Trang chính » Sáng Tác, Tiểu thuyết Email bài này

đời thủy thủ 2 (chương 16 & 17)

0 bình luận ♦ 19.08.2023

Chương 16

Vịnh Gành Rái
Chủ Nhật 6/8/1967 16:00G

Từ đài chỉ huy xuống boong chính, chúng tôi đứng vào khoảng trống giữa hai trụ sắt nơi chiều hôm kia đặt chiếc thang bắc lên cầu tàu. Chiếc thang đang được gắn lên vách và hai sợi dây an toàn đã được chăng ngang hai trụ. Chiều nay, dây an toàn được tháo ra, chiếc thang được hạ xuống, và từ đó tôi rời tàu.

Tôi liếc nhìn Võ Bằng. Anh chàng nhởn nhơ nói:

– “Bây giờ mời cô nhìn vào bờ. Đó là Bãi Sau. Hãy ghi nhớ vì sớm muộn cô sẽ có dịp đến.”

Bọt sóng ôm dọc bờ biển dài hàng chục cây số. Một dãy nhà toàn màu trắng gần mé biển lẫn vào bãi cát ngà rộng chen lẫn từng đám rong rêu. Sâu hơn là rừng cây. Xa hơn là các ngọn núi cuối dãy Trường Sơn phơi mình trong nắng chiều.

– “Bãi Sau hoang sơ quá. Còn Bãi Trước là bãi nào?”

– “Đừng nóng! Qua mấy chục chiếc ghe đánh cá rồi sẽ tới!”

Không có ghe nào ngoài khơi, tất cả neo rải rác dọc theo phần biển giữa chiến hạm và bờ. Có lẽ vùng này nhiều cá chăng? Tôi chợt nghĩ nếu chiến hạm mua cá của họ, chắc giá phải rẻ hơn nhiều.
Tôi hỏi:

– “Đại úy, có khi nào chiến hạm mua cá ở các ghe đánh cá?”

– “Ít khi, dù ghe đánh cá rất mừng. Họ không lấy tiền. Họ đổi lấy dầu bởi vì họ biết chúng tôi rất hào sảng. Thì ‘dân vận’ vậy mà!”

– “Sao không ‘dân vận’ nhiều nhiều, ăn cho đã miệng!”

– “Có hai lý do tôi chắc cô thừa biết. Một là cái gì ăn hoài thì cũng ngán. Hai là nhà bếp phản đối vì làm cá cực nhọc.”

Tên Mỹ ngẩng lên nhìn chúng tôi, nói to:

– “Xin chào quý vị. Quý vị mạnh giỏi.”

Võ Bằng nói “Hello”. Tôi sốt sắng:

– “Cám ơn Đại úy Ward. Xin chào.”

Qua lối ứng xử lịch sự, thần sắc vui tươi, ăn nói thật thà đã là những yếu tố xóa dần ác cảm trong tôi. Giờ đây tôi thích thú ngắm hắn. Chiếc quần kaki màu nghệ, áo thun màu lam, mái tóc vàng, mắt kính đen, quyển sách trắng cùng với mũi tàu nhấp nhô trên nền biển xanh. Đúng là một bức tượng đa sắc không giống con giáp nào. Tôi hỏi Võ Bằng:

– “Rõ ràng, chiến hạm đâu có cần Đại úy Rick. Chỉ thấy hắn đọc sách, chơi bài!”

– “Rất đúng, nhưng có khi lại rất cần. Như khi hành quân hỗn hợp, cần phối hợp truyền tin. Như vừa rồi chiến hạm bị hư hỏng bất thường, hắn đã gọi các tàu Mỹ cập cầu Cam Ranh hỏi xin cơ phận thay thế. Nếu không có hắn, chiến hạm phải chạy một giò, chưa chắc sáng mai đã tới.”

– “Một giò? Một giò là sao?”

– “Chiến hạm có hai dàn máy quay hai chân vịt. Khi một máy bị hư, chúng tôi gọi đùa là chạy một giò.”

– “Tôi thực sự thích thú với lối đùa của Hải Quân. Nào là phi hành gia, nào là ‘hành quân núi’, ‘chạy một giò’. Rồi còn gì nữa?”

– “Phải có gì khơi gợi mới nhớ ra được. Hẹn dịp khác.”

– “Một chuyến công tác là lâu bao nhiêu ngày, Đại úy?” Tôi thử gợi ý.

– “Không lâu lắm! Thường là hai tới ba tháng.”

– “Ba tháng mà không lâu hẳn công tác hấp dẫn?”

– “Rất hấp dẫn, cứ nước lớn trôi lên, nước ròng trôi xuống! Hay xác thực hơn là theo kiểu ‘Muốn người ta người ta không muốn. Xách chiếc tàu chạy xuống chạy lên.’”

Tôi bụm miệng ngăn tiếng cười, thích chí hỏi thêm:

– “Tối ngày cứ xách tàu lên xuống… như vậy sao?”

– “Đôi khi kèm theo tập dượt các nhiệm sở tác chiến, vớt người, phòng tai…”

– “Phòng tai?”

– “Là phòng ngừa tai nạn như cứu thủy, cứu hỏa, trợt té. Lại đôi khi cho nhiệm sở săn tàu ngầm.”

– “Có tàu ngầm thật à, Đại úy?” Tôi thật thà hỏi.

– “Có thật hay không thì tìm thấy mới biết. Cho đến nay săn hoài mà không thấy!”

– “Nếu thấy thì sao?”

– “Thì tiêu diệt.” Võ Bằng cười. “Dường như tôi có chỉ cô xem dàn thả thủy lôi sau lái? Săn tàu ngầm cũng gay go lắm. Phải dùng sonar để đo khoảng cách, tính hướng đi và vận tốc tàu ngầm, từ đó tính hướng lái và vận tốc tàu mình sao cho tàu mình ngay trên tàu địch. Đó là lúc cho thả thủy lôi. Nhưng trước khi thả, phải nhanh chóng đo độ sâu tàu địch để chỉnh độ sâu phát nổ của thủy lôi. Dĩ nhiên mình cũng phải áp dụng mọi phương thức an toàn để tránh ngư lôi của địch.”

– “Chà! Gay go thật.” Tôi kêu lên.

– “Thật ra việc thao dượt các nhiệm sở chỉ trong giờ làm việc. Còn ngoài ra, mọi người tự do…”

– “Với người thích học hỏi, thích đọc sách, thì chắc chắn họ tự trang bị thêm nhiều kiến thức?”
Bằng khẽ lắc đầu:

– “Với điều kiện biển êm! Nhưng rất không may là biển thường… không êm. Biển êm như hôm nay là bất thường, phải coi như là cô mang may mắn đến cho thủy thủ đoàn.”

Tôi mang may mắn đến cho thủy thủ đoàn ư? Tôi nghe nghèn ngẹn, xót xa. Nếu Võ Bằng biết tôi không là một thiên thần mang đến may mắn mà lại là một tử thần mang đến chết chóc? Anh chàng nhởn nhơ nói:

– “Bây giờ cô hãy nhìn cái mỏm nhọn phía trước. Đó là mũi Nghinh Phong, bên ngoài là đảo Hòn Bà 2, ở đỉnh có ngôi miếu ngói đỏ tường trắng là nơi thờ Bà Thủy.”

Do bận cơm trưa, tôi tiếc đã bỏ lỡ dịp ngắm đảo Hòn Bà ngoài khơi Hàm Tân nên giờ không thể so sánh. Hòn đảo ngay trước mặt thấp, tròn trịa. Cây xanh mọc đậm phía bờ nhưng phía biển chỉ sườn dốc cằn cỗi. Giọng Võ Bằng thúc hối:

– “Hãy để ý phần lái của một chiếc thương thuyền như đang dính vào mũi Nghinh Phong.”

Từ phần lái, chiếc thương thuyền to lớn chầm chậm hiên nguyên hình với mũi tàu trườn lên bãi cát. Dù thân tàu đã bị rỉ sét nhưng vẫn còn cho thấy lớp sơn xanh và lườn màu gạch. Tàu có ba cột trụ cao. Trụ cao trước mũi đang treo lá cờ vàng ba sọc đỏ. Cột giữa tiếp nối đài chỉ huy với ống khói đen, hình trụ. Tôi hỏi:

– “Chiếc tàu bị cạn mà vẫn phải treo cờ! Luật đòi hỏi hả Đại úy?”

– “Tôi nghĩ thế. Theo tài liệu tôi được đọc, chiếc London Maru này của Nhật, dài 137 thước, rộng 17 thước, là thương thuyền thuộc loại lớn nhất thời đệ nhị thế chiến. Ngày 22 tháng 4 năm 1944, London Maru cùng với 4 chiếc khác neo cách mũi Nghinh Phong 2 hải lý, bị 7 chiếc oanh tạc cơ Hoa Kỳ oanh kích. Kết quả 3 chiếc chìm, một chiếc chạy thoát, chiếc London Maru bị hư hại và bị trôi giạt vào bờ. Tổng cộng trên 100 thủy thủ đoàn thiệt mạng.”

– “Thì ra chúng ta vừa đi qua ba xác tàu và 100 xác người! Vừa rờn rợn vừa buồn buồn!”

Tôi nói mà lòng chùng xuống. Con số 100 thiệt mạng tương đương con số thủy thủ đoàn của chiến hạm này. Ngẫm nghĩ, tôi không hiểu nổi tôi. Biết xót thương cho thủy thủ nước ngoài mà lại dửng dưng hạ sát người cùng dòng máu?

– “Bây giờ cô nhìn chiếc phao xanh có hình tháp kia. Chiếc phao đang rung rinh theo nhịp sóng. Đó là phao báo hiệu thủy đạo bên tay phải của nó là vùng nguy hiểm, chỉ hải hành vùng bên tay trái. Ban đêm các phao này báo hiệu bằng đèn cùng màu xanh. Hãy nhìn vào bãi biển đông người, đó là Bãi Trước.”

