Trang chính » Chuyên Đề, Kiểm Duyệt Văn Hóa Nghệ Thuật, Phỏng vấn, Tư Liệu Email bài này

Nói chuyện với Nam Dao

4 bình luận ♦ 6.05.2009

BBT Da màu phỏng vấn nhà văn Nam Dao
Phùng Nguyễn thực hiện

 

Phùng Nguyn:
Việc Trăng Nguyên Sơ bị thu hồi chỉ sau một thời gian ngắn được bày bán ở các hiệu sách có làm anh ngạc nhiên hay không? Hoặc việc Trăng Nguyên Sơ được phép xuất bản trước đó có là một điều đáng ngạc nhiên? Có phải văn nghệ sĩ là đám ngây thơ, luôn có khả năng ngạc nhiên về những điều không đáng/nên ngạc nhiên?

Nam Dao:
trangnguyenso Khi gửi Trăng Nguyên Sơ về, tôi chỉ mong có phản hồi từ một số nhà văn ở Việt Nam mà tôi trân trọng. Đùng một cái, hai nhà văn đưa đến cùng một nhà xuất bản xin giấy phép. Một với cái tên Cõi Tình (tôi định chọn ban đầu), và một với cái tên Trăng Nguyên Sơ. Tác phẩm chỉ một, nhưng có đến 2 giấy phép với một nhà xuất bản! Thú vị, nhưng băn khoăn: thà đừng in, nhưng giữ được cái thanh khí tương đồng giữa những người cầm bút. Tôi thư về. Hai nhà văn giới thiệu tiểu thuyết của tôi với nxb Lao Động đồng thuận, và Trăng Nguyên Sơ thụ thai từ cái “mối tình” tay ba, kể tác giả là một. Thời gian tôi gửi Trăng Nguyên Sơ về là thời gian chúng ta khởi động chủ đề hội nhập trên diễn đàn Hội Luận Văn Học, trong đó vấn đề hội nhập giữa những nhà văn trong và ngoài nước nổi cộm. Ngay sau đó là vụ tập Trn Dn-Thơ nổ ra, cũng ngưng phát hành, thu hồi… và sau thì những người cầm quyền “lơ” đi sau khi trí thức trong nước và hải ngoại làm kiến nghị phản ứng. Như vậy, lẽ ra là đánh trong “trứng nước” thì đỡ rắc rối hơn là thu hồi sau khi một tác phẩm được in nên Trăng Nguyên Sơ có phép xuất bản đúng là một điều đáng ngạc nhiên. Và khi những kẻ cầm quyền ra lệnh ngưng phát hành Trăng Nguyên Sơ thì tôi lại càng ngạc nhiên, chẳng phải vì tôi không hiểu mà là vì họ chẳng rút được bài học nào từ chuyện cấm Chuyn k năm 2000 khi xưa, rồi Trn Dn-Thơ năm ngoái. Tôi không dám nói gì về những văn nghệ sĩ khác, nhưng tôi biết riêng tôi, tôi ngây thơ, và sẽ tiếp tục ngây thơ tin vào sự khả thi cũa những điều tốt đẹp trên đời. Tôi sẽ tiếp tục gửi công việc văn chương của mình về cội nguồn ngôn ngữ Việt Nam, và chắc còn ngạc nhiên dài dài.

Phùng Nguyn
Gần đây, trong một bài viết trên mục “Bàn tròn văn nghệ” của website “Hội Nhà Văn Việt Nam,” tác giả Nguyễn Hoàn đã đề nghị Cục Xuất Bản thuộc bộ Thông Tin và Truyền Thông (Việt Nam) làm áp lực với nhà xuất bản Lao Động để hủy bỏ toàn bộ phần viết về “Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam” trong tập biên khảo Trnh Công Sơn Vết Chân Dã Tràng của nhà biên khảo Ban Mai. Anh nghĩ sao về thái độ “tin cậy” của ông Nguyễn Hoàn dành cho chế độ kiểm duyệt của nhà cầm quyền VN?

Nam Dao:
Nếu tác giả Nguyễn Hoàn chỉ là công cụ nhắm một mục đích chính trị nào đó, ông ta viết thế nhằm cho phép những người cầm quyền “tư tưởng” la lối, đấy “nhân dân” nghĩ thế đấy, phát biểu thế đấy, và để ‘’ phục vụ nhân dân’’ chúng tôi phải đục, khoét, tẩy, xóa…những văn bản này, văn bản kia… Trường hợp Nguyễn Hoàn-công cụ chẳng có gì để bàn, ngoài cái thủ pháp “đấu tố” vẫn còn mưng mủ trong tâm thức mấy ông cán bộ. Ở mức vô văn hóa, thậm chí mọi rợ, người ta còn sai đầu gấu ném cứt vào nhà bà Trần Khải Thanh Thủy mới đáng kinh tởm.

Nếu tác giả Nguyễn Hoàn không hành xử như một công cụ của quyền lực thì tôi nghĩ ông ta có cái quyền của người đọc. Và xin nhắc dù tôi có bất đồng ý kiến với bạn, nhưng tôi sẽ cực lực tranh đấu chống những kẻ tìm cách bịt miệng không để bạn nói.

Tôi vào website của Hội Nhà Văn và nay trích lời kết của Nguyễn Hoàn:

Có nhận định đúng về chiến tranh Việt Nam, về hoàn cảnh xã hội, về không khí thời đại, về sự giáo dục cá nhân…đã ảnh hưởng, tác động đến Trịnh Công Sơn, có nhận định đúng về chỗ đứng phản chiến của Trịnh Công Sơn mới có thể đánh giá đầy đủ, chính xác về giá trị nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn cũng như những đóng góp của Trịnh Công Sơn đối với phong trào yêu nước ở đô thị miền Nam, tránh sa vào đánh giá sai lệch, phiến diện, thiếu sót, thậm chí áp đặt khiên cưỡng cả những quan điểm vay mượn xa rời với thực tiễn và chân lý lịch sử. Vì lẽ đó, chúng tôi đề nghị Cục Xuất bản, Bộ Thông tin và Truyền thông yêu cầu NXB Lao Động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội và tác giả Ban Mai huỷ bỏ toàn bộ phần viết về “Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam” trong cuốn sách “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” hoặc viết lại theo quan điểm đúng đắn thì cuốn sách này mới được phép lưu hành, tránh gây nên những tác hại và ngộ nhận đáng tiếc.

Bài viết này không có phn hi, bình lun nào. Tôi mong rằng ý kiến của Nguyễn Hoàn không phản ánh ý kiến của Hội Nhà Văn. Chỉ trong một đoạn ngắn trích trên, những khái niệm làm sởn gai ốc những ai có chút kiến thức như thực tiễn và chân lý lịch sử (tôi gạch dưới) được xử dụng để dẫn tới đề nghị Ban Mai viết lại theo quan điểm đúng đắn (tôi cũng gạch dưới) khiến tôi mang cảm giác bất an cho nhà xuất bản Lao Động và Trung Tâm Văn Hóa Đông Tây (in Trần Dần-Thơ, in Trăng Nguyên Sơ, rồi in biên khảo của Ban Mai). Ai biết gì về những thực tiễn (và nhất là) chân lý lịch sử? Khi viết tiểu thuyết lịch sử, tôi cất công đọc những nghiên cứu từ nhiều nguồn, để khỏi đọc chỉ bằng một mắt, mắt của những kẻ chiến thắng cho mình cái quyền viết sử để xảo dựng quan điểm đúng đắn (sic) của quyền lực.

