn văn học sử.
Hiềm vì sự định danh trong hiện tại luôn luôn đi đôi với sự định ranh, và lòng người cũng thích định ranh, mặc dù họ luôn luôn nói không còn ranh giới trong, ngoài. Nhưng đối với những người làm văn học sử, việc định danh là cần thiết, bởi vì họ bắt buộc phải chia văn học ra từng thời kỳ, khuynh hướng: Văn học miền Nam, Văn học miền Bắc, Văn học hải ngoại, vv… chưa kể còn phải chia từng văn đoàn, các nhóm này, nhóm kia. Tất cả đều là các hình thức phân chia ranh giới. Vì vậy, sự định danh văn học, luôn luôn có chính trị lọt vào.
5- Có cần phải đổi tên? Bây giờ, theo Đặng Thơ Thơ, có người ở trong nước, lại muốn đổi tên văn học hải ngoại thành văn học ngoài nước. Cũng được thôi. Nhưng tôi nghĩ người viết câu này, không rõ lắm về những thăng trầm biến đổi của nền văn học này, tôi chắc người ấy cũng không đọc văn học hải ngoại và chỉ muốn dùng chữ nôm ngoài nước như tôi đã nói ở trên, với ý “cải thiện” nhưng lại có vẻ như ở trong “truyền thống” muốn hạ thấp giá trị đối phương, đã có từ trước 1975. Tôi xin giải thích:
Miền Bắc (chính quyền và nhân dân) thường tự ý coi mình là “chính” đạo, là “cả” nước, và coi miền Nam là “tà”, là “ngụy”. Nhẹ nhàng hơn, miền Bắc gọi miền Nam là “vùng tạm chiếm”, họ không “công nhận” vùng này có một nền văn học, vì họ định danh nền văn học chính thức của miền Nam là “Văn học giải phóng miền Nam”, tức là của những người sống ở trong bưng biền, mà người miền Nam gọi là Việt cộng. Ngược lại, ở miền Nam, người hiểu biết thì gọi văn học miền bắc (sông Bến Hải) là Văn học miền Bắc, còn những người khác gọi đó là Văn học Cộng sản, thay vì Văn học dưới thời Cộng sản, vv…
Bảo rằng phải đổi tên “Văn học Hải ngoại” thành “Văn học (VN) ở nước ngoài”, vì cái tên hải ngoại “một là, không đủ sức bao gộp cả một cộng đồng văn học VN rộng lớn trên toàn cầu; hai là mạng lưới Internet đã xoá nhòa ranh giới trong và ngoài nước và ba là, lịch sử đã sang trang, đất nước đã hòa hợp, vân vân…” tôi thấy những cớ này không mấy thuyết phục, vì những lý do sau đây:
– Lý thứ nhất: cái tên Văn học hải ngoại “không đủ sức bao gộp cả một cộng đồng văn học VN rộng lớn trên toàn cầu”. Thực ra làm gì có một cộng đồng văn học VN rộng lớn trên toàn cầu? Các nhà văn Việt Nam sống ở hải ngoại đếm được bao nhiêu, trên hàng tỷ nhân mạng toàn cầu? Và nhất là Văn học hải ngoại, kể từ thập niên 1990, đã có phần đóng góp không nhỏ của các nhà văn, nhà thơ trong nước.
– Câu “Hai là Internet đã xoá nhòa ranh giới trong và ngoài nước và ba là, lịch sử đã sang trang, đất nước đã hòa hợp” cũng không đúng sự thật.
Nói rằng: “Internet đã xóa nhoà ranh giới trong và ngoài nước”, cũng chẳng khác gì nói Internet đã xoá nhòa mọi biên giới: không còn sự phân biệt quốc gia, chủng tộc, tiếng nói, văn chương, gì nữa… Theo tôi hiểu, câu này chỉ đắp lên một thực tại mà người viết không dám nói ra: Internet xoá nhoà sự kiểm duyệt, mà ở trong nước bây giờ, dù chính quyền đã nới rộng chính sách với Việt kiều (về nước không cần visa) và nhiều tác giả hải ngoại đã về in sách ở trong nước, nhưng sự kiểm duyệt vẫn còn mạnh. Những sách giá trị của Văn học miền Nam vẫn chưa được phép xuất hiện trên văn đàn.