Bãi Trước ngắn ngủn, xô bồ hàng quán. Tôi thích Bãi Sau gần với thiên nhiên hơn. Nếu có dịp đi Vũng Tàu, tôi sẽ chọn Bãi Sau. Tôi quét tầm nhìn từ mũi Nghinh Phong dần về phía trái. Một vùng biển rộng lớn hình cánh cung có đường biên từ ngọn hải đăng qua phố thị đến rừng cây, từ đó nhạt dần. Hình ảnh trong đầu chỉ còn ngọn hải đăng được nền trời và nắng chiều tô điểm khối trụ màu trắng thêm trang trọng, kỳ vĩ. Võ Bằng lại lên tiếng như thấy hình ảnh hải đăng trong đầu tôi:

– “Tôi mê ngọn hải đăng này lắm. Mê không phải vì nó đẹp, nó kỳ vĩ mà vì mỗi khi thấy nó, tôi biết mình sẽ mệt hay khỏe!”

Đó là kiểu nói của Võ Bằng và tôi chịu nhịn:

– “Tôi không hiểu.”

– “Nó là ngọn hải đăng đầu tiên mà cũng là ngọn hải đăng cuối cùng ghi dấu một chuyến đi về!”

– “Lại càng không hiểu!”

– “Khi ra biển, nó là hải đăng đầu tiên và biết mình sắp mệt suốt ba tháng dài. Khi về sông, nó là hải đăng cuối cùng báo hiệu sắp hưởng 15 ngày không sóng gió.”

Thì ra là vậy và đúng như vậy. Thật lắm chuyện vẽ vời. Chàng ta lại tiếp:

– “Vì là ngọn hải đăng đặc biệt nên tôi tò mò tìm hiểu địa điểm dựng lên nó. Đó là ngọn Núi Nhỏ, còn có tên núi Tao Phùng. Sự tích là có nàng công chúa con vua Thủy Tề hóa thành cá vàng lội rong chơi. Một chàng chài lưới bắt được, thấy cá quá đẹp bèn đem về khoét núi làm hồ nuôi cá. Một hôm thấy mất cá mà người đẹp hiện ra kể rõ sự tình. Hai người nên duyên chồng vợ. Nhưng vua Thủy Tề không tha thứ, bắt về thủy cung, năm năm mới cho gặp một lần. Người đời thương cảm đặt tên là núi Tao Phùng.”

– “’Tao Phùng’, cái tên nghe thật ý nghĩa. Nhưng về hình phạt thì nặng quá. Ngọc Hoàng chỉ phạt Ngưu Lang Chức Nữ mỗi năm gặp một lần trong khi vua Thủy tề phạt tới năm năm!” Tôi xót xa!

– “Mức độ hình phạt phản ảnh cuộc sống của hai vì vua. Đúng là… một trời một vực! Ngọc Hoàng thì sống ở Thiên phủ, hàng chục tiên nữ hầu hạ, hàng trăm thiên binh thiên tướng canh phòng trong khi vua Thủy tề thì ở Thủy cung, ngày đêm… lắc lư con tàu đi! Vua có cuộc sống phây phả thì dĩ nhiên ít khe khắt…”

Lối lý luận của Võ Bằng nghe tức cười nhưng không phải là không có lý. Tôi hỏi tiếp:

– “Còn tên Vũng Tàu, có sự tích gì không?”

– “Không. Nhưng có nhiều tên gọi, tùy thời. Khi thuộc xứ Chân Lạp, có tên là Chân Bồ; thời Pháp thuộc, mang tên Cape Saint-Jacques, gọi tắt Ô Cấp. Tây về nước, ta gọi Vũng Tàu. Cũng như mũi Nghinh Phong, thời xưa gọi là mũi Thùy Vân, thời Tây goi là mũi Au Vent, ‘người mình’ gọi theo phiên âm Ô Quắn.”

– “Và khu vực nhiều thương thuyền đang neo gọi là vịnh Vũng Tàu?”

– “Không, người ta gọi là vịnh Gành Rái.” Bằng mỉm cười.

– “Vì sao có tên Gành Rái?”

– “Câu hỏi gợi tôi nhớ một bài khảo cứu về Vũng Tàu, đề cập Núi Lớn Núi Nhỏ có tên chung là núi Gành Rái do nhiều rái cá tụ tập ở đó. Và tên đó được đặt cho vịnh này.” Võ Bằng cười tủm tỉm. “Bây giờ, đến lượt tôi hỏi: Có một địa danh cô từng đến viếng có âm giông giống Gành Rái, địa danh đó tên gì?”

Tôi ngẫm nghĩ một lúc rồi reo lên:

– “Ghềnh Ráng. Nơi an nghỉ của Hàn Mạc Tử! Âm thì giông giống mà địa hình thì hai thái cực. Một nơi thì bờ đá cheo leo, một nơi thì bờ đất sình lầy. Một nơi đìu hiu heo hút, một nơi đông đúc tàu bè.”

Tôi lướt mắt qua các trụ cột thương thuyền trong vịnh Gành Rái. Đúng với luật quốc tế, cờ vàng lộng lẫy tung bay cùng nhiều loại cờ khác màu tôi quên hết ý nghĩa. Hẳn là không thể thiếu cờ ‘cần hoa tiêu’ hoặc ‘đã có hoa tiêu’. Ngoài khu thương thuyền đến tận cuối vịnh là vô số ghe và hàng đáy cá. Rừng cờ vàng phất phới cả hai nơi.

– “Nước vịnh Gành Rái cũng không trong xanh như ở Ghềnh Ráng.” Võ Bằng tiếp. “Phù sa từ các sông Lòng Tào, Thị Vải, sông Dinh cùng đổ ra vịnh vừa làm đục nước vừa phải cho nạo vét thường xuyên. Cũng vì cạn nên các hải tiêu đủ hình dạng, đủ sắc màu được thiết trí để chắc chắn các thương thuyền theo đúng thủy đạo, chuyển hướng kịp thời, tránh các chướng ngại vật… Vào ban đêm, đèn phao bật sáng theo màu tương tự.”

Tôi nhìn các hải tiêu đặt tùm lum và kêu lên:

– “Như là một mê cung. Nhìn là hết thấy đường đi!”

Võ Bằng cười, chỉ tay hướng dọc theo bãi Trước:

– “Ở cửa sông Dinh có một hải cảng rất lớn, thương thuyền muốn đến đó phải qua mê cung. Vào sâu hơn là Căn cứ Hải Quân Cát Lở, nơi đặt Bộ Tư Lệnh Hải Quân Vùng. Nhắc tới sông Dinh, tôi chợt thấy thêm một trùng hợp lạ lùng. Như chúng ta biết, ở tỉnh Bình Tuy có Hòn Bà và ở Phước Tuy có Hòn Bà. Bình Tuy có sông Dinh, Phước Tuy có sông Dinh. Sông Dinh Bình Tuy chảy ra biển gần Hòn Bà 1. Sông Dinh Phước Tuy chảy ra biển gần Hòn Bà 2.”

Tôi thích thú được biết về sự ‘tương đồng’ của hai con sông Dinh này và phân vân không biết có gì lạ giữa bốn con sông cùng mang tên Dinh ở các tỉnh Nghệ An, Quảng Bình, Khánh Hòa, Ninh Thuận? Học tính tò mò của Võ Bằng, thế nào tôi cũng cố tìm hiểu vì sao có sự trùng tên nhiều như vậy!

– “Bây giờ cô Phượng hãy nhìn các phao này giản dị hơn.” Võ Bằng chỉ một phao có hình chóp nón xa phía trước, bên phải mũi tàu. “Đó là loại phao dẫn đường vào cửa sông. Có hai màu. Màu xanh được đánh số lẻ và màu đỏ đánh số chẵn. Tàu thuyền vào ra theo nguyên tắc: Khi vào thì đi bên trái của phao màu xanh. Khi trở ra đi bên phải. Có những cửa sông, vì lý do nào đó người ta không dùng phao màu xanh mà lại dùng phao màu đỏ, đánh theo số chẵn 2, 4, 6… Trường hợp này theo nguyên tắc ngược lại. Nghĩa là khi vào thì đi bên phải. Khi trở ra, đi bên trái! Lại có trường hợp thấy phao xanh đỏ được đặt cả hai bên theo kiểu ‘hàng phao thắp nến lên hai hàng’, thì hiểu là thủy đạo chật hẹp, tàu thuyền chỉ đi ở giữa và cẩn thận tránh nhau.”

– “Rắc rối quá Đại úy ơi!” Tôi cười.

– “Tôi cũng biết vậy, nhưng cô bảo cô muốn đi biển một chuyến cho biết nên tôi… ba hoa một chút vậy mà. Nếu cô đã chán nghe chuyện biển, thì đổi sang chuyện tình yêu.” Võ Bằng nói dứt là hát: “Chuyện tình yêu đôi ta ngày ấy tuyệt như mơ. Chuyện tình yêu đôi ta ngày ấy đẹp như thơ. Mình làm quen nhau trên đường ‘biển’ khuya. Mình cho nhau yêu thương rồi xót xa. Rồi chia ly rồi đến phôi pha…”

Võ Bằng say sưa hát. Tôi hốt hoảng kêu lên:

– “Xin Đại úy nói tiếp chuyện về biển.”

– “Đồng ý. Nhưng chúng ta đang từ biển tiến vào sông nên đã đến lúc bỏ biển để nói về sông. Mà nói đến dòng sông bất an này tôi không thể không nhớ tới dòng sông an bình…”
Võ Bằng bỏ lửng. Tôi sốt ruột:

– “Dòng sông an bình ở đâu?”

– “Cô đạo gì?”

Dù đã quen với lối nói vòng vo của Võ Bằng, tôi vẫn đổ quạu:

– “Đạo có dính dáng gì tới sông?”

– “Thì cô trả lời đi.”

– “Ba mẹ tôi thờ Phật nhưng tôi không là Phật tử.”

– “Vậy thì cô càng nên đọc ‘Câu Chuyện Dòng Sông’. Tựa gốc là Siddhartha, dịch giả Phùng Khánh. Nếu cô còn nhớ đến tôi thì cô nên tìm đoc. Và khi đọc, hãy nhớ đến tôi.”

Tôi mắng thầm ‘người gì đâu mà nhiều chuyện’ nhưng đáp bằng giọng nhẹ nhàng:

– “Tôi sẽ đọc sau. Bây giờ tôi chỉ muốn biết về dòng sông bất an chiến hạm sắp đi qua.”