Phùng Nguyn:
Theo anh, thái độ như của Nguyễn Hoàn có những tác động nào lên quyền “tự do ngôn luận” của người dân, đặc biệt của giới làm văn nghệ trong nước? Anh có cho rằng chấp nhận và dựa dẫm vào quyền kiểm soát tư tưởng chỉ có thể đưa đến sự kéo dài của chế độ kiểm duyệt?

Nam Dao:
Giới làm văn nghệ rất phức tạp. Theo cách tổ chức Leninít, có những hội văn nghệ địa phương (huyện, tỉnh, trung ương (TU), tức Hội Nhà Văn (HNV) cho những người cầm bút ), và thăng tiến là trở thành hội viên HNV. Hội viên HNV có nhiều loại. Thực tài, cũng có, thường là khôn ngoan, biết tránh né, nhưng không ‘’ phò chính thống’’ lộ liễu, thi thoảng cũng ‘’ có quan điểm riêng’’ và quấy phá kiểu vè ‘’ HNV nhìn từ gần’’ nhại bài ‘’ Đất Nước nhìn từ xa’’ của nhà thơ Nguyễn Duy. Thực tài, hiếm đấy (tôi có thể kể tên dăm vị, nhưng thôi, đừng bắt tôi kể để mang tiếng thấy sang bắt quàng làm họ), và họ thừa biết trò ‘’ bàn tròn văn nghệ’’ mà chỉ độc một người phán, không ai phản hồi, khiến khi nghĩ 2 lần (2 thôi) thì có thể HNV chuyển tải một thứ mệnh lệnh và, rất dửng dưng (đây là giả thiết tốt đẹp nhất cho HNV). Còn một phần trong số trên dưới 800 vị hội viên thì có người là nhân viên lãnh lương của những ty văn hóa Huyện, Tỉnh …được TU chú ý. Họ là cây đa cây đề đầu làng cuối chợ, là ‘’ vĩ nhân tỉnh lẻ’’ theo bà Dương Thu Hương. Họ đợi đến dịp Tết, Hội Hè….thì viết đếm trang ra tiền ( có giải thưởng Hồ Chí Minh, giá là 3-5 triệu đồng VN năm 2005-6, không tên tuổi, chỉ 1-2 triệu ), và khi TU họp thì cũng được đến Thành Phố ‘’ lân la ‘’ và lê la để tiến thân trong trường chữ nghĩa…Loại ’’ làm’’ văn nghệ này chỉ có khả năng lập lại lời lẽ chính thống, hoặc viết nhưng chẳng chuyển tải điều gì ngoài dăm cái hào nhoáng của ngôn ngữ rỗng nghĩa, và để họ tự do ngôn luận thì họ chỉ bới lông tìm vết hạ nhục lẫn nhau, tranh ăn tranh nói, tranh ….cái danh hão ‘’ làm mõ ‘’ trong thời đại hội nhập toàn cầu mà địa phương họ chỉ là một cái chấm li ti (nhìn không thấy) trên địa đồ. Với họ, NH cũng chẳng tác động gì. Chai sạn cả rồi mà! Ngoài hai thái cực vừa kể, là những người ‘’ thầm lặng’’. Số đông này chẳng ngây thơ, mà cũng không muốn làm anh hùng. Họ thấm mệt, và chờ đợi. Không phải kiểu chờ đợi phút tàn đời rồi viết hồi ký mong ‘’ ăn cả đến đời sau’’ của những vị rách trời rơi xuống như … Nguyễn Khải, như …thôi, …vân vân. Họ chờ đợi gì? Kiểu chờ Godot chăng?

Phần hai của câu hỏi, hỏi là tự trả lời rồi. Kiểm duyệt nhằm hạn chế quyền ngôn luận, và làm thế, là bó bột (thậm chí tước đoạt) khả năng tư duy tự do cuả toàn xã hội. Phương Đông dưới ‘’ thần’’ quyền Khổng-Mạnh, và ngay ở Việt Nam ta, xưa chỉ phạm húy thôi là đủ tù tội, lắm khi chết, vì chạm đến Vua, gia đình nội ngoại Vua, vợ Vua, gia đình vợ Vua…Thế quyền biết ( hoặc hy vọng) sẽ vững (một cách nói) hơn nếu mang dáng dấp thần quyền, uy hiển, bí mật ( cái này thì như kiểu ‘’ hội kín’’ thôi). Phương Tây (Âu Châu), trước thời Khai Sáng, quyền là thần quyền, cứ mở sách Thánh ra, và sách không nói là quả đất tròn mà ông Bruno bảo thế thì mang ông lên giàn hỏa thiêu, châm lửa đợi gió lên là…xong. Nhưng sau Bruno, có Galileo, bị giam lỏng đến cuối đời vì theo lý thuyết Copernic. Rồi đến Descartes. Rồi Pascal, Darwin…cho đến những kỷ nguyên sau này, Âu Châu vùng mình khởi động nền Khoa Học làm thay đổi 18 thế kỷ ù lì từ thời Công Nguyên. Hiện nay, khó mà phủ nhận chính sự tự do tư duy tư tưởng đã tạo ra tiến bộ, chẳng chỉ khoa học, mà còn cả trên những phương diện để con người có điều kiện nẩy nở phát triển một cách toàn diện. Không chỉ duy vật thực nghiệm và duy lý, con người thế kỷ 21 này vươn đến một nền văn hóa tổng hợp trong đó triết và đạo lý giữ một phần quan trọng. Còn phương Đông? Ở Trung Quốc, lạng quạng từ ‘’ duy ý chí’’ điên khùng thời Maoít qua chủ nghĩa thực dụng của họ Đặng ‘’ cứ có thời cơ’’ là xông lên kiểu ‘’được việc’’ như con mèo lông trắng lông đen bắt chuột như mèo U.S.A, những lớp kế thừa quyền lực độc tôn hiện nay biết thắt cà-vạt, mặc áo vét, đang mang tham vọng ‘’ bá quyền’’, từng bước thay thế ông chủ Mỹ bị ung thư, phải dùng hoá trị liệu pháp (chimeotherapy) bằng cách bơm đô la cứu viện cho bọn tư bản tài phiệt tài chính ‘’ vô trách nhiệm’’ bày ra trò tích sản tẩm độc (toxic assets). Tóm gọn, Đông phương hồng (lời Mao chủ tịch, ảnh vẫn chưng ở cửa Thiên An) nay chạy theo phương Tây, nhưng than ôi, một phương Tây từng huy hoàng nhưng nay đã vào giai đoạn ung độc, chẳng chỉ kinh tế, mà còn rễu rã về tư tuởng, về triết lý, và nhất là về đạo lý. Việt Nam mình, anh hùng thế, đánh đổ nào Thực Dân, nào Phong Kiến, nào Phát Xít, và cả Đế Quốc thì sao? Rập khuôn Trung Quốc. Mà chẳng rập khuôn vàng thước ngọc, lại rập mẫu, thậm chí cường đại, những cái gì xấu nhất, lạc hậu nhất, vô nhân nhất. Nhưng cái xấu lên ngôi thì cần bá quan tả hữu cầm roi chầu quất vào lớp người cùng khổ bị trị, gọi mỹ miều là nhân dân. Để họ tê liệt, phải gây mê bộ não. Mê đi cùng U. Để U, chặn tư duy. Muốn chặn tư duy, cấm tự do ngôn luận. Mở ngoặc, xưa Hàn Dũ kêu, bất bình tắc minh, nghĩa là lòng uất ức phải nói ra. Nay nói không được thì sự bất bình kia thành khối U. Phương pháp trong trị liệu tạm thời khối U là Mê. Mê gì? Tiền, hoa hậu, bóng đá, tài tử Hồng Kông, Đài Loan, Đại Hàn…Rồi thì xìke, thuốc lắc, đĩ điếm, chém giết, chụp giựt…