Tuy nhiên, từ những năm 1990, khi tôi tiếp xúc với một số nhà nghiên cứu, phê bình miền Bắc, tôi đã thấy khuynh hướng của họ là nhìn nhận văn học miền Nam như một bộ phận của văn học Việt Nam. Nếu tôi nhớ không lầm thì Giáo sư Nguyễn Huệ Chi đi trước với bài viết đăng trên Văn Học, rồi đến nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên (tôi không nhớ rõ năm nào, vì hiện đang ở xa Paris, không có tài liệu trong tay). Ở trong nước thì nhà phê bình Vương Trí Nhàn viết và trả lời phỏng vấn nhiều lần về Văn học miền Nam.
Khoảng năm 1999, anh Nguyễn Huệ Chi phụ trách việc làm Tự điển Văn học bộ mới đã nhờ tôi soạn một số tác giả của Văn học miền Nam. Nhờ thế mà Dương Nghiễm Mậu được độc giả trong nước biết đến khá sớm. Nhưng lúc đó còn hạn chế lắm, những tác giả “gạo cội” như Mai Thảo, Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền… bị gạt hẳn, chờ đến chuyến sau, anh Huệ Chi bảo vậy. Năm 2018, anh Nguyễn Huệ Chi lại chuẩn bị tái bản Tự điển Văn học bộ mới với toàn bộ các nhà văn Việt Nam và vẫn nhờ tôi cộng tác, nhưng rồi cho đến nay vẫn chưa có động tĩnh gì. Tôi nghĩ sự khựng lại này không hoàn toàn do quyết định của chính quyền mà còn ở trong đầu óc những con người được giáo dục từ nhỏ về việc kiểm tra, kiểm điểm, không dễ gì mà gột rửa được, và họ vẫn giữ địa vị chủ chốt trong việc cấp phép in, hoặc đã về hưu, nhưng vẫn còn ảnh hưởng.
Nhờ Internet, giới trẻ tiếp cận với đủ loại thông tin, họ không còn ở trong tình trạng dạy gì, nghe nấy nữa, và họ chính là tương lai của dân tộc. Ở những người trẻ này, tôi thấy tinh thần tự kiểm duyệt bớt hẳn: làm công việc biên tập, họ tôn trọng văn bản của tác giả, không sửa, không cắt bỏ những chữ không đúng với đường lối, vv… Cho nên, có thể nói rằng: khi những người (già) suốt đời sống trong chế độ kiểm duyệt còn cầm đầu hay ảnh hưởng đến những cơ quan đầu não xuất bản, thì sự kiểm duyệt vẫn còn, và các sách hay được họ coi là “nhạy cảm” vẫn chưa có thể in ở trong nước, trừ một số nhà xuất bản trẻ can đảm, dám làm.
Văn học miền Nam chưa được in lại, một phần cũng vì những người đó. Không ai quên việc sách Dương Nghiễm Mậu in ra bị Vũ Hạnh tố cáo, sau bị tịch thu. Hiện nay âm nhạc miền Nam đã trở lại gần như bình thường trên các kênh truyền hình ở miền Nam và người ta chờ đợi Văn học miền Nam sẽ xuất hiện trở lại như thế. Nhưng mọi việc vẫn còn trì trệ, có thể còn vì sự ganh tị của đồng nghiệp nữa, in ra sợ độc giả thấy “chúng nó” hay hơn mình.
6- Về câu “Lịch sử đã sang trang, đất nước đã hòa hợp” Câu này, theo tôi chỉ là một xác định bề ngoài, như một khẩu hiệu học thuộc lòng, chưa nói lên sự thực: Lịch sử đã sang trang từ bao giờ? Ai cho phép sang trang? Trong chương trình lễ kỷ niệm 50 năm ngày 30 tháng Tư 2025 vừa qua, trên các kênh truyền hình, các bài diễn văn vẫn ca tụng chiến thắng đánh cho Mỹ cút ngụy nhào, thì làm sao mà sang trang cho được?
Riêng về sự sang trang trong văn chương nghệ thuật đã có từ rất sớm, ở những đầu óc khai phóng; chính dòng chảy đó, phơi bày tâm tư của quần chúng thầm lặng và là bằng chứng về sự hòa hợp dân tộc ngay sau ngày 30-4.