– “Nói về sông Lòng Tào, là nói về đánh đấm. Điều này gợi tôi nên báo với cô về tiếng còi ‘nhiệm sở tác chiến’. Cô đã quen với tiếng còi đổi phiên hải hành. Tiếng còi nhiệm sở tác chiến khác hẳn. Nó không ‘tích te’ mà ‘tích tích”. Âm thanh cặp đôi đó nổi lên dồn dập, liên tục, mục đích là hối thúc toàn thể thủy thủ đoàn nhanh chóng vào vị trí tác chiến.”

– “Chiến hạm đang về nghỉ bến mà! Còn tác chiến gì nữa?” Tôi lo lắng hỏi.

– “Chính đoạn đường chót này mới thường xảy ra tác chiến. Để tôi nói có đầu có đuôi cho cô chuẩn bị tư tưởng.”

– “Gì mà ghê vậy?” Tôi cố nén hồi hộp.

– “Về Sài Gòn, có hai ngả đi. Một là vào cửa Soài Rạp đi sông Soài Rạp. Hai là vào cửa Cần Giờ đi sông Lòng Tào. Cả hai sông hội tụ vào sông Nhà Bè. Từ Sông Nhà Bè tiếp tục tiến thêm 10 cây số sẽ đến câu hò nổi tiếng: ‘Nhà Bè nước chảy chia hai. Ai về Gia Định, Đồng Nai thì về. Sông Soài Rạp dài 40 cây số, rộng nhưng dễ mắc cạn. Sông Lòng Tào dài gấp đôi, hẹp mà sâu. Do đó, dù phải mất thêm thì giờ, hầu hết thương thuyền chọn sông Lòng Tào. Riêng với chiến hạm thì không trở ngại với cả hai, tùy hoạt động vùng nào. Nếu hoạt động vùng ven biển miền Trung thì chọn Lòng Tào. Còn hoạt động ở Phú Quốc, miền Tây thì dùng sông Soài Rạp.”

Võ Bằng ngưng nói, móc túi gắn điếu thuốc lên môi rồi móc túi còn lại lấy bật lửa. Hiệu Zippo tốt thật, gió khá mạnh mà chỉ quẹt một lần là bắt lửa. Anh chàng hít vài hơi rồi cẩn thận xoay người nhả khói theo chiều gió. Tuy vậy, mùi thơm vẫn thoang thoảng ngọt ngào. Tôi nhẹ hít đầy phổi. Hương thơm đến đâu, thần kinh rung động nhẹ nhàng và thấy khỏe khoắn hơn. Một cái gì thúc giục tôi đặt câu hỏi:

– “Mấy ngày nay không thấy Đại úy hút thuốc.”

– “Thường thì các người đẹp không ưa ai hút thuốc.”

Tôi nghĩ đến Hưng và đáp:

– “Chỉ đúng với người nào hút loại thuốc khét lẹt. Còn với Hạm Trưởng và Đại úy, mùi thuốc thơm rất ư là dễ chịu. Tôi cũng thấy dường như mùi thuốc của Đại úy khác với mùi thuốc của Hạm Trưởng.”

– “Đúng, ông ấy hút thuốc Mỹ Pall Mall, còn tôi thì Capstan Việt Nam. Năm ngoái qua Mỹ tôi cũng hút Pall Mall và có mua dự trữ khi về nước. Ba tháng sau, hết sạch Pall Mall, tôi đành đổi Capstan ít tiền hơn. Có điều không ngờ việc chọn hiệu thuốc lại ứng cho hoàn cảnh hôm nay. Có thể sau khi cô rời tàu, tôi đổi sang Lucky với hy vọng gặp may mắn hơn.”

– “Đại úy nói ‘Không ngờ việc chọn hiệu thuốc lại ứng cho hoàn cảnh hôm nay’ là sao?

– “Chữ Capstan là viết tắt của câu ‘Cho Anh Phát Súng Tim Anh Nát!’ Tôi nghĩ cô muốn nói với tôi câu đó.

– “Đại úy gieo tiếng oán cho tôi.”

Tôi vừa nói vừa cười nhưng nụ cười tắt ngay. Có thể Võ Bằng không chỉ nát tim mà nát toàn thân thể! Tôi xuýt xoa lắc đầu hỏi tiếp:

– “Còn chữ Lucky thì sao?”

– “Tôi nói rồi, có nghĩa là may mắn.” Võ Bằng cười.

Sợ Võ Bằng được dịp lung lay tình cảm, tôi vội nói:

– “Bây giờ xin trở lại sông Lòng Tào.”

– “Đây là con sông huyết mạch, sinh tử cho kinh tế lẫn quân sự. Do đó địch dốc sức làm nghẽn tắc với quân số 1000 người trong đó gồm hai đội đặc công thủy. Có ba địa điểm dễ bị tấn công. Kể theo hướng tiến của chiến hạm, tại khúc sông cách Nhà Bè 45 cây số, là một ngã tư, nơi hội tụ các sông Lòng Tào, Đồng Tranh, sông Dừa và Ngã Bảy, do đó địch có thể phục kích từ nhiều hướng. Tại khúc sông cách Nhà Bè 20 cây số, nơi đó có góc quẹo gắt hình chữ V, tàu dễ bị leo lên bờ, dễ đụng nhau, nên thường giảm tốc độ. Tại khúc sông cách Nhà Bè 10 cây số có một dải san hô dài vài cây số dọc theo bờ bên hữu hạm, do đó tàu chạy sát tả hạm trở thành mục tiêu ngon lành cho địch.”

Võ Bằng rít vài hơi thuốc rồi lại tiếp:

– “Để đối phó và bảo vệ hai thủy trình, Đặc Khu Rừng Sát được thành lập với đủ binh chủng Bộ Binh, Không Quân, Hải Quân. Riêng Hải Quân, có hai giang đoàn tác chiến, một giang đoàn trục lôi và một toán 10 Người Nhái. Và do địa thế đặc thù của Đặc Khu, gồm toàn cù lao và chi chít sông ngòi, Đặc Khu Trưởng là một Sĩ quan Hải Quân cao cấp.”

Võ Bằng lại hít thuốc như bù hai ngày qua nhịn thèm. Tôi mỉm cười khích lệ:

– “Xem ra kỳ phùng địch thủ gặp nhau.”

– “Kỳ phùng địch thủ?” Võ Bằng gằn giọng. “So sánh như vậy là xây cá nại! Một bên đường đường chính chính, một bên đánh lén đánh lút. Do đó có khi ta bị nhiều cú bất ngờ. Tuy nhiên, nhờ hoạt động lùng và diệt hữu hiệu của toán Người Nhái và bộ binh cũng như phản ứng nhanh chóng, mạnh mẽ của các trực thăng võ trang, các giang đỉnh hộ tống và trục lôi, nên chỉ vài trường hợp là tàu bị thủy lôi chìm.”

Võ Bằng lại rít thuốc trước khi tiếp tục:

– “Địch thường tung ra ba đòn là phục kích, đánh mìn và đặt thủy lôi. Phục kích ở các khúc sông hẹp, đánh mìn ở các khúc quanh và đặt thủy lôi bất cứ nơi nào trên thủy trình. Năm ngoái cũng tháng này, thương thuyền Baton Rouge Victory bị thủy lôi chìm, chịu thiệt hại nặng về vật chất và 7 thủy thủ chết. Một tuần sau đó, một tàu rà thủy lôi bị mìn nổ, 2 chết. Một tháng sau, thêm một thương thuyền khác bị mìn chìm. Nhiều thương thuyền khác cũng bị đánh mìn nhưng thiệt hại nhẹ. Đồng thời với việc đánh mìn, riêng từ đầu năm nay, nhiều thương thuyền bị phục kích ở ba khúc sông nguy hiểm kể trên. Ngoại trừ thương thuyền đến từ Panama có 6 thủy thủ tử thương, tất cả thương thuyền còn lại chỉ thiệt hại không đáng kể.

Võ Bằng lại rít khói rồi búng mẩu thuốc lá ra khơi. Anh chàng quay nhìn tôi, giọng cợt đùa:

– “Vì thế nên hôm nay và chỉ hôm nay thôi, khi tàu đã vào sông Lòng Tào, nhiệm vụ của cô là … nằm ngủ. Ở trên boong thì chết vì phục kích. Ở phòng ngủ thì chết vì thủy lôi. Phục kích thì thường xuyên. Thủy lôi thì chỉ năm khi mười họa. Do đó chỉ có nằm ngủ là khó chết nhất.”

Tôi nghe mà rợn người. Nếu chiến hạm bị phục kích hoặc bị giật mìn hoặc trúng thủy lôi thì còn gì là tôi nữa! Các tin tức này đều có đăng báo. Chắc chắn là Hưng đã biết. Nhưng biết mà tại sao vẫn đưa tôi vào chỗ chết? Và chết do chính ‘phe mình’!”.

Chương 17

Sông Lòng Tào
Chủ nhật 6/8/1967 18:00 G

Tôi còn đang lo lắng bực bội vì bị Hưng dụ dỗ đưa vào tử địa thì Võ Bằng lên tiếng:

– “Để tôi đưa cô về phòng. Đến lúc tôi cần trở lên đài chỉ huy.”

Tôi cảm thấy hụt hẫng lạ thường. Nỗi lo càng dâng cao khi đúng lúc tôi cần có người bên cạnh. Tôi than thở:

– “Đại úy vừa xuống phiên trực mà!”

– “Như tôi vừa nói, giang hành trên sông Lòng Tào thường bị phục kích, do đó mọi người đều phải túc trực tại vị trí tác chiến của mình.”

– “Nhưng chưa nghe còi nhiệm sở tác chiến mà!” Tôi lầu bầu.

– “Từ lúc tàu hướng vào cửa sông là Hạm Phó phải có mặt trên đài chỉ huy rồi. Lẽ ra tôi đã tiếp tục ở trên đó nhưng thấy cửa Cần Giờ còn xa, mà giây phút cuối bên cô thì quá ngắn…”

Lời Võ Bằng lửng lơ mà buồn da diết. Với Võ Bằng, đây là những giây phút cuối cùng bên tôi, nhưng với tôi, cũng có thể là giây phút cuối cùng của đời người. Tôi ngẩn ngơ nhìn cửa Cần Giờ hiện lờ mờ trước mũi tàu. Chẳng lẽ tôi sinh cạnh sông Tiền, sống bên sông Cổ Chiên mà chết trên sông Lòng Tào?