Nhưng bạn sẽ hỏi, hoặc có bạn sẽ hỏi, ở đâu mà chẳng có ‘’ kiểm duyệt’’. Vâng, đúng thế. Âu Mỹ cũng kiểm duyệt như ai chứ đâu phải không? Đố bạn viết gì ủng hộ bọn khủng bố al-Quaeda mà được in ra ‘’ đàng hoàng’’ trên ( lấy một thí dụ) NY Times đấy! Cơ chế thị trường tự do cũng kiểm duyệt: cái chi in ra mà không bán được, hay làm mất khách, thì giảm đi, thậm chí…dẹp. Vì thế, sự ‘’dung tục’’ lên ngôi, đám đông ( tức quần chúng chứ không phải Đảng ta) ‘’ chuyên chế ‘’, khách hàng là Vua. Ngôn luận và văn chương là một món hàng như mọi mặt hàng. Nhưng nói đến mặt hàng, ta không khỏi nghĩ đến những mặt hàng vi biệt (tôi liều dịch từ product differentiated trong kinh tế học) xếp từ cấp cao đến cấp thấp. Thí dụ, xe thì có Ferrari, Mercedes, BMW…rồi nào Toyota, Honda, Fiat, GM….Cũng là xe, nhưng đẳng cấp khác nhau, và giá cũng khác nhau. Vậy thì ‘’ làm theo khả năng, ăn theo thu nhập’’, ai cũng có gu và có món của mình. Đúng qui luật, thị trường ‘’kiểm duyệt’’ nhưng không ra quyết nghị này nọ và cho phép người tiêu thụ lựa chọn những mặt hàng vi biệt, kể cả những mặt hàng văn hóa-thông tin, miễn sao người sản xuất nó làm ra lợi nhuận. Cơ chế thị trường văn hóa-thông tin như vậy là một hệ thống ‘’mở’’, có chỗ sả xú-báp, chứ không ‘’ngạt thở’’ khiến não bộ bị tê liệt. Cho phép tôi mở ngoặc nói nôm na về định lý thứ hai trong Nhiệt động học: trong một hệ thống ‘’đóng’’, độ entropy tăng, mọi sự sẽ an bài nhưng không còn sức sống. Ta lấy một cái hộp đậy kín bưng, trong đó những phân tử không khí ban đầu chuyển động, phân bố lộn xộn, va chạm nhau, và sinh ra năng lượng. Hệ thống ‘’ đóng ‘’ là hệ thống không trao năng lượng với bên ngoài : sau một thời gian, những phân tử nói trên từ từ an vị, độ va chạm không còn, và năng lượng của hệ thống đóng cũng vậy, bị triệt tiêu. Áp dụng vào sinh học, định lý này dự báo sự chết. Áp dụng vào Tin học, định lý này cho rằng nếu đóng thì hệ thống mất hết thông tin. Bây giờ, ta liều mạng bàn qua văn hóa, một hệ thống kín, tương tự, sẽ dẫn đến trạng thái vô văn hóa. Và kiểm duyệt là đóng cho kín một hệ thống văn hoá-thông tin. Xin thưa, với các bạn và những vị trách nhiệm chuyện Tư Tưởng Văn Hóa ở Việt Nam, rằng đóng kín như nói trên là bất khả thi. Có cố, thì thành làm hề, trong một thế giới toàn cầu với kỹ nghệ thông tin hiện đại. Nhưng khi làm hề – với trò bôi mặt mầu xanh, bôi mũi mầu đỏ – thì thực chất chỉ nhằm cướp chút ít thời gian để ăn của bẩn đến từ chuyện bán đất, bán biển, bán quặng bô-xít, và để cho hàng vạn công nhân TQ tràn qua biên giới chẳng chỉ ở Tây Nguyên mà nay lan đến Đồng Bằng sông Cửu Long. Đây là chuyện lớn, chẳng như cái chuyện cấm với ngưng phát hành Trăng Nguyên Sơ!

Như đã nói, kiểm duyệt có, và ở mọi nơi. Trong một nước tân tiến dân chủ, thị trường ‘’ kiểm duyệt ’’, và là một vấn đề kinh doanh. Trong những quốc gia mà ‘’ chính trị thống soái ’’, kiểm duyệt nằm trong tầm tay quyền lực. Thời thực dân Pháp, có những nhà xuất bản và có báo chí tư nhân. Kiểm duyệt đục bỏ thì khi in họ để …( nhiều chấm) cảnh báo. Khi có vấn đề cộm, quyền lực vận dụng hệ thống Tư Pháp ( tòa án). Thời Việt Nam Cộng Hòa trong miền Nam cũng rập khuôn gần như vậy (xin tham khảo bài viết của nhà báo Đinh Từ Thức). Thời nay ở Việt Nam, kiểm duyệt ngặt nghèo hơn nhiều. Bung ra được vài năm sau Đổi Mới, văn chương lại đi vào con đường thui chột, bế tắc trong khi xã hội thì đầy vấn nạn. Trong chiến tranh, Đế quốc ném bom không khiến được con người Việt Nam quay về thời Đồ Đá. Nhưng khi tái lập hòa bình, chính những con người ấy ‘’rủ’’ nhau, ở mọi tầng lớp, ‘’tiến lên ‘’ thời Đồ Đểu.

Có người hỏi, thế thì ta phải làm gì? Ông Bùi Minh Quốc (và nhiều người khác….) trong nước kêu rằng, thôi ngưng quốc doanh hóa quyền ngôn luận, phải nới ra để báo chí và xuất bản là một hoạt động tư nhân. Phạm luật, có luật pháp xét xử. Thưa đúng thế. Nhưng như vậy, Tư Pháp phải tách khỏi quyền lực chính trị, tức Đảng lãnh đạo, điều 4 trong Hiến Pháp.

Cái mớ bòng bong lại hiện hình, như trong một cơn mộng dữ!

Phùng Nguyn:
Văn thư của cục trưởng cục xuất bản Nguyễn Kiểm gởi nhà xuất bản Lao Động đưa ra một số nhận xét mang tính phê phán về nội dung của Trăng Nguyên Sơ. Theo anh, có phải là ông Nguyễn Kiểm (và cái cục của ông) đã xâm phạm lãnh thổ của các nhà phê bình văn học chuyên nghiệp hay không?

Nam Dao:
Trong một chế độ toàn trị, quyền lực chính trị là quyền lực không biên giới. Vả lại, các nhà phê bình văn học có tay nghề còn là một lực lượng mỏng, và nhiều khi họ cũng chưa xác định được biên giới nghề nghiệp của họ.

Phùng Nguyn:
Dưới chế độ kiểm duyệt, không thể có một môi trường thuận lợi cho công cuộc phê bình văn học, trong đó có việc bị giới hạn trong số tác phẩm vô thưởng vô phạt… Phải chăng giới phê bình gần như bị bó tay vì không tiếp cận được với những sáng tác có tính khai phá đích thực?