Thực thế, Văn học hải ngoại, theo tôi, bắt đầu với báo Hồn Việt Nam, số 1 phát hành ngày 15-10-1975, tại Paris, in ronéo, của nhà thơ Minh Đức Hoài Trinh. (Khi biến cố 30-4 xẩy ra, bà đang đi họp Văn Bút quốc tế ở nước ngoài). Tiếp theo là những tờ: Quê mẹ của Võ Văn Ái ở Paris, ra đời đầu năm 1976. Quê hương của Du Tử Lê ở Costa Mesa, đầu năm 1976. Đất Mới của Huy Quang Vũ Đức Vinh, ra từ trước nhưng đến tháng 4-1976, có Thanh Nam và Túy Hồng tham dự, mới thực sự khởi sắc…
Minh Đức Hoài Trinh cho biết bà đã đọc tin tức ở các báo làm trong trại tỵ nạn.
Hồn Việt Nam là tờ báo tôi được đọc từ những số đầu, thấy chỉ có khuynh hướng thông tin, như: “Hoài Trung và gia đình Phạm Duy đã sang Mỹ. Thái Thanh, Mai Thảo, Hoài Bắc ở lại, vv…”. Sau đó là khuynh hướng hòa nhập vào một nước Việt thống nhất. Trong số báo ra ngày 15-5-76, “kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày ly hành”, Minh Đức Hoài Trinh cho đăng bài thơ “Chiến tranh hết rồi” của bà, trong có những câu:
“Sông núi ơi! Vùng lên mà ca hát
Khúc thanh bình gào đến tận môn phương
Hiền cỏ cây nghiêng đầu ru gió mát
Dười mặt trời, gỗ đá cũng yêu đương”
Minh Đức Hoài Trinh đã từng là nàng thơ trong kháng chiến, rồi tan tác, bây giờ gặp lại hai câu thơ của Văn Cao, như một hội ngộ thiêng liêng:
“Từ đây người biết thương người,
Từ đây người biết yêu người”
trong bản nhạc Mùa xuân đầu tiên của Văn Cao, sáng tác vào dịp Tết Bính Thìn (1976) ở Hà Nội. Bị cấm trong 20 năm.
Thanh Nam trên báo Hồn Việt Xuân Đinh Tỵ (1977), kỷ niệm một năm ngày 30-4, ở Mỹ, có những câu thơ:
“Về đây chung phận chung đời
Chung tay tiếp lửa đẩy lùi bóng đêm
Thôi, chào quá khứ ngủ yên
Những đau thương cũ vùi quên cuối trời.”
(Buổi đầu, Seatle 30-4-76, trong tập Đất khách)
Nhưng rồi hơn một năm sau, tin cái chết của Vũ Hoàng Chương vài ngày sau khi được thả tù cải tạo lọt ra ngoài, việc đốt sách ở miền Nam, người đi cải tạo không về, người vượt biển đắm thuyền, nạn hải tặc trên vịnh Thái Lan… đã tiêu diệt “Khúc thanh bình” của Minh Đức Hoài Trinh, đã dập tắt những ngọn đuốc “đẩy lùi bóng đêm” của Thanh Nam. Nhà thơ đau đớn viết: “Xót thân vô dụng, một đời nín câm”, trước khi qua đời. Lời hát Văn Cao chìm trong băng giá. Và Văn học Hải ngoại bỏ dần khuynh hướng hòa hợp để đi đến đối đầu.
Thập niên 1980-1990, những sự “mất nước” và “căm thù cộng sản” dâng lên hừng hực.
Năm 1990, tôi nhận cộng tác với ban Việt ngữ đài RFI, vừa ra đời, do Bạch Thái Quốc làm trưởng ban. Với sự đồng ý của Quốc, tôi lập ra chương trình Văn học Nghệ thuật và đi con đường riêng của mình. Tôi đã tiếp xúc với các bậc đàn anh trong văn nghệ và học hỏi được nhiều kinh nghiệm ngay từ ngày ấy: Liên lạc để xin phỏng vấn ba người: nhạc sĩ Phạm Duy, nhà văn Mai Thào và nhà văn Võ Phiến. Cả ba đều vui vẻ nhận lời ngay. Nhạc sĩ Phạm Duy là nghệ sĩ, có đầu óc tự do như ăn với thở, bạn bè cũ của ông ở miền Bắc đầy rẫy, nên không nói làm gì. Nhà văn Mai Thảo rất ghét cộng sản, bạn bè ông bị bắt đi cải tạo và bản thân ông ở lại, cũng bị lùng bắt, nhưng ông không từ chối phỏng vấn và ông đã giúp tôi rất nhiều trong những bước đầu vô cùng khó khăn này, bởi vì ông là người tôn trọng tự do của người khác dù ông không đồng ý với việc tôi làm (tiếp xúc với văn nghệ sĩ miền Bắc). Ông Võ Phiến cũng nhận lời phỏng vấn, nhưng rồi ông từ chối, lấy cớ bận, sau tôi biết ông được người ta thông báo đài này thiên cộng.