Tôi quay nhìn Võ Bằng với hy vọng anh chàng buông cho vài lời trấn an nhưng chỉ bắt gặp tia nhìn đam mê.

– “Từ lúc này cho đến khi về tới Sài Gòn, tôi sẽ rất bận. Thậm chí cập cầu xong, còn bị kẹt buổi họp phân công. Vì vậy, chắc là không còn thì giờ ở bên cô và cũng không thể đưa cô về tận nhà.”

– “Không sao, Đại úy. Tôi tự lo được.” Tôi nhỏ nhẹ.

– “Cô dám đi tàu một mình thì dĩ nhiên dư sức tự lo. Nhưng phần tôi, tôi vẫn cho đó là một thiếu sót.”

Tôi nhìn những dải lụa trắng mong manh vắt trên nền trời. Đó là mây gì? Cirrus hay Cirrocumulus. Mây có tình yêu không? Nếu không, sao gây bão tố? Quả bom là để gây đổ vỡ chớ đâu để bùng nở tình yêu? Võ Bằng lại một lần nữa như linh cảm những gì tôi đang nghĩ. Anh chàng hỏi:

– “Cô đạt mục đích của chuyến quá giang chứ?”

Tôi giật mình nhưng hiểu ra anh chàng chỉ muốn hỏi về mục đích trá hình. Tôi cười:

– “Rất thích thú với chuyến đi. Biết thêm nhiều điều mới lạ nhưng tiếc là nghe nhiều mà nhớ chẳng bao nhiêu! Chỉ có ngắm là hoàn toàn thỏa mãn.”

– “Có lúc nào cô ngắm tôi không?” Võ Bằng cười nửa miệng.

– “Có chứ! Đại úy rất giống tài tử tôi… rất ghét!” Tôi đùa.

Võ Bằng cười thật tươi và mê đắm nói:

– “Còn cô, là sao Vệ Nữ tôi không ưa nhưng vẫn ngắm hằng đêm.”

Tôi muốn nhắc anh chàng đang là ban ngày, ngôi sao đã lặn hà cớ gì cứ phóng tia mắt về tôi. Tia mắt mỗi lúc một nồng nàn biểu hiện anh chàng sắp ôm hôn. Tôi nhìn về mũi tàu nơi Đại úy Rick đọc sách, hy vọng sự hiện diện của hắn sẽ đủ để ngăn hành động liều lĩnh của Võ Bằng nhưng Đại úy Rick đã biến đi từ bao giờ. Dải hành lang và sân sau đều vắng ngắt. Biển lặng lẽ. Gió mơn man. Tôi hồi hộp chờ đợi và cân nhắc phản ứng. Võ Bằng chỉ cần choàng tay qua vai, kéo tôi lại gần. Tôi quyết định chọn cách đứng yên và nghiêng người ra xa như một lịch sự phản đối. Nếu anh chàng dùng sức mạnh? Thế võ nào được sử dụng để phòng vệ? Hay bỏ đi?

Võ Bằng vẫn đứng yên nhưng mắt vẫn đắm đuối nhìn. Một cảm giác lạ thường rần rật khiến tôi nổi gai ốc. Mặt tôi nóng bừng. Trí não mù mờ quên hết các thế võ. Tôi hồi hộp liếc Võ Bằng. Giọng anh chàng bình thản:

– “Để tôi đưa cô xuống phòng…”

Tôi thở hắt, hoàn hồn và thấy xấu hổ. Tôi đã sẵn sàng cho những xúc động từ một nụ hôn nhưng thái độ đứng đắn của Võ Bằng làm tôi ngỡ ngàng. Nhưng cảm giác từ nụ hôn hụt vẫn lan man. Tôi thẩn thờ nhìn cửa sông đang hẹp dần. Các lùm cây lưa thưa, nhạt nhòa. Con sông màu phù sa dài hun hút. Anh chàng dẫn đường. Tôi lẽo đẽo theo sau, bước chân chao đảo.

Khi vào phòng ăn, Võ Bằng hỏi tôi cần uống gì không. Tôi lắc đầu. Bước qua khu phòng ngủ, giọng anh chàng ấm áp:

– “Chuyến hải hành sắp chấm dứt và lẽ ra chuyến giang hành được tiếp nối cho tròn cuộc ‘rong chơi’ cô mong ước, nhưng đài chỉ huy lại là mục tiêu chính của địch trên sông Lòng Tào.”

Võ Bằng ngưng nói như để tôi thấu hiểu cái lý do ngoài ý muốn rồi mới tiếp tục:

– “Cô hẳn quen với vùng sông nước miền Tây với ‘dòng An Giang cây xanh lá thắm’ nhưng quang cảnh Rừng Sát không được như thế. Cứ tưởng tượng cái tên gọi là y chang. Một đáng tiếc nữa là cô cũng lỡ dịp ngắm Thủ Đô về đêm trên con tàu di chuyển. Nếu không, biết đâu chừng cô bất ngờ bắt gặp người mình yêu đang tay trong tay dạo bến Bạch Đằng với ai đó…”

Dù đang lo, tôi vẫn bật cười:

– “Chắc Đại úy rút từ kinh nghiệm cá nhân?”

Võ Bằng không trả lời nhưng thân ái nói:

– “Để tôi lên đài chỉ huy suy gẫm xem có phải thế không! Trong khi chờ đợi, tôi cần nhắc một lần nữa là cô nên… nằm ngủ, đừng đi lang bang. Hẹn gặp sau…”

Miệng thì nói mà mắt cứ dán vào khuôn mặt tôi. Tôi lại nghĩ đây mới đúng lúc anh chàng tặng tôi một nụ hôn từ biệt nhưng một lần nữa tôi lầm. Võ Bằng thản nhiên quay lưng và leo nhanh lên các bậc thang.

Tôi ngẩn ngơ, mệt mõi bước vào buồng ngủ. Bầu không khí mát rượi khiến tôi càng thèm nhắm mắt. Tôi lột giày bata, thả người lên mặt nệm êm ái. Mắt đã nhắm kín mà như còn thấy màu trắng tinh của tấm drap. Mùi thuốc thơm lấn lướt mùi khói tàu. Tôi hít vào đầy phổi và cơn thèm ngủ nhẹ đi. Tôi lẩm cẩm nghĩ rằng khi đã xa chiến hạm, chiếc giường hẳn là thứ đáng nhớ nhất. Không! Không phải chiếc giường mà là mùi thuốc lá của nó. Dựa vào câu nói ‘người đẹp thường không ưa mùi thuốc lá’ thì hẳn khi quyết định nhường buồng cho tôi, Võ Bằng đã phải nhịn hút suốt cả tuần. Anh chàng đâu biết rằng nếu cứ tiếp tục hút, mùi thơm sẽ nặng hơn và tôi sẽ phê hơn!

Bây giờ tôi càng kinh tởm mùi thuốc lá cũng như cả con người của Hưng. Tâm địa sao mà vô cùng ác độc. Khi yêu, tôi đã quá mù quáng, khờ dại dấn thân vào cuộc sống hiểm nguy và dối trá. Dối cả tên họ ngày sinh tháng đẻ. Dối cả mẹ cha. Hưng có yêu thương gì tôi đâu, chỉ lợi dụng để tiến thân trong tổ chức chuyên thực hiện công tác giết người. Nếu tiếp tục bên Hưng, tôi mãi mãi sẽ không còn là đứa con ngoan như ba mẹ tôi mong muốn.

Hưng còn là một người vô cùng man trá. Anh mô tả công tác tôi được giao phó vừa dễ dàng vừa vinh dự cho tôi. Anh bảo tôi được chọn vì em gái anh không lanh lợi bằng. Anh bảo quả bom được ngụy trang rất khéo, không tài nào khám phá. Anh bảo việc chọn nơi đặt quả bom cũng dễ như trở bàn tay.

Còn việc chỉnh giờ cho bom nổ thì chỉ cần vặn cây kim vào nấc nửa tiếng hay một giờ.

Thực tế, tôi đã trải qua những phút giây đứng tim khi bị khám xét. Việc đem quả bom đến địa điểm cho nổ rất dễ đụng đầu nhân viên đi phiên và tuần phòng. Và thời chỉnh là cả vấn đề. Lúc nào cập cầu, không biết! Cập cầu rồi, lúc nào được rời chiến hạm, không biết. Nếu đặt bom dưới chân bàn ăn với thời chỉnh nửa giờ thì càng dễ chết. Thủ tục không ai rời tàu trước Hạm Trưởng, mà buổi họp kéo dài thì coi như tôi cùng họ… thăng thiên!

Nhưng họ đâu có đáng chết! Mà ngược lại hoàn toàn đáng sống. Suốt hai ngày qua chính tôi đã nghe và thấy sự thật không như Hưng tuyên truyền. Ngay chính Hưng cũng tự mình mâu thuẫn. Chê “Ngụy” là bọn xấu xa, thế sao anh lại thản nhiên giao người vợ tương lai vào vòng tay yêu tinh của họ? Nếu quả thật họ xấu xa, hai ngày hai đêm vừa qua quá đủ cho thân tôi tan tác và không chừng đã làm thức ăn cho cá.

Hưng hễ có dịp là ca ngợi chủ nghĩa cộng sản, cho đó là lý tưởng đời anh. Tôi cũng đã coi đó là lý tưởng đời tôi. Nhưng giờ đây, cách hành xử thiếu tình người của Hưng khiến tôi suy nghĩ lại. Đeo đuổi lý tưởng của đời mình bằng cách hy sinh cả những người mình thương yêu nhất? Nếu cái gọi là lý tưởng đó tốt đẹp thì sao phải bao che hết bằng bức màn tre đến bức màn sắt? Một thế giới đại đồng không gia đình, không tôn giáo, không tổ quốc là thế giới ra làm sao? Nếu nó thực sự lý tưởng thì đâu phải cần khủng bố, giết người; đâu phải đem sinh mạng nhiều thế hệ thanh niên để thử nghiệm nó!