Nam Dao:
Thưa anh, vô thưởng vô phạt thì dĩ nhiên chẳng có gì để phê, để bình. Và chế độ kiểm duyệt ở Hà Nội chỉ cho phép sáng tạo có tính hình thức kiểu ngôn ngữ uốn éo làm xiệc, nhưng chớ đụng vào những vấn đề ‘’ nhậy cảm’’. Hiện nay, phải tránh đụng đến hai chữ Trung Quốc. Ta hẳn nhớ vụ ông Bush bị ném giầy vào mặt. Hai vị nguyên thủ khác cũng bị ném như vậy, một là Thủ Tướng Ôn Gia Bảo. Khi truyền thông Việt Nam loan tin (như mọi nơi khác) thì ông Ôn này thành một vị nguyên thủ Á Châu không nêu danh, và dĩ nhiên giầy chệch đối tượng đến 2,3 thước, khiến ông khỏi phải tránh như ông Bush. Vinh quang thật! Nhất là cho người phóng viên ‘’phải’’ viết tin kiếm sống : khéo mới nói đến cái chi tiết 2, 3 thước đó để chúng ta hiểu ra cái ngô nghê của chế độ kiểm duyệt và…các vị cầm quyền![1] Nhân đây, xin nhắc chuyện Rồng Đá của Vũ Ngọc Tiến-Lê Mai bị thu hồi, nhà xb Đà Nẵng phải tạm ngưng hoạt động, và nhà văn Đà Linh mất chức phó Tổng Biên Tập (đây cũng là nơi in ‘’Trần Dần-Thơ’’). Nếu tò mò, mời bạn đọc tham khảo trao đổi ‘’Tại sao lại cấm Trăng Nguyên Sơ?’’ trong đó giả thiết lý do ‘’ thật’’ dính dáng đến tương quan Trung Quốc-Việt Nam có vẻ thuyết phục.

Phùng Nguyn:
Trong bài “Bây giờ tôi hát Lạc quan đen?” trên Hội luận, anh đã đề cập đến khả năng “vong thân” của các tác giả hải ngoại muốn tác phẩm mình được xuất bản trong nước. Trong khi phát biểu của anh trong “Bây giờ tôi hát lạc quan đen?” không nhất thiết mâu thuẫn với chuyện anh cho phép ấn hành Trăng Nguyên Sơ trong nước, độc giả có thể đặt câu hỏi tại sao anh lại đi làm một việc mà chính anh đã cảnh báo người khác. Câu trả lời của anh là gì?

Nam Dao:
Có lẽ anh nhắc đoạn văn này :

Với kiểm duyệt trong nước, tôi xin nói ngay, và rất cụ thể, rất chủ quan: nhà văn/nhà thơ hải ngoại không chỉ vì in ấn phổ biến mà đánh mất tự do – và thế là đánh mất mình – hạ mình chấp nhận những thao tác kiểm duyệt khiến nội dung mình muốn chuyển tải mất đi, hoặc giảm thiểu, hoặc biến dạng thành thứ sản phẩm muốn hiểu thế nào thì hiểu với cái danh xưng mỹ miều trá hình mang tên ‘’ẩn dụ’’ mà thực ra chỉ là loại hình xìu xìu ển ển của những nhà ảo thuật. Nếu kiểm duyệt câu chữ (cho rành mạch, sát gu độc giả với những từ ngữ mới thời thượng), thông báo và chỉ in ấn khi có sự đồng tình của tác giả thì ta chấp nhận thì được: đây là trách vụ biên tập – ‘’editing’’- một sự cố bình thường ở mọi địa bàn văn chương, nhất là ở Mỹ và ở nhiều nước Âu châu. Chúng ta không thể dễ dãi nhân nhượng gì với kiểu kiểm duyệt va chạm đến quyền tự do tư tưởng và ngôn luận. Làm thế, ta phủ định chức năng nhà văn/nhà thơ. Ngược lại ta được gì? Huyễn tưởng có tác phẩm đến với công chúng? Công chúng nào cho những tác phẩm mà nhà văn vong thân đánh mất mình? Còn như nếu bạn cho rằng phải thế mới đến được độc giả thì…. xin thưa ngay, trí nhớ của độc giả ngắn còn hơn một câu văn không thật, tức là zỏm, như bản thân người viết đánh mất mình. Thế thì in để làm gì nhỉ?

Vâng, tôi viết thế và xin bảo lưu. Thật ra, Trăng Nguyên Sơ không hề ‘’ bị’’ biên tập : nhà văn Đoàn Tử Huyến in ‘’ nguyên con’’ ( cám ơn anh Huyến). Như vậy, tôi không có gì mà phải vong thân. Còn đưa văn chương viết bằng ngôn ngữ Việt về cái nôi văn hóa của nó, tôi thiết tưởng là chuyện tất nhiên. Tôi có thể viết bằng một ngôn ngữ khác, như Đinh Linh, như Monique Trương…Nhưng thú thật, tôi có thử qua, và mỗi lần, cái cách tôi cảm nhận không hiểu sao khác với cách cảm nhận khi tôi viết bằng ngôn ngữ mẹ. Sự chọn lựa viết của tôi bắt đầu là chọn ngôn ngữ chuyển tải. Và tôi quyết mãi mãi là người Việt. Cái giá làm người Việt, khá đắt, như anh biết đấy.

Nhưng đúng là tôi có cảnh báo khả năng vong hóa của người viết khi muốn in ấn để đến với độc giả trong nước. Ngoài kiểm duyệt của các quan văn hóa mà trích đoạn trên đã đề cập, phải nói thêm về hiện tượng ‘’ tự kiểm duyệt ‘’. Một tác giả cứ khăng khăng ‘’ dao to búa lớn ‘’ với giọng điệu ‘’ khiêu khích’’ để chuyển tải một nội dung ‘’ nhậy cảm’’ hẳn khó lọt cửa quan. Nhưng cùng nội dung đó, nói thế nào cho ‘’người ta’’ nghe mà nhà văn không phải thỏa hiệp với quyền lực, không khoan nhượng trước những trái tai gai mắt trong xã hội, không ‘’ đánh mất’’ mình để thể hiện chức năng của người cầm bút, là tối quan trọng. Viết là để nói, nói với độc giả, và in ra tức nói được với nhiều người. Không nói được, thì tất nhiên chẳng ai nghe thấy gì, và viết lách thành chuyện ‘’toi cơm’’ vô tích sự! Nhưng nói theo cái tiếng hót của quyền lực, thì nói làm gì, ai nghe!

Phùng Nguyn:
Tôi có cái hân hạnh được anh cho phép đọc Trăng Nguyên Sơ trong dạng bản thảo trước đây. “Khủng hoảng đạo đức” của xã hội VN là chủ đề/quan tâm lớn nhất của Trăng Nguyên Sơ. Anh có thể chia sẻ cùng độc giả Da Màu cách tiếp cận vấn đề này trong Trăng Nguyên Sơ hay không?  Cũng xin anh nói qua về cái nhu cầu truy tầm vật Bảo Quốc Hộ Dân.

Nam Dao:
Thế Nước có chông chênh, mới phải Bảo Quốc. Dân đen có lầm than cơ cực, mới phải Hộ Dân. Đi tìm, là vì chưa (không) có. Hoặc mất. Đúng như anh cảm nhận, cái mất đó anh gọi là ‘’ khủng hoảng đạo đức’’. Và có tìm lại được, thì mới giữ được Nước, mới đỡ được Dân.

Cuộc khủng hoảng nói trên – hiện tượng ‘’ đạo lý rễu rã’’- đã tác động đến gia đình, đơn vị cơ sở trong nhiều xã hội loài người. Ở đây, tôi xin trích lại báo động Vượt Ngưỡng của GS Nguyễn Huệ Chi cách đây không lâu trong chuyên mục khủng hoảng đạo đức trên Talawas Blog :

Tình trạng vượt ngưỡng: Sự khủng hoảng đạo đức trong xã hội chúng ta đã vượt khỏi cái ngưỡng mà như một quy ước vô ngôn, mọi xã hội văn minh không bao giờ cho phép vượt. Hãy cứ nhìn vào nhiều ngõ ngách của đời sống, bất cứ vùng miền nào cũng diễn ra như cơm bữa những chuyện nhức nhối mà lý trí thông thường không thể giải thích, đôi khi có cả những chuyện tưởng chừng đã chạm đến bản năng sinh tồn nó phân biệt con vật với con người (mẹ ném con xuống sông, bố giết con, ông giết cháu, con giết bố giết mẹ…)[2] . Phải coi đây là một sự băng hoại không thể xem thường, một cảnh báo về nguy cơ tồn vong của cộng đồng dân tộc.