Tôi còn nhớ khi nhạc sĩ Phạm Duy qua đời, tôi viết bài tưởng niệm ông, gửi đăng một tờ báo lớn mà tôi cộng tác thường xuyên đã nhiều năm, bị từ chối. Tết năm ấy, một tờ báo khác, vẫn xin bài đăng báo xuân, tôi gửi một bài khác viết về Phạm Duy, cũng bị từ chối. Đến khi một người bạn tổ chức đêm nhạc Phạm Duy ở Paris, nhờ tôi nói lời mở đầu. Tôi đã nói hết những sự vô ơn đối với Phạm Duy cho đến khi ông chết, chỉ vì ông tự ý về nước, của một cộng đồng suốt đời được nuôi sống bằng nhạc Phạm Duy. Và tôi đã được khán thính giả hoan hô nhiệt liệt.
Vì vậy, tôi không biết khi viết câu: “đất nước đã hòa hợp” tác giả muốn nói đất nước nào, với những ai? Có phải là những giấc mơ hòa hợp dân tộc, đã chết yểu của Minh Đức Hoài Trinh, Văn Cao, Thanh Nam sau ngày 30-4-1975? hay những bài diễn văn chính thức, những khẩu hiệu dán trên đường phố Sài gòn ngày 30-4-2025; hay những tư tưởng chấp nhận nhau, dù không đồng ý, của Mai Thảo hay những lời nhục mạ Phạm Duy, những tràng pháo tay cho tôi đêm ấy… Bởi vì dòng máu hòa hợp dân tộc vẫn chảy trong tim người Việt từ 50 năm qua, chưa bao giờ ngừng, nhưng luôn luôn bị những “ayatollah” thần quyền ở trong và ngoài nước, chặn lại.
7- Chỉ có tác giả hải ngoại chứ không hề có văn học hải ngoại?
Đặng Thơ Thơ viết: “Một tác giả khác, cũng ở trong nước, cho rằng chỉ có “tác giả hải ngoại” chứ không hề có “văn học hải ngoại”, vì thế, duy trì danh xưng “văn học hải ngoại” là một hành động có màu sắc chính trị.”
Danh xưng, như tôi đã nói ở trên, cần cho việc viết văn học sử. Cái tên “Văn học hải ngoại” được người ta đặt ra từ 40, 50 năm nay rồi. Bây giờ bạn muốn đổi cái tên ấy đi, lấy cớ rằng: không hề có “văn học hải ngoại”. Cũng chẳng sao, cái đó tùy bạn.
Nhưng bạn cũng nên biết: Dù bạn xác nhận là có hay không, thì các tác phẩm của Văn học Hải ngoại, trong 50 năm qua, vẫn lù lù ra đó. Cho nên câu: “chỉ có “tác giả hải ngoại” chứ không hề có “văn học hải ngoại”, là một xác định phiêu lưu, vô ích. Tôi đoán bạn muốn nói: “chỉ có người viết ở hải ngoại, chứ không hề có nền văn học hải ngoại, vì những người viết ở hải ngoại này chưa có khả năng làm ra được một nền văn học”. Nói như vậy là có ý miệt thị lắm đó, hơi giống việc ngày trước người ta không “công nhận” Văn học miền Nam.
Và nói như vậy là bạn không sành văn chương, bạn không rõ bản lĩnh của chữ nghiã, bởi vì chữ nghiã rất cứng đầu, nó không quỳ lạy trước lời “nhận định” của bất cứ cá nhân nào, không phải vì bạn là một ông quan lớn hay một nhà phê bình đại tài mà bạn có thể phán rằng: cái nền văn học này có, cái nền văn học kia không, là nó nghe ngay. Bộ sách dầy cộp của ông quan văn Trần Trọng Đăng Đàn, bìa cứng như cuốn thánh kinh, với đầy đủ tài liệu tên tác giả và tên sách cần khai tử của Văn học miền Nam, chỉ một thời gian sau là bị quá đát, không biết bây giờ còn có giá trị gì, cho ai. Tóm lại, tất cả mọi dự định xoá sổ bất cứ một nền văn học nào, cũng thất bại cả.