Lâu nay tôi vẫn tin lời Hưng cho rằng chính quyền miền Nam là “Ngụy”. Giờ đây chính tôi quan sát tận tai tận mắt, không có gì chứng tỏ họ là “Ngụy”. Sự việc khiến tôi liên tưởng đến các sử liệu tôi đọc được ở Thư viện Quốc Gia, trước khi lên đường đến địa linh Tây Sơn Tam Kiệt. Dù là hậu duệ vua Gia Long, tôi vẫn không thể không cho rằng thật là quá mỉa mai khi gán cho vị Hoàng Đế từng chiến thắng 50 ngàn quân Xiêm, ba trăm ngàn quân Thanh, giữ vững bờ cõi là “Ngụy”. Ngược lại, vua Gia Long mới chính là Ngụy. Ông đã ‘cõng rắn cắn gà nhà’ qua hành động cầu viện quân Xiêm, quân Pháp, lại còn hứa nhượng đất đai, để cuối cùng Dân Tộc phải trải qua một trăm năm nô lệ. Hành động hiện nay của Cộng Sản Miền Bắc có khác gì triều Nguyễn? Chính họ ôm chân Nga Tàu nhưng gọi chính quyền Miền Nam là “Ngụy”. Tôi không thấy Mỹ có hành động xâm lược. Chỉ thấy quân Cộng Sản Miền Bắc với vũ khí Nga Tàu, vượt vĩ tuyến xâm lược miền Nam.

Giờ đây mặt thật của Hưng đã lột trần. Sự khinh miệt đã hoàn toàn xóa sạch mọi tin yêu. Không còn nghi ngờ gì nữa. Hưng rủ rê tôi ra Quy Nhơn đâu phải vì chiều ý tôi muốn khảo sát di tích triều đại Tây Sơn. Anh chỉ lợi dụng ước mơ đó của tôi, sắp xếp lớp lang để gài tôi vào công tác đặc công và dùng chiến công ấy nâng cao địa vị giết người của anh.

Một ý tưởng khác càng thêm chua xót. Giả sử tôi chết vì thủy lôi? Giấy tờ mang tên Phan Kim Phượng không xác minh được tôi là ai. Chỉ tội nghiệp cho ba mẹ tôi, mất đứa con độc nhất mà không biết vì lý do gì, còn sống hay đã chết. Nếu ông bà tra hỏi Hưng, hẳn anh sẽ tỉnh bơ nói láo, rằng đã đưa tôi ra bến xe nhưng không rõ chuyện gì xảy ra trên đường về. Tôi đã quá dại khờ. Một bài học lớn để thành người, nếu tôi sống sót chuyến này…

Theo lời hứa, hôm nay Hưng sẽ đón tôi ở bến Bạch Đằng. Rất có thể anh đã không chờ vì chiến hạm về quá trễ. Nhưng chắc chắn anh sẽ mò đến nhà. Tôi sẽ nói gì khi quả bom không nổ, chiếc tàu vẫn nguyên vẹn? Đổ thừa cho trở ngại kỹ thuật là hợp lý nhất. Chỉ cần nói tôi đã thời chỉnh đúng theo hướng dẫn. Rồi tôi sẽ tìm cách xa lánh dần. Dứt khoát đột ngột thì quá lộ liễu, chắc chắn tôi bị thanh toán. Tôi sẽ viện lý do thần kinh quá căng thẳng sau mấy ngày trên chiến hạm địch, cần thời gian tĩnh tâm để học hành…

Tống khứ Hưng không mấy khó, cái khó nhất hiện tại là tống khứ quả bom. Ném xuống sông? Chối cãi vào đâu khi Võ Bằng đã dặn đừng đi lang bang mà lại bắt gặp tôi ôm một thùng nặng lên boong! Để nguyên trong xách rời tàu thì rất có thể bị lục xét ngừa ăn cắp mang đồ khỏi tàu. Cách tiện nhất là bỏ nó dưới bàn viết và nhờ Võ Bằng liệng giùm xuống sông. Thời gian tàu nghỉ bến là thuận tiện nhất, đa số về với gia đình.

Tôi tự khen mình nhanh trí, giải quyết thỏa đáng. Tôi hăng hái ngồi bật dậy, mở túi xách mang quả bom để sát vách dưới gầm bàn. Tôi mở túi xách kia lấy cái thời chỉnh ngụy trang bằng gói quà đem đặt ở góc bàn. Tôi bật đèn, mở ngăn kéo tìm cây viết và giấy trắng.

Tôi ngồi thừ người không biết bao lâu. Viết gì đây? Tự thú chăng? Nhờ Võ Bằng vứt quả bom mà không tự thú thì anh chàng cũng biết. Có tự thú thì đến lúc anh chàng đọc thư, tôi cũng đã mất dạng.

Anh Bằng,

Giữ lời đã hứa, trước khi rời tàu, danh xưng Đại úy đã được thay thế bằng ‘Anh’. Và vì Phượng chỉ là tên giả mà tên thật thì chưa thuận tiện nêu ra nên ‘đành’ xưng ‘Em’.

Cùng với việc gọi ‘anh’, em còn có ‘nhã ý’ tặng anh món quà. Món quà này anh xem xong thì vui lòng… vứt bỏ. Chắc anh ngạc nhiên khi nghe em nói thế? Thú thật, cái em gọi là món quà thật ra là một quả bom do chính em mang xuống để đánh chìm chiến hạm cùng sát hại nhiều người, trong đó có thể có cả anh.

Em buộc phải nhờ anh vứt bỏ vì em đổi ý!

Từ nhỏ tới lớn chưa bao giờ em được thưởng thức cuộc sống biển khơi muôn vẻ muôn màu, chưa bao giờ được biết nhiều điều thú vị về trời sao mây nước, nhất là chưa bao giờ em được đối xử bằng tình người chân thành nồng ấm như hai ngày đêm trên chiến hạm…

Em thật lòng muốn đích thân gặp Hạm Trưởng, tất cả thủy thủ đoàn, kể cả Đại úy Rick Ward để tỏ lời cám ơn nồng nhiệt nhất, nhưng trong trường hợp bất khả, xin anh chuyển lời giùm em cùng với lời cam kết: không bao giờ em quên chiếc Hộ Tống Hạm Đống Đa HQ 007 đã giúp in vào ký ức của em những hoạt cảnh hải hành sinh động nhất trần đời, đặc biệt nhớ hoài ba bữa cơm ‘bình dân mà sang trọng’…
Riêng với anh, em biết nói gì bây giờ? Một lời cám ơn nồng nàn nhất hẳn không phải là điều làm anh hài lòng. Thôi để em nói thế này: đương nhiên hình bóng anh đã ẩn vào tiềm thức và vì vậy, chắc chắn thỉnh thoảng em sẽ nằm mơ thấy anh. Nhưng nếu lỡ giấc mơ đó thường xuyên đến, em đành phải tự khuyên mình rằng em không chút gì xứng đáng với anh.

Nói như vậy có nghĩa là vĩnh biệt.

Em

Tôi đọc lại, thấy viết thế là đủ. Có viết thêm thì nét chữ cũng bị nhòe vì nước mắt. Tôi xếp lá thư làm ba và đặt dưới ‘gói quà’. Tôi kéo khung ảnh ‘mẹ bồng con’ che khuất thư và quà. Khi Võ Bằng thấy khung ảnh sai chỗ, chàng ta sẽ dời lại chỗ cũ và thấy hai món kia.

Tôi thở ra, lê bước qua giường. Sự việc đã đâu vào đó, tôi tưởng sẽ vào ngay giấc ngủ nhưng lại cứ nghĩ ngợi lan man. Dường như còn gì đó chưa thanh thỏa. À, còn lời hứa sẽ trả lời câu hỏi độc nhất của Võ Bằng. Chắc anh chàng nói tùy hứng và đã quên. Nếu nhớ thì vừa rồi đã hỏi.

Nhưng tôi vẫn không yên tâm. Một anh chàng ‘láu cá’ như Võ Bằng dễ gì quên. Mà sẽ hỏi gì đây? Tôi đã đoán đó là câu ‘Cô có yêu tôi không’ và tôi đã dự trù trả lời là có. Nếu anh chàng hỏi ‘Cô sẽ nhớ tôi chứ?’ Thì câu trả lời cũng giống như trên. Còn nếu là ‘Nhà cô ở đâu?’ Một địa chỉ ma thì quá dễ.

Tôi chợt giật mình khi nghĩ nếu bị hỏi: ‘Cô có là Việt Cộng?’ Có thể bị hỏi câu này lắm. Biết đâu chừng Thiếu úy An Ninh đã nghi ngờ tôi là Việt Cộng và đã báo với Võ Bằng. Tôi trả lời thế nào? Đương nhiên phải đành nói dối lần chót là ‘Không’.

Nói dối lần chót mà cũng là nói thật từ bây giờ. Tôi chẳng bao giờ còn dại dột theo Việt Cộng. Ngẫm nghĩ, Võ Bằng nói quá đúng. Tôi học đại học miễn phí, ra trường được ngay cái danh giáo sư, nối nghiệp mẹ cha. Có là thứ vô ơn bạc nghĩa mới tiếp tục ‘ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản’!
Cho tới nay vẫn chưa bị bắt đã là đại phước. Còn tiếp tục nghe lời Hưng, tiếp tục biểu tình chống đối, rồi bị bắt nhốt, bị đuổi ra khỏi trường, ai nhận lãnh giùm tương lai tôi mù mịt? Là đứa con duy nhất, bao kỳ vọng cha mẹ đặt vào tôi, ông bà sẽ buồn khổ đến đâu khi biết tôi đã thành đặc công Cộng Sản! Và bị cầm tù…

Tiếng còi ‘tích tích’ dồn dập, rền rĩ vang lên. Những tiếng động đâu đây. Những tiếng chân chạy hối hả. Dù đã được báo trước và từ nhỏ đã tự luyện mình phớt lờ mọi gian nguy mà giờ tôi vẫn nghe rõ tiếng tim thùm thụp.