GS Chi đánh giá con vật quá thấp. Thú dữ như beo cọp cũng không giết con ăn thịt, vì tồn sinh của nòi giống là thiên luân. Thế mà…nghe GS kể ở trên….thì chẳng lẽ xã hội Việt Nam mất cả thiên luân, nghĩa là đang trên đà xuống thấp hơn cả loài thú ư? Tôi không nghi ngờ gì lời vị GS khả kính này : muốn kiểm chứng, chúng ta lên mạng tìm báo (như báo Công An ND chẳng hạn) mà xem tin tức đời sống xã hội ở Việt Nam thì rõ.

Hẹp nhất, và gần gũi cho mọi người là gia đình, hình thái sơ đẳng từ những ngày nhân loại biết đứng trên hai chân. Xa hơn, rộng hơn, là bộ lạc hợp thành làng xã, hình thức tổ chức xã hội đến từ nhu cầu cộng sinh hầu có thể tồn tại trước những đe dọa mà tổ chức gia đình không đối phó nổi. Vì chung sống với nhau, phải có ‘’ luật chơi’’. Cá nhân này buộc chấp nhận cá nhân kia, rồi nâng cấp từ cá nhân lên làng xã, quận huyện, vv… Những luật chơi này là ước lệ cộng sinh của những tập hợp đồng thuận. Nếu ‘’luật’’ có thể thành văn,bất biến và không tùy tiện thì ‘’lệ’’ , được hiểu ngầm, thường là truyền thống văn hoá trong ứng xử, cũng rất quan yếu. Con người thành hình một thứ đạo lý xã hội giữa những con người với nhau, tôi xin tạm gọi là xã luân. Vì là xã hội con người, nên sự tôn trọng thành tố con người hẳn tất nhiên : gốc rễ của xã luân ắt lấy cơ sở là nhân luân, đạo làm người. Đạo làm người bắt đầu đến từ nhu cầu chung sống, nhưng qua gạn lọc của thời gian, Đạo đó là một tập hợp minh triết tồn tại trong một xã hội.

Hiện nay, những hiện tượng vượt ngưỡng cảnh báo ở trên có, và nguy cơ con người Việt Nam mất ngay cả đến thiên luân đã ló dạng. Đúng là đạo lý đang rễu rã và chúng ta không thể bàng quan đứng ngó rồi lặng thinh im miệng được! Cảnh báo về nguy cơ tồn vong cuả cộng đồng dân tộc phải được xếp hàng đầu trong những lưu tâm về thời cuộc.

Phùng Nguyn:
Thưa anh, đạo lý rễu rã ra sao, những gì, trong xã hội ‘’hậu chiến’’ hiện nay ? Và tại sao đạo lý rễu rã? Hoàn cảnh tâm lý, lịch sử, và vấn đề văn hóa?

Nam Dao:
Đạo lý rễu rã ra sao? Nhiều lắm, mọi mặt, và trong mọi tầng lớp xã hội. Nhưng xin đơn cử lại cảnh báo của ông Chi : hạt nhân gia đình đang vỡ mảnh, và đã có hiện tượng ông giết cháu, bố mẹ giết con, tức con người mất đến cả thiên luân mà Trời phú cho mọi sinh vật : thiên luân là cách định danh cho cái bản năng bảo tồn nòi giống. Mà không còn thiên luân, thì đánh mất nhân luân-một sản phẩm văn hoá- dễ như chơi, có khó gì. Nhất là một khi xã hội ‘’ lơ ‘’ đi, như ở miền Bắc, chuyện một bé gái làm ô-sin bị nhà chủ hành hạ đến gây thương tật đã hàng chục năm mà tổ dân phố và lân bang hàng xóm làm ngơ cho đến khi báo chí ở Hà Nội phanh phui. Ở miền Nam, phong trào bán con đi làm dâu Đài Loan, Đại Hàn… không gặp phản ứng gì gay gắt. Nhớ thuở xưa, thời 20-40 ở miền Bắc, lấy Tây thì bị gọi là Me Tây. Thời 60-70, trong miền Nam, lấy Mỹ thì bị gọi là Me Mỹ. Thương cho các nàng dâu xứ người thời nay. Họ cũng tủi nhục có kém gì xưa, nhưng có chút an ủi, họ không bị gọi là Me. Xã hội tâng họ lên bà, và các bà về xây cơ ngơi cho cha mẹ, mua đất dựng nhà Từ Đường, đủ làm khao khát bao nhiêu người muốn nhưng chẳng được như vậy. Trong điều kiện tồn tại ngày ngày đủ no đã quá khó, đắm đuối vật dục thật tự nhiên. Phẩm giá tiết hạnh đều là sản phẩm khi bụng không đói, và nhìn về phía trước thấy chút ánh sáng tương lai.

Cách hành xử của mỗi cá nhân dựa trên cơ sở anh (chị) ta kế thừa gì từ giáo dc gia đình, học đường, và những điều mắt thấy tai nghe trong xã hội. Tôi xin phép đưa ra vài nhận xét về vấn đề giáo dc thời ‘’ hậu bao cấp’’, trước khi bàn đến phạm trù xã hội.

Hết bao cấp, miệng lưỡi uốn éo phù thủy thì kêu ‘’xã hội hóa’’ khâu y tế và giáo dục, nhưng thực tế Nhà Nước (XHCN?) duỗi ra, đẩy những khâu vào tay người ‘’ tiêu thụ’’, bắt họ chi trả như mọi món hàng mua qua bán lại trên thị trường. Phải nói, ngay ở những nước Âu-Mỹ tư bản thứ thiệt, y tế và giáo dục vẫn luôn là một loại mặt hàng công tư lẫn lộn, loại hàng có tính xã hội, không thể chỉ mua bán trao đổi như ‘’vật tư ’’. Ở nông thôn, nơi tập trung 80% dân số với thu nhập rất thấp, trẻ em thất học, mù chữ, ngày một đông. Lớn lên, ít học hành, các em đi lên thành thị làm phu phen không cần tay nghề, lương rẻ mạt, không có chế độ an sinh, thậm chí không giấy tờ cư trú, bị bóc lột đến xương tủy trong những doanh nghiệp ngoại quốc đến ‘’ làm ăn’’. Ở thành thị, các em may mắn đi học trường ‘’công’’ cấp trung và tiểu học cũng phải đóng đủ loại phí, thầy cô lại ‘’ khuyến khích’’ học thêm ngoài giờ thì thi mới đậu, cuối năm mới lên lớp…, lấy thêm chút thu nhập đập vào đồng lương chết đói của nhà giáo. Hiện tượng học sinh bị hạ nhục, thậm chí đánh đập nay nhiều, và ngược lại hiện tượng học sinh đánh trả thầy cô cũng không hiếm. Học đường bát nháo, cái học thì hời hợt, học thuộc rồi trả bài, không khuyến khích tư duy độc lập, sáng tạo. Lên cấp đại học, ôi thôi, tình trạng còn thảm hơn. Thi mướn, bán đầu đề thi, và oái oăm thay, không biết đào tạo thế nào mà chỉ vài cái chớp mắt là thạc sĩ tiến sĩ chạy rông đầy đường, danh thiếp nào chìa ra ( với nhau!) cũng ghi bằng cấp, học vị, chân giả lẫn lộn khó lường. Cái học thật, học để hành, không thấy đâu, chỉ vung vít danh thiếp, o e chữ nghĩa rổng tuếch. Tóm lại, học đường nay không phải chỗ nào cũng là nơi khai mở kiến thức, trau luyện con người. Khá phổ biến, học đường nhiều nơi phá phách đến triệt tiêu nhân cách, thui chột đạo lý. Vả lại, nếu khâu Giáo Dục hiện nay không là thất bại nặng nề nhất của Nhà Nước đương quyền thì phải hiểu ra rằng ngu dân là quốc sách ư? Ờ, mà có lẽ thế thật.