Đặng Thơ Thơ: Hiện nay Văn học Hải ngoại hầu như hoàn toàn được mạng hóa (online). Có lẽ, chỉ trừ tạp chí “Ngôn Ngữ” do một số các văn nghệ sĩ ở Canada chủ trương, tuyệt đại đa số các tạp chí văn chương hiện nay đều là online. Theo ý cô, hiện tượng này có ảnh hưởng thế nào đến việc sáng tác và thưởng ngoạn văn chương, cũng như trong việc hợp lưu hai dòng văn chương trong và ngoài nước như Khánh Trường và nhiều nghệ sĩ hải ngoại khác đã từng mơ ước qua tạp chí Hợp Lưu trước đây?
Thụy Khuê: Việc đưa các tác phẩm lên mạng, những người làm văn học đã thi hành từ khá lâu rồi. Đặc biệt nhất là diễn đàn Talawas của Phạm Thị Hoài, ra đời năm 2001 và ngừng hoạt động năm 2010. Ngoài sinh hoạt văn chương và tranh luận văn học đương thời, Talawas còn là kho lưu trữ quan trọng nhất từ trước đến giờ về đủ các thể loại văn học, từ các tác phẩm của Tự Lực văn đoàn, phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đến Văn học miền Nam, và Văn học đổi mới.
Cùng thời kỳ này, có hai cơ sở báo mạng khác, được nhiều người biết đến là Tiền vệ do nhóm Nguyễn Hưng Quốc ở Úc chủ trương (2002-2021) và Da Màu do Phùng Nguyễn, Đặng Thơ Thơ và Đỗ Lê Anh Đào thành lập ở Mỹ từ năm 2006. Hiện nay chỉ còn lại Da Màu, là tờ báo mạng có uy tín, thuần túy văn chương, hoạt động bền bỉ đã 19 năm, không dao động. Phùng Nguyễn qua đời năm 2015. Đặng Thơ Thơ làm chủ bút từ đầu, giữ vai trò của Thạch Lam trong báo Ngày Nay thuở trước: đọc, chọn bài và hướng dẫn các nhà văn trẻ (xem bài phỏng vấn Tru Sa).
Việc các báo “bắt buộc” phải lên mạng là chuyện dĩ nhiên, vì không có tiền in, không có cơ sở bán báo và không có người đọc, như trước nữa. Hiện tượng này đã trở thành thực tại từ gần 20 năm nay, và sự hợp lưu hai dòng chảy trong và ngoài nước cũng cần phải lên mạng để được truyền bá nhanh chóng.
Sự hợp lưu đã manh nha từ trước khi Khánh Trường cho ra đời Hợp Lưu, và đã trở thành con sông lớn với Hợp Lưu, Tạp Chí Thơ, rồi dần dần chính Nguyễn Mộng Giác cũng thay đổi thái độ, Văn Học cũng in các tác giá trong nước, cùng với các báo khác như Thế Kỷ 21 của Lê Đình Điểu, vv… Cho nên có thể nói những “mơ ước của Khánh Trường và những văn nghệ sĩ hải ngoại ngày trước”, đã trở thành thực tại từ ngày ấy đến bây giờ.
Chỉ cần đọc Da Màu gần đây thôi, ta thấy bài của các tác giả nổi danh của Văn học miền Nam như Trùng Dương, Trần Thị NgH… xuất hiện bên cạnh những tên tuổi mới, ở trong nước, như nhà văn Thu Phong với loạt truyện ngắn rất đặc biệt, như Mặt Cắt rất lạ, có cấu trúc hội họa, thi ca và điện ảnh. Hay những truyện ngắn của Tru Sa, đã được Tạ Duy Anh khám phá ở trong nước, Đăng Thơ Thơ nhận diện và chăm sóc từ mấy năm nay. Vừa rồi, giáo sư Nguyễn Huệ Chi cũng gửi bài, hình như lần đầu thì phải. Chưa kể những nhà văn hải ngoại như Đỗ Khiêm, Ngu Yên, Nguyễn Đức Tùng, Hoàng Chính, vv… vẫn không ngừng sáng tác. Vì tôi vùi đầu vào biên khảo nên không có thì giờ đọc hết các phẩm hay để giới thiệu, xin các nhà văn thứ lỗi. Nhưng tôi chắc chắn rằng: việc người viết (và người đọc) ở hải ngoại giảm đi, vì lớp trước đã qua đời, đã già, hoặc đã bỏ cuộc, và lớp sau không còn rành tiếng Việt, nhưng nhờ internet, Văn học hải ngoại hiện nay vẫn còn sống, với những người đích thực gắn bó với văn chương, ở trong và ngoài nước.