Hẳn chiến hạm sắp đến ngã tư, khúc sông nguy hiểm thứ nhất trong ba khúc sông, nơi ‘phe địch’ có thể phục kích từ nhiều hướng. Tôi ngóc đầu nhìn hông tàu. Vách sơn màu trắng trông mong manh quá, súng cỡ nào cũng có thể bắn thủng. Tôi nhìn lên trần. Các thanh đà ngang trông như những lưỡi đao sẵn sàng cắt đứt thân tôi nếu thủy lôi hất tôi lên cao.

Còi tác chiến cũng có nghĩa là tôi đang nằm trên quả thủy lôi không biết nó nổ lúc nào. Cũng không biết sức công phá của nó có làm kích hoạt quả bom tôi mang theo? Nếu nó nổ, tôi có chết cũng đáng đời!

Những tiếng ‘tích tích’ tiếp tục réo gọi, hối thúc, đe dọa. Tim tôi như ngưng đập, người lạnh toát. Thủy trình theo như Bằng nói là dài 80 cây số mất ít nhất 4 tiếng. Bốn tiếng chắc đủ cho tim tôi ngưng đập mãi mãi! Thôi thì ác giả ác báo.

Tôi không nhận biết chiến hạm đang còn chạy hay ngừng vì chỉ còn âm thanh rù rù rất nhẹ. Không một chút đong đưa, tôi như đang nằm trên chiếc giường êm ái trong căn phòng riêng ở Vĩnh Long. Nhưng tâm trạng, nói theo Võ Bằng, thì một trời một vực. Tôi đang sợ! Con tàu càng lặng yên càng đáng sợ. Tôi cầu Trời khấn Phật phù hộ tôi được an lành. Sau chuyến đi này, tôi sẽ đi chùa thường hơn.
Trong thân xác rã rời, tôi tưởng dễ chìm vào giấc ngủ để khỏi phải âu lo nhưng vẫn cứ nghĩ ngợi miên man. Tôi có đang yêu Võ Bằng? Trước Hưng, tôi có vài mối tình học trò nhẹ nhàng. Lên đại học gặp Hưng, tôi cho đây mới thực là tình đầu. Nhưng giờ thì quá sợ tình đầu. Võ Bằng cũng trải qua ba mối tình. Phải chăng giai nhân ‘mẹ bồng con’ là tình đầu?

Tôi mơ màng thấy Bằng đứng ở cánh phải của đài chỉ huy, cạnh Hạm Trưởng trên chiếc ghế đặc quyền của ông. Tôi như thấy Đại úy Rick đứng ôm chiếc la bàn. Tôi cũng thấy các nhân viên sẵn sàng ở các ổ súng. Tôi nghĩ đến khúc quẹo gắt tàu phải giảm tốc độ và đài chỉ huy trình diện sát bờ sông. Tôi thiếp đi trong niềm âu lo: ‘Liệu Võ Bằng có sao không?’

KẾT

Tiếng ‘cộc cộc cộc’ lớn dần khiến tôi tỉnh ngủ và nhận ra đó là tiếng gõ cửa. Tôi hỏi:

– “Ai đó?”

Giọng nói của Võ Bằng:

– “Cô Phượng chuẩn bị rời tàu. Chừng nào xong thì ra phòng ăn.”

Tôi lật đật ngồi dậy. Đồng hồ chỉ 21:05. Chậm thêm một tiếng so với dự trù. Tôi đã ngủ say sưa suốt ba bốn tiếng và mừng là được an toàn. Vĩnh biệt thủy lôi và phục kích! Tôi thở phào nhẹ nhõm, bước đến mở túi xách lấy bọc trang điểm rồi vào buồng vệ sinh.

Mười lăm phút sau, tôi mang hai túi xách bước ra ngoài. Võ Bằng ngồi ở chiếc ghế vẫn nhường cho tôi và các sĩ quan hiện diện đông đủ. Ghế Hạm Trưởng còn trống. Vừa lúc, tôi nhận ra ông đang ngồi ở bộ salon với vị Thiếu tá lạ mặt. Cả hai đang đăm đăm nhìn tôi. Tôi khẽ cúi chào, vội nói:

– “Xin lỗi nhị vị Thiếu tá, tôi mải nhìn ghế Hạm Trưởng…”

– “Tôi biết.” Ông cười nhạo.

Tôi định nói lời cám ơn và từ biệt thì Hạm Trưởng lên tiếng:

– “Giới thiệu với cô Phượng, đây là Hải Quân Thiếu tá Thái Quốc Tân, Trưởng Phòng An Ninh Bộ Tư Lệnh Hạm Đội. Thiếu tá muốn gặp cô hỏi vài việc…”

Tôi lo lắng nhìn vị Thiếu tá đang thong thả đứng lên. Ông tươi cười:

– “Tôi đã xin phép Hạm Trưởng mời cô lên Hạm Đội.”

Tôi cố giữ vẻ tự nhiên, hỏi:

– “Thưa Thiếu Tá, về việc gì?”

Ông đưa tờ giấy đang cầm lên ngang tầm mắt tôi:

– “Về việc này.”

Đó là tờ giấy phép quá giang của tôi. Chẳng lẽ họ đã biết đó là giấy giả? Tôi ra vẻ ngạc nhiên:

– “Thưa tôi không hiểu!”

– “Tôi được biết đó là giấy giả.”

– “Giấy giả?” Tôi kêu lên.

– “Vì vậy chúng tôi cần mời cô về Phòng An Ninh để hỏi thêm chi tiết.”

Tôi định nhìn Thiếu úy Tiến, An Ninh chiến hạm nhưng kịp nhận ra không phải lúc. Nên tỏ ra vô tội bằng cách tiếp tục nhìn vị Thiếu tá với vẻ mặt ngạc nhiên. Ông nói với Hạm Trưởng:

– “Tôi sẽ thông báo kết quả trong thời hạn sớm nhất.”

– “Cám ơn nhiều.”

Hạm Trưởng đứng lên chìa tay. Vị Thiếu tá bắt tay và chào kính. Ông quay lui nói với anh Hạ sĩ quan tùy tùng đứng gần khung cửa giúp mang hai túi xách của tôi. Tôi muốn giữ lại một nhưng anh không đồng ý.

Võ Bằng đứng lên đến trước Hạm Trưởng:

– “Xin phép Hạm Trưởng cho tôi đưa cô Phượng lên hạm kiều.”

Ông gật đầu. Tôi lấy giọng tự nhiên:

– “Xin cám ơn Thiếu tá đã cho dịp hưởng hai ngày đêm trên biển thật đẹp. Sẽ không bao giờ quên.” Tôi hướng về các sĩ quan: “Xin chào các anh. Chào Đại úy Rick.”

Mọi người vẫy tay. Rick nói: ‘Bye, bye’. Vị Thiếu tá đi trước. Võ Bằng và tôi theo sau. Anh Hạ sĩ quan đi sau cùng. Tôi giữ bước chân tự nhiên mà lòng tràn ngập lo âu. Rõ ràng tôi đang bị bắt và sẽ bị tra hỏi ai cung cấp giấy giả. Dĩ nhiên tôi sẽ khai là nhờ Hưng và hoàn toàn không biết đó là giấy giả. Hưng đáng để nhận mọi rắc rối và hình phạt. Tôi sẽ được ra về…

Nhưng nếu Võ Bằng không ném bỏ quả bom mà lại đem giao nộp? Trường hợp này, tôi sẽ thú thật mọi sự. Tôi sẽ khai tôi ở trong tổ chức đặc công của Hưng nhưng đã nhận ra sai lầm nên quyết cải tà quy chánh. Dù rằng tôi đã không cho nổ quả bom, nhưng nếu phải trả một giá nào đó, thì cũng là lẽ công bằng…

Bước ra hành lang, cơn gió hâm hấp ập tới khiến tôi gần ngộp thở. Tôi nhìn lên các ghế đá dọc bờ sông. Ghế nào cũng có cặp đôi. Tôi mong Hưng có mặt để nhìn tận mắt tôi bị bắt nhưng Hưng đã không đợi. Trên cầu tàu, gần chân hạm kiều, chiếc xe Jeep đã đậu sẵn.

Khi tôi bước đến trạm kiểm soát, Trung úy Thân, anh Hạ sĩ quan và anh lính gác mỉm cười chào. Tôi đáp lễ, nói:

– “Xin chuyển lời từ biệt đến tất cả các anh.”

Vị Thiếu tá bước lên hạm kiều. Trung úy Thân hô ‘nghiêm’ và tất cả đưa tay chào. Vị Thiếu tá chào đáp. Tôi dợm bước theo thì Võ Bằng nói:

– “Cô Phượng chưa rời tàu được.”

Tôi băn khoăn ngoảnh lui. Anh chàng cười:

– ‘Cô còn nợ tôi câu hỏi cuối cùng!”

Tôi cười thầm: ‘Biết ngay, dễ gì anh chàng quên!’. Tôi nói:

– “Rất vui được thanh thỏa!”

– “Chừng nào chúng ta ngao du núi Tao Phùng?” Võ Bằng chiếu tướng.

Câu hỏi bất ngờ ngoài dự đoán. Tôi đã nói lời vĩnh biệt trong thư, hơn nữa giờ đây là thân ‘cá chậu chim lồng’ thì sao nói được chừng nào. Nhưng chia tay đâu lẽ mang tiếng bội ước! Tôi cười chua xót, dịu giọng:

– “Chừng nào có dịp tình cờ!”

– “Dịp tình cờ?” Võ Bằng nhăn mặt.

– “Dà, dịp tình cờ!” Tôi nhỏ nhẹ.

– “Hãy dứt khoát: Một tháng, một năm, năm năm? Hay cô còn khó khăn hơn cả vua Thủy Tề là ‘chẳng bao giờ?’” Giọng Võ Bằng thiết tha.

Tôi nghẹn ngào nhìn Võ Bằng. Tôi có thể hứa láo nhưng đã tự thề là từ nay không sống bằng dối trá. Thôi thì đang mặt đối mặt, lời cuối gọi anh xưng em thay cho thời điểm hẹn hò:

– “Anh Bằng. Anh nói chỉ hỏi một câu duy nhất trước khi em rời tàu. Anh đã hỏi và em đã trả lời. Vừa rồi là câu hỏi thứ nhì!”