Anh sẽ hỏi, thế còn giáo dục gia đình? Ở nông thôn, thu nhập thấp, kiếm cho đủ ăn vẫn là vấn đề sinh tồn hàng ngày cho nhiều gia đình. Làn sóng ‘’hiện đại’’ du nhập những sinh hoạt ‘’ văn minh thị thành’’ vào một môi trường mà thực chất là, như mọi nông thôn trong những nước kém phát triển, khá lạc hậu. Độ vênh này khiến qua TV, phim ảnh…nông dân mơ ước đổi đời, thèm khát những chân trời hứa hẹn, có dịp là bỏ lên Thành Phố, tạo một luồng di dân đáng kể. Con cái lớn lên đi tìm công ăn việc làm ở những khu Công Nghiệp. Luồng di dân về thành thị tạo ra không biết cơ man nào là vấn đề. Sự hình thành những ghetto, đèo vào là tệ nạn của một xã hội khốn cùng tràn lan. Gia đình mất tính ổn định, và những giá trị truyền thống như tình nghĩa, tương trợ xưa là chất keo gắn một tập thể cũng dần dần biến mất.

Ở thành phố, trong cuộc sống xô bồ thị dân, phấn đấu kiếm tiền chiếm hết thời gian. Cha mẹ ít điều kiện dạy dỗ con em, đàn ông tìm ‘’ thư giãn’’ sau công việc, đàn bà thì ‘’ ông ăn chả bà cũng ăn nem’’. Trong nhiều trường hợp, ngoài những nhu cầu ăn, mặc…con em bị bỏ bê, lạc lõng, lông bông, kéo bè kéo đảng, lớn lên với nhau như cây cỏ. Gia đình không chuyển tải được những nội dung đạo đức cơ bản, thậm chí ngược lại, phô bầy cái xấu, cái vô lương, sự phản trắc vô tình bạc nghĩa…Trẻ em cần những mẫu hình đạo đức để úng xử, phân biệt phải trái, hay dở, để hiểu và cảm nhận thế nào là nghĩa, là tình. Giáo dục gia đình trong lớp thị dân hiện nay không đáp ứng được đòi hỏi này. Dỉ nhiên không phải gia đình nào cũng xấu, và không phải môi trường học đường nào cũng rễu rã. Có những gia đình và học đường vẫn cố ngoi lên khỏi cái vũng bùn thời thế. Nhưng hiện tượng khủng hoảng đạo đức có đấy, và dường như ngày một phổ quát nên buộc phải nói, dẫu cần cường điệu. Xin ghi nhớ cho, đo đc di truyn t thế h này qua thế h kia. Sự băng hoại đạo đức vì thế có khả năng kéo dài, và muốn khôi phục lại, sẽ cần rất nhiều thời gian. Và nước mắt.

Câu hỏi anh đặt, ‘’tại sao đạo lý rễu rã : hoàn cảnh tâm lý, lịch sử và vấn đề văn hóa ?’’, không đơn giản. Nếu muốn trả lời nghiêm túc thì cần một công trình tập hợp những kiến thức về lịch sử cận đại, về dân tộc học, xã hội và tâm lý học. Một người, hai người làm không xuể, chúng ta cần một đội ngũ những nhà văn hoá và khoa học, tốt nhất là cộng tác giữa trong và ngoài nước để khách quan, tránh những thiên lệch cảm tính. Ở đây, tôi chỉ góp chút gợi ý, mong đánh động những ai còn thiết tha với đất nước và cộng đồng dân tộc.

Anh cho phép tôi đề cập ngay hiện trạng một xã hội ‘’hậu chiến ‘’ như anh gọi. Mầm mống khủng hoảng đạo đức có ngay từ thời Việt Nam du nhập đấu tranh giai cấp, bắt đầu với Cải Cách Ruộng Đất ở miền Bắc. Con cháu đấu bố, mẹ, ông bà…Đấu ngay ở đỉnh làng, dàn dựng cho dân làng tham gia, căm thù trở thành thuộc tính cuả giai cấp vô sản vùng lên. Đạo đức ‘’ Cách Mạng’’ (ĐĐCM) đào lỗ chôn đạo đức cổ truyền (ĐĐCT) [3], nèn đất, bóp cổ bịt miệng những ai phản kháng, và răn đe chẳng chỉ một đời mà tới ba đời. Hậu quả của khủng bố đỏ: gia đình và làng xã thành xác không hồn, và dưới cái gọi là nền chuyên chính vô sản, gia đình còn đấy nhưng co cụm, lời ăn tiếng nói dè sẻn ngay cả với nhau. Làng xã cũng còn, nhưng lớp cường hào mới có đảng tịch xuất hiện. Chúng bắt đầu quản, rồi phân, nắm cái chia chác trong một xã hội xin-cho, kẻ cho là những kẻ nắm quyền lực chính trị, người xin thì phải …ngoan ngoãn, lớn miệng hô khẩu hiệu… không thì rất có thể mất hộ khẩu, bị bỏ đói. Ức ép đến cùng cực, dân phản đối, ông Hồ ra lệnh ‘’ sửa sai’’, tướng Giáp xin lỗi đồng bào và nạn nhân, nhưng tất cả chỉ ngoài cửa miệng. Cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục, ma mãnh hơn, với cuộc Cãi Tạo Công Thương nghiệp. Đồng thời, quyền lực răn đe trí thức qua vụ đàn áp Văn Nghệ Sĩ trong Nhân Văn- Giai Phẩm. Cái s bao trùm lên thành phố, lên nông thôn, mọi nơi, mọi chốn, trên mọi tầng lớp xã hội. Muốn yên thân, kẻ khôn ngoan hãy ngậm miệng ăn tiền. Hoặc nói mà ‘’như không nói gì’. Hoặc nói dối, trí trá, nói bóng, kiểu ẩn dụ như con kỳ nhông thay mầu nào vào cũng ‘’ tốt thôi’’. Nếu bực bội quá, thi thoảng xả xú báp bằng cách tiếu lâm, nhưng coi chừng, có ai mà bá cáo…thì cũng phiền. Văn hóa trí trá lên ngôi, và đám có ăn học – tạm gọi là trí thức- thành nha lại gần hết. Nha lại, ắt phải phò chính thống, cúc cung cong lưng trước quyển lực, tức Đảng lãnh đạo. Thời còn chiến tranh, cũng khó mà làm khác đi được trong một Xã hội Trại Lính xếp đặt kiểu hàng dọc mọi quan hệ giữa người với người. Trí thức nha lại ra đời, nhà văn – nhà thơ nha lại ra đời, kẻ thích có quyền thì tiến thân vào phòng Tổ Chức, người thực dụng nhắm ăn cắp thì cố cái chức Thủ Kho để quản, để phân ( gì cũng quản, gì cũng phân, đến phân cũng quản) trong cơ chế bao cấp.