Đặng Thơ Thơ: Theo quan sát của cô, có sự giao thoa nào giữa văn học hải ngoải và văn học trong nước không, và sự giao thoa đó diễn ra như thế nào?
Thụy Khuê: Sự giao thoa là tất yếu của văn chương, giữa người trong một nước hay với nhiều nước. Giao thoa chính là sự đọc. Khi tôi bắt đầu viết phê bình, hai vấn đề tôi phải học đầu tiên là ngữ học, để hiểu bản chất của mỗi chữ và việc đọc, để hiểu tác dụng của sự đọc trong văn chương và trong đời sống con người: Đọc thấy câu văn nào lạ, hình ảnh nào đẹp, ý tưởng nào hay, chúng ta đều ghi lại trong đầu, việc này tự nhiên như ăn và thở. Ở người đọc bình thường, đọc xong có thể quên để làm việc khác. Ở nhà văn, nhà thơ, khi viết, cái sổ đã ghi trong đầu ấy, tự động nó sẽ phát sóng, nếu để lâu, không nhớ hết, chỉ nhớ mang máng cũng đủ, và như vậy ta đã tự cung cấp một thứ “chất liệu” cho mình, nếu ta bỏ thêm phần của ta vào, nó sẽ trở thành một hợp chất mới, và đó cũng là một trong những thủ pháp của sáng tạo, cái đó cũng gọi là sự giao thoa. Tôi còn nhớ nhà thơ Nguyên Sa khi trả lời phỏng vấn của Nguyễn Mạnh Trinh có kể ông đã học cách Nguyễn Du, Nguyễn Gia Thiều… “làm mới” chữ nghiã như thế nào.
Ở những người không đọc thì không có giao thoa. Còn đọc ai là tùy mình muốn hiểu ai, hiểu vấn đề gì. Thí dụ người ta đọc Mùa Biển Động của Nguyễn Mộng Giác để hiểu xã hội miền Nam trong chiến tranh. Đọc hồi ký Trần Dần ghi để hiểu xã hội miền Bắc thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm, vv… Đọc Dương Nghiễm Mậu để thấy những thế giới bí mật, phân cực, hợp lưu, không ngừng trong trí não con người. Nếu không đọc thì không biết, giống như người đút nút lỗ tai, không nghe đời sống quanh mình. Thực ra văn chương nó kiêu kỳ lắm, mình đọc nó thì chỉ có lợi cho mình: mình học nó. Còn không đọc thì không vỡ khối ngu, nó cũng mặc kệ.
Tru Sa kể một lô toàn các tác giả miền Nam. Tôi nhớ ngày trước Nguyễn Bình Phương cũng nói vào Sài gòn có đọc các tác phẩm của miền Nam. Tôi cho rằng đối với nhà văn, việc đọc là cốt yếu, vì có lợi ích thực tiễn: đọc để biết, để không viết sai, còn chịu ảnh hưởng của ai hay không là chuyện khác. Thường thường người ta chịu ảnh hưởng mà không biết, thí dụ những người viết ở miền Nam chịu ảnh hưởng văn phong, cách ngắt câu của Mai Thảo rất nhiều, tôi cũng vậy. Nguyễn Tuân, Mai Thảo là hai nhà văn làm mới chữ Việt.