VŨ THẤT
Virginia, tháng 3/2023

Lời Bạt

Chuyến đi khởi hành ngày 04 tháng 8 năm 1967 và kết thúc vào ngày 06 tháng 8 năm 1967, từ vùng biển Qui Nhơn qua Phú Yên, Nha Trang, Cam Ranh, Ninh Thuận, Bình Thuận, Bình Tuy, Phước Tuy, Gành Rái, sông Lòng Tào và cặp bến Sài Gòn vỏn vẹn có ba ngày và hai đêm đường mà đã xảy ra không biết bao nhiêu sự kiện dồn dập cho một cuộc hành trình nhiều hiểm nguy này… Xin có vài cảm tưởng:

– Trước nhứt, đọc truyện dài Đời Thủy Thủ 2 của nhà văn Vũ Thất tôi mê nhứt là tác giả đã đưa mình qua các vùng biển vừa kể với nghệ thuật tả cảnh rất là cảnh của một người từng sống trên chiến hạm qua khắp đất trời biển rộng mịt mùng; chỉ riêng về khía cạnh này thôi, tôi tin khó có tác giả nào qua nổi nhà văn Vũ Thất.

– Ghi nhận kế tiếp là từ những cảnh vật trời biển bao la ấy, với nhân vật Phượng, qua đó tác giả đã cho các nhân vật khác trên chiến hạm, tùy mỗi người, mỗi cấp bậc, mỗi phần hành, mỗi nhiệm vụ và trách nhiệm, các nhân vật vừa hư hư thực thực ấy có dịp trổ tài về khoa ăn nói với cách giới thiệu rất nhà nghề về các nhiệm vụ và cách vận hành của chiến hạm giống như chính tác giả là người nắm tay người đọc và dẫn dắt, cắt nghĩa mạch lạc cho những người đọc nhà quê già như tôi biết thế nào về sự vận hành của một chiến hạm trên mặt đại dương bao la về đêm cũng như lúc ban ngày! Nếu không có dịp may được đọc Đời Thủy Thủ 2, làm gì tôi biết được lon nào là cấp nào trong binh chủng Hải quân; vịnh nào là vùng nào trên các hải phận từ Qui Nhơn tới Gành Rái, và còn biết bao điều thú vị trong các trang sách hấp dẫn ấy nữa…

– Thêm nữa, ở chương 4, người đọc rất thú vị biết thêm được sở thích và kiến thức quảng bác của Đại Úy Võ Bằng qua kệ sách trong phòng ngủ của ông trên tàu, làm cho người đọc nhà quê già khu đế nhưng ưa tò mò như tôi có thể suy đoán rằng có lẽ ông Võ Bằng này có quê quán là dân gốc gác vùng Thất Sơn Châu Đốc vì thấy ông cũng mê “Thất Sơn Mầu Nhiệm”của Nguyễn Văn Hầu chăng?

“- Nautical Navigation – Dutton
– Handbook of Damage Control
– The Cruel Sea – Nicholas Monsarrat
– The Old Man And The Sea – Ernest Hemingway
– Martin Heidegger & Tư Tưởng Hiện Đại – Bùi Giáng
– Quẳng Gánh Lo Đi Và Vui Sống – Nguyễn Hiến Lê
– Hoàng Tử Bé – Antoine de Saint-Exupéry
– Điệu Ru Nước Mắt – Duyên Anh
– Thất Sơn Mầu Nhiệm – Dật sĩ & Nguyễn Văn Hầu”

– Thứ nữa là qua cái việc hư hư thực thực của nhân vật Phượng trong câu chuyện, chúng tôi nghĩ ngay đến số phận của chiến hạm với chuyến hải hành chỉ dài hai ngày hai đêm nhưng sao nghe thời gian dường như quá dài, dài đến độ mới tới chương 2, nhà văn Lâm Chương phải đành thốt lên: “Đọc hụt hơi luôn!”

Là người đọc thuộc thế hệ được sanh ra vào các năm đầu thập niên 1940-1943, nhưng sao trong lòng tôi cứ vừa đọc Đời Thủ Thủ 2 với cảnh tàu phải qua các hải phận vào lúc ban đêm trời biển tối đen vừa nhớ câu thơ mở đầu bài thơ Oceano nox (Biển đêm) của Victor Hugo(*) mà cách nay lâu lắm rồi chừng như có tới gần sáu bảy chục năm chúng tôi đã được nghe giáo sư Nguyễn Văn Hay, thầy dạy môn Pháp văn trường Trung học Thoại Ngọc Hầu (Long Xuyên) của chúng tôi đã đọc và cắt nghĩa cho học trò lớp đệ Lục chúng tôi hồi đó (niên khóa 1957-1958), dù tuổi đời lúc bấy giờ chúng tôi còn quá nhỏ, vốn vô tư lự nhưng sao chúng tôi ngồi nghe mà lòng cứ bồi hồi về những chuyến hải hành, về phận đời của những thuyền trưởng, những thủy thủ khi tàu bị dông bão mịt mù…

– Ngoài nội dung với cốt truyện vừa gây cấn, vừa tình cảm, vừa tranh luận đến độ có lúc sự căng thẳng lên tới mức muốn nghẹt thở làm người đọc có cảm tưởng như nhân vật nào cũng ở vào thế thủ, mạnh ai nấy lo thủ thế, lo giữ phần hồn của chính mình; ở đó nó còn cho người đọc biết thêm nhiều chữ dùng rất đặc biệt của những người thủy thủ đi tàu trên biển như:“hữu tiến”, “tả lùi”, “lái thẳng”…(chương 2);“nhiệm sở tác chiến” (chương 17), “hạm kiều”(chương Kết)…etc… Đặc biệt, chương thứ 10: “Nhật Đạo Thái Bình Dương” là chương sách hấp dẫn với người đọc nhà quê già như tụi tôi vì lần đầu tiên khi ở tuổi đời ngoài tám bó này, tôi mới nghe kể về mấy chữ rất mới như “Nhật đạo Thái Bình Dương”. Sao gọi là “nhật đạo” và sao lại gọi là “Nhật đạo Thái Bình Dương” mà không là “nhật đạo” các đại dương khác trong vũ trụ này? Chắc có lẽ sẽ mời bạn thử đọc lại chương thứ 10 này vì nó lạ và hấp dẫn cho một chuyến hải hành “xuyên nhật đạo” từ bên Mỹ về Việt Nam, mà người ngoài rất khó biết nếu không có dịp tác giả giới thiệu qua chương sách mới vừa kể!

– Dà, các nhà văn viết tiểu thuyết, truyện ngắn hay truyện dài rồi cũng đến lúc tới hồi phải kết thúc; do vậy mà Đời Thủy Thủ 2 qua hết chương 17 rồi cũng phải Kết với nhân vật Phượng ở chương Kết:

“Tiếng ‘cộc cộc cộc’ lớn dần khiến tôi tỉnh ngủ và nhận ra đó là tiếng gõ cửa. Tôi hỏi:

– “Ai đó?”

Giọng nói của Võ Bằng:

– “Cô Phượng chuẩn bị rời tàu. Chừng nào xong thì ra phòng ăn.”

Tôi lật đật ngồi dậy. Đồng hồ chỉ 21:05. Chậm thêm một tiếng so với dự trù. Tôi đã ngủ say sưa suốt ba bốn tiếng và mừng là được an toàn. Vĩnh biệt thủy lôi và phục kích! Tôi thở phào nhẹ nhõm, bước đến mở túi xách lấy bọc trang điểm rồi vào buồng vệ sinh.

Mười lăm phút sau, tôi mang hai túi xách bước ra ngoài. Võ Bằng ngồi ở chiếc ghế vẫn nhường cho tôi và các sĩ quan hiện diện đông đủ. Ghế Hạm Trưởng còn trống. Vừa lúc, tôi nhận ra ông đang ngồi ở bộ salon với vị Thiếu tá lạ mặt. Cả hai đang đăm đăm nhìn tôi. Tôi khẽ cúi chào, vội nói:

– “Xin lỗi nhị vị Thiếu tá, tôi mải nhìn ghế Hạm Trưởng…”

– “Tôi biết.” Ông cười nhạo.

Tôi định nói lời cám ơn và từ biệt thì Hạm Trưởng lên tiếng:

– “Giới thiệu với cô Phượng, đây là Hải Quân Thiếu tá Thái Quốc Tân, Trưởng Phòng An Ninh Bộ Tư Lệnh Hạm Đội. Thiếu tá muốn gặp cô hỏi vài việc…”

Tôi lo lắng nhìn vị Thiếu tá đang thong thả đứng lên. Ông tươi cười:

– “Tôi đã xin phép Hạm Trưởng mời cô lên Hạm Đội.”

Tôi cố giữ vẻ tự nhiên, hỏi:

– “Thưa Thiếu Tá, về việc gì?”

Ông đưa tờ giấy đang cầm lên ngang tầm mắt tôi:

– “Về việc này.”

Đó là tờ giấy phép quá giang của tôi. Chẳng lẽ họ đã biết đó là giấy giả? Tôi ra vẻ ngạc nhiên:

– “Thưa tôi không hiểu!”

– “Tôi được biết đó là giấy giả.”

– “Giấy giả?” Tôi kêu lên.

– “Vì vậy chúng tôi cần mời cô về Phòng An Ninh để hỏi thêm chi tiết.”
(…)

Ngay từ đầu, ở phần Mở, qua Đại úy Võ Bằng, tác giả đã đã gợi cho biết Giấy Phép Chuyển Vận có sự nghi ngờ là giấy giả nên việc xuống tàu không suôn sẻ rồi:

“Tôi dừng chân ở cuối cầu thang cũng vừa đúng lúc anh chàng hạ sĩ quan mang hai gạch gãy đặt chân lên cầu tàu. Anh lịch sự hỏi:

– “Chào cô. Cô muốn tìm ai?”

Tôi nở nụ cười thật tươi gây cảm tình:

– “Tôi muốn xin quá giang về Sài Gòn!”

– “Cô có giấy phép quá giang?”