Sau 1975, chính quyền lại rêu rao ĐĐCM hệt như miền Bắc sau hiệp định Genève : Cải Tạo Tư Sản được lập lại, hai ‘’ trận đổi tiền ‘’ là đánh cướp giữa ban ngày, và trầm trọng nhất, chính sách Học Tập Cải Tạo nói một đàng làm một nẻo khiến người miền Nam dí dỏm kêu ‘’ nói dzậy mà không phải dzậy’’. Theo chân người Bắc vào định cư, cách hành xử bị cái sợ o ép nên thành trí trá lan ra như bệnh truyền nhiễm trong miền Nam mới được ‘’ giải phóng’’ . Cái xấu xí ngự trị, sự tốt đẹp biến dần. Nhưng sau thời chiến, hết viện trợ các nước ‘’anh em’’, nay phải tay làm hàm nhai. Nhưng khi đó tầng lớp lãnh đạo mới để lộ ra những yếu kém của thứ tư duy rập khuôn (ôi, rập khuôn thất bại của Liên Xô mới não lòng) và giáo điều hoang tưởng kiểu ‘’ một người cho mọi người và mọi người cho mỗi người’’. Phải phá rào. Phải phân định lại những thành phần kinh tế, chấp nhận kinh tế tư nhân, và khoán sản phẩm. Trong khi khối Xô Viết bước vào khủng hoảng và Đặng Tiểu Bình hô hoán chuyện ‘’mèo trắng mèo đen, mèo cứ bắt được chuột là tốt’’, Việt Nam rón rén đi vào thời Đổi Mới với chính sách ‘’ ba lợi ích’’. Đến năm 90, khi bức tường Bá Linh sụp đổ, cái thượng tầng kiến trúc của ĐCSVN một chân thò ra ngo ngoe chực rơi xuống vực thẳm, chân kia loay hoay móc vào cái rễ cây phong kiến nghìn đời nay thành phương tiện cứu nguy. Thế là người ta mang ‘’ Tư Tưởng Bác Hồ’’ ra làm phao nổi, và bơi qua sông, nhưng bờ bên kia là gì? Là phong kiến đội lốt XHCN. Chiếm được quyền lực rồi, nay phải giữ quyền lực, giữ rịt, giữ như con ngươi của mắt mình, mặc dù mắt có mù loà, và nhìn gà thường là hóa quốc. Tuy không phải là không có người nhìn ra vấn đề, nhưng chỉ chạm đến từ Đa Nguyên là ông Trần Xuân Bách, Bí Thư Ban Thư Ký, người đứng thứ 3 (4?) trong Bộ Chính Trị, phải về vườn. Đa nguyên thôi đã thế, chưa nói đến hai chữ Dân Chủ, hai chữ lập tức được đèo thêm tính từ Tư Sản, con ngáo ộp đã ăn vào tiềm thức sau gần 40 năm ‘’ tẩy não’’. Không thấy củ cà-rốt trước mắt mà roi đã vung lên cao, trí thức-nha lại tức thì rụt cổ, co vai, như thường lệ. Một số nhỏ những trí thức chân chính, với tiếng nói đơn lẻ, đành bó tay ngậm miệng!

Giữa thập niên 90, chính sách Đổi mới và Mở cửa cho phép hình thành một giai tầng trung lưu thành thị. Những doanh nhân muốn thông lọt phải qua hệ giấy tờ hành chính khá nhiêu khê, và thế là buộc phải đút lót quà cáp để, như cá vượt Vũ môn, qua cửa quyền. Cán bộ cấp trung ăn theo, làm giầu, và tạo ra thứ ‘’văn hóa tham nhũng’’, coi chuyện ‘’ đầu tiên’’ (nói ngược) là tự nhiên và tất yếu. Ăn chặn (chứ không phải lao động) là vinh quang, và tiền bất chính thì tuồn vào đầu cơ nhà đất, tạo ra những nghịch lý kiểu đất ở phố Tràng Tiền – Hà Nội ( thủ đô một nước chậm phát triển, sản xuất thô lậu) còn đắt hơn cả đất trong trung tâm Tokyo hay NewYork (là những nơi nổi tiếng mắc mỏ ở những nước tiền tiến).

Nhưng đám Tư Sản đỏ mới ghê. Dĩ nhiên, đất có giá thì dùng quyền lực để chiếm đoạt dưới những chiêu bài rất kêu như xây dựng khu công nghiệp, khu du lịch với sự hợp doanh của Tư bản nước ngoài. Và trong một đất nước mở ra vẫy gọi đầu tư quốc tế, thì chỗ thâm thụt lớn nhất là những công trình tầm cỡ quốc gia ( tỉ như vụ PMU 18, và mới đây là vụ bô-xít Tây Nguyên), vừa gọi đầu tư trực tiếp, vừa đi vay, đi xin viện trợ, cần thì ‘’ bán’’ luôn cũng được! Ai thâm thụt ở tầm cỡ này? Chắc họ phải ở những cấp lãnh đạo cao nhất mà thôi! Chúng ta nhắc lời dân dã : nhà dt t nóc dt xung. Đy là dt. Nhưng tình trng tht là nhà không nóc, dẫu tôi nào có muốn cường điệu hóa một thảm kịch vốn đã quá tang thương. Thực trạng là, nay trên đất nước của chúng ta, ăn cướp, ăn cắp, ăn chặn vừa hàng dọc từ trên xuống dưới và ở mọi địa phương, vừa hàng ngang với đủ mọi ban ngành, tất cả thành một mạng chân rết chui rúc gậm nhấm đời sống tinh thần và vật chất toàn dân.

Tóm gọn, căn cơ của khủng hoảng đạo đức hiện nay là sự áp đặt cái Đạo Đức Cách Mạng biện minh và hỗ trợ cho cuộc đấu ‘’một mất một còn’’ của giai cấp vô sản với gia cấp tư sản. Hiểu Marx một cách hời hợt, nhưng biết phương pháp tổ chức Lênin, nhất là thấm nhuần cái sắt máu Xtalin-Mao, những người nắm quyền lực ở Việt Nam từ thế hệ cụ Hồ đến nay đã đưa xã hội chúng ta vào tình trạng đạo lý rễu rã.

Sáu mươi năm qua, cái nhân danh tập thể đã bóp cá nhân teo tóp. Để tồn tại, cá nhân muốn sống sót phải biết sợ mà tùng phục, phải trí trá với quyền lực và cả với nhau, kẹt thì cố mà ‘’phá rào’’ chui ra, chui là trên bốn chân, và cứ thế, chẳng chỉ vong thân tha hóa mà còn có cơ nguy ‘’ cầm thú’’ hóa, thậm chí mất cả thiên luân để xuống cấp thành ma quỉ. Trẻ em cần khuôn mẫu. Nhưng hiện nay không thiếu cảnh gia đình tan nát, học đường ung ruỗng, làng xã thành trường giác đấu giữa đám cường hào mới và những người dân đã lầm than từ muôn đời… Trẻ em nhìn, và chúng lấy chi làm mẫu mực cho những hành xử có tính người để xây dựng một xã hội giữa người với người? Khôn chết, dại cũng chết, chỉ biết mới sống. Trong xã hội ‘’ phong kiến mới’’, biết là biết gì? Biết ton hót, dối trá, lừa lọc, biết đội trên đạp dưới. Đạo lý là chuyện trở thành thực dụng thừa cơ nắm quyền, làm giầu, đổi màu như kỳ nhông, và phát thanh những kỷ cương rao giảng mà mặt trái là loại hiện thực nhếch nhác nhiều lúc khó mà tưởng tượng nổi.