Nguyễn Bình Phương tự tạo ra một thế giới huyền ảo trong những tác phẩm đầu để che sự khốc liệt trong tiểu thuyết của mình. Những tác phẩm sau, dễ hiểu hơn, nhưng cũng vẫn ghê gớm không kém. Hai tác phẩm sau cùng, Kể xong rồi đi (2017) anh nói chuyện với chó vì không thể nói với người, Một ví dụ xoàng (2022), anh mô tả những bạo liệt phía sau của một xã hội được tiếng là đạo đức và nhân ái; chỉ cần với một câu, người con dâu nhẹ nhàng trả lời bố chồng: “hôm nay con chưa sạch”, đủ cung cấp cho ta cảm giác phẫn uất hãi hùng pha trộn buồn nôn. Chắc chắn không phải Nguyễn Bình Phương chỉ chịu ảnh hưởng văn chương hiện thực miền Bắc. Nhưng để hiểu Nguyễn Bình Phương, người đọc cũng phải có một trình độ nào đó. Hiện nay, các tác phẩm giá trị của Văn học hải ngoại chưa có điều kiện để in ra đầy đủ ở trong nước, lên mạng chỉ là một giải pháp lỗ mỗ, tạm thời, nên ta chưa thể bàn đến sự giao thoa, có lẽ phải đợi vài chục năm nữa chăng?
Đặng Thơ Thơ: Theo ý cô, liệu chúng ta có thể nói đến khái niệm “triển vọng” của văn chương hải ngoại hay không trong thời điểm hiện nay?
Thụy Khuê: Văn chương hải ngoại hiện nay, như trên tôi đã nói, người viết ở hải ngoại ít đi, nhưng người viết ở trong nước tăng lên, cho nên vẫn còn phong phú và đa dạng, chỉ cần đọc Da Màu cũng thấy điều đó. Hiện thời chính sách kiểm duyệt mạng ở trong nước cũng bớt gay gắt, có nhiều nơi ở miền Nam, đọc được các mạng, trước cấm, như Da Màu, Diễn Đàn Thế Kỷ, Diễn Đàn, Văn Việt, vv… Trong tình trạng mọi sự đang được cải tiến dần dần như thế, hy vọng Văn học Việt Nam sẽ sớm tái hiện với toàn bộ các nhà văn Nam, Bắc, trong, ngoài, trong thế kỷ qua, đúng như Trần Dần mong muốn: khi đất nước thống nhất thì độc giả sẽ gấp đôi, từ năm 1954.
Triển vọng của văn chương hải ngoại cũng là triển vọng của văn chương Việt Nam, tôi muốn được hiểu như vậy.
Đặng Thơ Thơ: Mời cô bổ sung thêm những nhận định khác về VHVNHN, nếu có.
Thụy Khuê: Tôi chỉ xin nói thêm một câu về việc này, không trực tiếp liên quan đến Văn học Việt Nam Hải ngoại, nhưng gián tiếp: Sự vận hành của facebook.
Báo in và báo mạng chuyên về văn chương bây giờ còn ít lắm, người ta thích đọc và viết facebook, đó là lối sáng tác nhanh, truyền đến độc giả với tốc độ ánh sáng và cũng nhận được phản hồi tức thời. Tuy nhiên, viết nhanh, viết vội, không phải là phương pháp của văn chương, những bài đăng trên facebook phần lớn thường chỉ chở một số ít ý, không có văn, và đôi khi viết để chờ đợi sự hoan hô của bạn bè, như: Super! Tuyệt vời!
Nhưng văn bản facebook đã áp đảo môi trường đọc và viết, đã thay thế các truyện ngắn, mà nhà văn phải mất cả ngày đêm đôi khi chỉ để chọn một chữ. Rất tiếc, lối lao động viết văn này, ngày càng hiếm, và nếu Văn học Hải ngoại có “tàn lụi”, cũng nhờ bàn tay của facebook rất nhiều.
Câu chuyện đã dài, xin thành thật cám ơn Đặng Thơ Thơ và Da Màu.
Đặng Thơ Thơ: Cám ơn nhà phê bình/biên khảo Thuỵ Khuê đã dành thời gian để chia sẻ kiến văn và kinh nghiệm của cô với độc giả, cám ơn cô đã đặt lòng tin vào triển vọng của Văn Học Hải Ngoại và “bản lĩnh của chữ nghiã.” Đây là niềm khích lệ đáng trân trọng cho những người cầm bút hiện nay.
[1] Có thể xem trên website của Bảo Tàng Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh.
Kính Chào,
Xin quý vị vui lòng cho biết tác phẩm mới của Thuỵ Khuê ” Lịch sử truyền giáo và chữ quốc ngữ ” đã được in, hay sắp in, bao giờ phát hành, và nếu muốn mua trên mạng thì liên lạc thế nào…
Thành thật cám ơn.