Tôi mở bóp, trao tờ Lệnh Chuyển Vận. Anh hạ sĩ quan xem rồi nhã nhặn:

– “Cô vui lòng chờ một chút.”
(…)

“Tiếng “giấy phép” gợi trong tôi cảm giác nôn nao, bồn chồn. Nếu như họ biết đó là giấy giả thì sao? Hưng đã trấn an tôi nhiều lần rằng không ai có thể khám phá ra giấy giả. Trước tôi anh đã cho hai cô đi quá giang dò đường cũng bằng giấy giả và mọi sự êm xuôi. Hai lần đó, người bảo lãnh là hai thủy thủ. Riêng với tôi lần này là một Trung úy, xem ra uy thế hơn nhiều.”

“Và quả đúng như vậy! Hạm phó Đại úy Võ Bằng lẽ ra từ chối cho quá giang vì đây là tàu chiến nhưng vì nghĩ đến người bạn cùng khóa của mình: Trung úy Phan Kim Đính nên ông trình xin Hạm Trưởng chấp thuận.” Đến khi tàu cặp bến Sài Gòn, chính cách cư xử khá ân cần và quá tử tế của thủy thủ đoàn dành cho mình trong suốt lộ trình từ Qui Nhơn về Sài Gòn tới giờ phút chót, đã cảm hóa nhân vật Phượng để rồi cô phải thốt lên với Đại uý Võ Bằng qua suy nghĩ cuối cùng trước khi rời tàu:

“Tôi nghẹn ngào nhìn Võ Bằng. Tôi có thể hứa láo nhưng đã tự thề là từ nay không sống bằng dối trá. Thôi thì đang mặt đối mặt, lời cuối gọi anh xưng em thay cho thời điểm hẹn hò…”

Theo thiển ý của tôi, tôi mạo muội nghĩ rằng ở phần Mở và phần Kết truyện Đời Thủy Thủ 2 như vậy không phải là lối kết có hậu như các truyện Tàu ngày xưa (2) mà ở đây nó có sự nhất quán giữa lời Mở và lời Kết để rồi sự tình sau khi nhân vật Phượng theo thiếu tá Thái Quốc Tân lên bờ, rồi ra số phận của cô Phượng sẽ ra sao; phần này tác giả có dụng ý muốn dành cho người đọc góp phần của mình sau khi đọc hết cuốn truyện của ông, mỗi người sẽ có cái kết rất riêng của mình tùy theo cái nhân sinh quan và cái nhìn của mỗi người đọc về cốt truyện vừa kể.

Thay lời kết:

Viết về Đời Thủy Thủ 1 của nhà văn Vũ Thất, tám năm về trước, tôi có viết:

“Tôi không mơ mình sẽ đem lại cho bạn điều gì mới mẻ, bởi một lẽ giản dị là tác phẩm này in lần đầu vào năm 1969, tức đã lâu lắm rồi, làm sao mình có thể tìm ra được điều gì mới lạ sau khi cuộc chiến cũng đã tàn rồi sau bốn mươi năm?!?

Nhưng có một điều là, sở dĩ tôi đọc lại Đời Thủy Thủ 1 và ghi lại vài cảm tưởng này bởi vì khi tác giả sáng tác tác-phẩm này là lúc tôi cũng chỉ thua ông vài ba tuổi, và có thời tôi cũng ở Nha Trang ba bốn năm, và tôi có biết thế nào là tình yêu thuở đôi mươi và tôi cũng biết thế nào là chiến tranh khốc liệt khi mình còn rất trẻ nên khi đọc lại Đời Thủy Thủ và ngồi xuống ghi lại mấy cảm tưởng này không phải nhằm giới thiệu hay quảng cáo sách cho tác giả, bởi lẽ chắc ông nay cũng không còn cần ai quảng cáo hay khen chê gì về mình; mà ở đây tôi chỉ muốn ghi lại cho mình, cho chính mình mà thôi, và dịp này, như một lời cảm ơn chân thành của một người đọc, tôi muốn gởi đến tác giả khi tác phẩm của ông mang cho mình bồi hồi sống lại một thời hoa mộng của tuổi đôi mươi ngày nào, nay đã xa rồi, xa lắm hơn năm mươi năm! “
(Kinh Xáng Bốn Tổng, ngày 02 tháng 12 năm 2015)

Và hôm nay, cách nay vừa 8 năm về trước, cũng cùng tâm trạng như vậy, khi chúng tôi ngồi ghi lại vài cảm tưởng về Đời Thủy Thủ 2 của nhà văn Vũ Thất, chúng tôi chỉ muốn vừa để giới thiệu vừa để bày tỏ cùng tác giả niềm ngưỡng mộ một nhà văn dù ở tuổi ngoài tám mươi nhưng ở ông vẫn tỏa sáng một văn tài qua tác phẩm mới còn nóng hổi này vậy!

Quả thật, truyện dài Đời Thủy Thủ 2, về nhiều phương diện, là một tác phẩm rất thú vị!

Trân trọng,
Hai Trầu
Một người đọc nhà quê già
Houston, ngày 08 tháng 4 năm 2023

Cước chú:

1/ Bài thơ Oceano nox (Biển đêm) của Victor Hugo dài có tới 8 đoạn, mỗi đoạn gồm sáu câu với câu mở đầu:

« Oh! combien de marins, combien de capitaines… »
(Ôi! Bao thủy thủ, bao thuyền trưởng?)

2/ “Bốn Lối Kết Bốn Nhân Sinh Quan” trong tác phẩm Mười Câu Chuyện Văn Chương của học giả Nguyễn Hiến Lê, nhà xuất bản Văn Nghệ, California, Hao Kỳ, năm 1986

Vài Cảm nhận của Độc Giả:

*** Từ thuở còn thơ, tôi đã thích đọc sách về phiêu lưu mạo hiểm của các nhân vật anh hùng từ truyện Việt qua truyện Tàu. Lớn lên thì vùi đầu vào xem truyện của Clive Cussler, Dan Brown, Lee Child… và nhiều tác giả nổi tiếng khác. Xem phim thì thích xem James Bond và Tom Cruise trong Mission Imposible hay Top Gun…

Với nhà văn Vũ Thất, tôi vốn thích câu chuyện phiêu lưu mạo hiểm Đời Thủy Thủ, vì vậy khi thấy tác giả bắt đầu đăng từng phần truyện dài “Đời Thủy Thủ 2” là tôi cứ mãi chờ mong hàng tuần được đọc thêm phần kế tiếp.

Đời Thủy Thủ 2 quả đúng là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm. Từ Quy Nhơn, chiến hạm cho một cô sinh viên đi quá giang về Sài Gòn mà không ai ngờ đó là một đặc công Việt Cộng. Cô nàng mang theo quả bom, dự tính thời chỉnh cho bom nổ khi tàu cập bến Bạch Đằng. Thế nhưng cô nàng cũng không ngờ chính sinh mạng mình còn mong manh hơn khi phải trải qua hai ngày hai đêm giữa không gian chật hẹp toàn đàn ông và súng đạn. Chuyến hải hành phiêu lưu mạo hiểm càng lúc càng hồi hộp, hấp dẫn.

Bên cạnh mối hiểm nguy cho cả hai bên, tác giả khéo léo lồng vào các mẫu chuyện thú vị về hàng hải thiên văn, về các đặc điểm của từng hải phận và thành phố và về nhiệm vụ bảo vệ lãnh hải. Tác giả cũng cho thấy anh chàng Hạm Phó mang cả trái tim lãng mạn tặng nhầm đối tượng.

Tóm tắt, “Đời Thủy Thủ 2” là một cuốn truyện giá trị và thích thú. Mời quý độc giả tham gia một chuyến hải hành thật đẹp đầy hương vị hoa biển.

Nhà văn Tôn Nữ Thu Nga

*** Khi tác phẩm “Đời Thủy Thủ 2” của nhà văn Vũ Thất khởi đăng từng kỳ trên các trang mạng, độc giả khắp nơi đã nồng nhiệt đón nhận qua việc lưu lại những nhận xét nồng hậu như “ly kỳ, hồi hộp, gay cấn, nóng lòng chờ đọc tiếp ….” Quả thật, với bút pháp mạch lạc, hành văn sáng sủa và cốt truyện hấp dẫn, tác giả đã trọn vẹn lôi cuốn và chinh phục người đọc ngay từ giòng chữ đầu, khi vai nữ chính vừa bước chân lên cầu tàu gặp ông Hạm Phó hào hoa để xin được “đi biển có đôi”.

Rồi êm ái như con tầu từ từ tách bến, chuyện tình thơ mộng cũng từ từ nở hoa. Rồi khi con tàu lướt vô sóng dập gió vùi, tình yêu cũng lao vào lâm ly gay cấn. Qua tâm tình giữa nữ đặc công và vị Hạm Phó, người đọc có dịp bước vào nhiều địa hạt đặc thù khác như lịch sử, địa lý, thiên văn hàng hải… Tác giả đã nhẹ nhàng khéo léo xen kẽ vào lãnh vực thực tế chuyên môn, nhiệm vụ quan trọng trên chiến hạm như hải hành, vận chuyển, hải pháo… bằng các câu đối thoại dí dỏm, tình cảm mơ mộng lãng mạn như chuyện tình ngư nữ, như cội nguồn của những chòm sao. Lại thêm nhiều bất ngờ thích thú, lắm lúc khó phân biệt được chân giả, như vị hạm phó đang trên đài chỉ huy, uy nghi dõng dạc ban lệnh điều động chiến hạm hay đang miên man say đắm cùng giải Ngân Hà, chia sẻ nỗi buồn chia tay của Ngưu Lang Chức Nữ…

Các Sinh Viên Sĩ Quan Hải Quân thường được rao giảng hải nghiệp là “một ngành học uyên bác, một cuộc sống hải hồ, một nghề nghiệp cao quí”; qua “Đời Thủy Thủ 2, tác giả còn cho biết thêm cái “một” nữa, đó là “một tình yêu gay cấn”. Gay cấn không chỉ vì “hai người hai hướng” mà giữa hai người còn thêm… trái bom nổ chậm!

Nhìn chung, đây là một tác phẩm quí hiếm nhiều giá trị đáng đọc, nhất là tác giả lại là một nhà văn HQ/QLVNCH hiếm có tại hải ngoại.

Nhà biên khảo Trần Đỗ Cẩm

bài đã đăng của Vũ Thất

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2023 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)