Nếp văn hiến cha ông để lại bây giờ còn sót lại được bao nhiêu? Nguy cơ mất văn hoá ngày càng rõ, và so với mất đất mất biển, tai họa này còn có thể hung hiểm hơn nhiều. Vì biển và đất vẫn đấy, sau này còn có thể đòi lại. Nhưng mất văn hoá, là mất mình, thì chỉ còn khả năng bắc thang lên hỏi ông Trời. Đấy là lạc quan. Thực tế có lẽ tệ hơn, nghĩa là rồi cứ thế, ngu ngơ, đến hỏi cũng chẳng biết hỏi gì!

Phùng Nguyn:
Giải pháp Trăng Nguyên Sơ đề ra để cứu vãn một nền đạo lý rễu rã là gì? Có phải là quay lại cái gốc và sự minh triết của những văn minh cổ (xã hội Mường chẳng hạn)?

Nam Dao:
Tôi viết trong ‘’Vài lời… cho một số phận’’ đã hiển thị trên damau.org:

…giữa cái môi trường đạo lý rễu rã ( báo chí Việt Nam hàng ngày nói ra rả ), hy vọng tái tạo một xã hội làm người với nhau vẫn còn. Vật bảo quốc hộ dân trong Trăng Nguyên Sơ là ý thức thôi đừng chiếm của người làm tư hữu, tỉ như chiếm nhà, cướp đất, lấn sông, bán biển… thậm chí chiếm hữu cả tình yêu là phạm vi phi vật thể…Quí vị nào đó đọc đúng cung cách lề bên phải ( tức hữu khuynh trong một nền tư bản rừng rú chỉ còn ăn cướp ăn cắp) hẳn phải nhắm một mắt, thấy một chiều, và là chiều dẫn xuống đáy vực. …

Từ ngày quyết định cầm bút, tôi đã chú trọng vào vấn đề quyền lực, thể hiện phần lớn qua bộ tiểu thuyết lịch sử Đất Trời-Gió Lửa-Bể Dâu. Tương quan giữa quyền lực tập thể (hoặc lạm danh tập thể) và cá nhân con người Việt Nam là một vấn nạn. Cá nhân yếu, nên mới có hiện tượng ‘’đánh hội đồng’’, kéo bè kết đảng trù dập nhau, qui chụp bất kể tình-lý, dối trá, reo rắc hận thù, triệt tiêu cá nhân nhau bằng đủ thứ thủ đoạn… Quyền lực, chủ yếu là quyền lực kinh tài kết cấu vớí chính trị, hiện nay từ Đông sang Tây, thể hiện thế nào? Bằng sự chiếm hu. Quyền ra tiền, và tiền thì chui vào tay áo các đại gia, nếu không là, thì cũng sát nách, những người nắm quyền lực chính trị. Trong thế giới mất định hướng, nghĩa là bế tắc (cả thế gian này bế tắc, như công văn của Cục Xuất Bản do ông Nguyện Kiểm ký đã ghi nhận), thì nhân danh (và thường là mạo danh) tập thể xã hội, quyền lực bó những con người cá thể vào trạng thái bất lực và rời rạc (vô tổ chức), hô những khẩu hiệu mị lừa, tha hồ khuynh đảo chẳng hiện tại mà còn cả tương lai những thế hệ kế thừa ( mắc nợ như ở Việt Nam). Nhưng theo tôi, trên con đường đi tìm vật dục và quyền lực, nhân loại sẽ ( hay đang) đi vào những bế tắc không khắc phục nổi.

Sinh ra, cứu cánh của con người là hạnh phúc. Làm sao đạt được đây? Trăng Nguyên Sơ đề nghị gạt đi lòng tham (một trong ba điều Tham-Sân-Si trong đạo Phật), thôi chiếm hu, quay về trạng thái hồn nhiên thuở trời đất trinh nguyên (rất gần với J.J.Rousseau phương Tây[4], nhưng cách nhìn này đã khởi phát từ nguồn Lão-Trang phương Đông [5]). Nếu mỗi người đều làm như thế, nghĩa là xã hội chấp nhận một văn hóa mới trong đó vật dục không còn là cứu cánh, và đạo lý giữ vai trò trụ cột, thì cuộc truy lùng hạnh phúc mới có cơ thành hiện thực.

Thật ra, cách nhìn này, có thể nói là cách nhìn phản-tư lợi hẹp hòi [6] không mới mẻ gì cho cam, Đức Phật đã giậy từ 4000 năm trước. Gắn vào câu chuyện chủ thể ‘’ tôi ‘’ đi tìm nhân vật truy lùng vật Bảo Quốc Hộ Dân trong vùng người Mường cư trú (Hoà Bình) là cách tôi dựng tiểu thuyết mà thôi, và điều Trăng Nguyên Sơ đề nghị nói trên có thể chẳng liên quan gì đến sự minh triết của văn minh Mường, ngoài cái ý có lẽ chứng ta đừng quên chúng ta từng có một truyền thống Việt-Mường từ bao nhiêu ngàn năm nay. Cái phương sách cơ bản để phục hồi đạo lý, theo thiển ý, là biến cõi nhân gian này thành Cõi Tình, tên chương cuối của TNS. Cái Tình giữa người với người, cái Tình khả đắc vì vượt được bản năng chiếm hữu. Và tôi sẽ in Cõi Tình, bản TNS ở hải ngoại, có thêm vào bản đã in trong nước những điều tôi tạm giữ bí mật.

Tôi không đề nghị chúng ta quay về cách hành xử truyền thống. Nhưng tôi kêu gọi quay về với những giá trị truyền thống như cách Bảo Quốc Hộ Dân. Xin gạch dưới hai chữ giá tr. Vì nếu chỉ quay về truyn thng không thôi, ta quay về lấy quá khứ làm mẫu mực. Thế có nghĩa là từng bước ta ‘’tiến lên’’ xã hội thuộc địa, rồi phong kiến, rồi bộ lạc, rồi….ăn lông ở lỗ sao? Không phải thế, dĩ nhiên. Giá trị là chuyện gạn đục khơi trong, không cứ hô uống nước đầu nguồn là đủ. Về vấn đề đạo lý rễu rã, một nhà thơ đã từng lo lắng về nguy cơ này trên 20 năm trước mới viết cho tôi : ‘’ …bây giờ là ung thư toàn thân, từ đầu đến chân, từ con người đến thiên nhiên, chỗ nào cũng nhiễm độc! ‘’. Như những người sống, dẫu cổ có bật máu, chúng ta tiếp tục gào lên : ‘’ Phải làm gì? ‘’. Nay, cái ngôi nhà thờ tổ không nóc, nước mưa và nước mắt khiến bàn thờ cha ông có cơ mục nát, cột kèo rã rời, sợ chỉ một cơn gió bấc phương Bắc cũng đủ làm sụp đổ. Đợi cho đổ rồi xây lại? Tôi sợ như vậy quá muộn. Có lẽ ta làm sao lợp tạm lại mái, xem cột kèo cái chi còn giữ được thì giữ, cái gì sâu mọt đã ăn rỗng ruột thì quẳng ra ngoài sân rồi châm một bó lửa ném vào. Nhưng chớ quăng bàn thờ tổ. Sau trên dưới 2 ngàn năm, bàn thờ làm bằng gỗ gụ không chỉ vì một trận mưa 60 năm mà tan ra thành hư không được. Rồi, với thời gian, chúng ta từng bước dựng lại cột, chống lại kèo, và khởi công xây mái, xây nhà. Và, chúng ta xây theo tiêu chí những giá trị con người, không hy sinh cá nhân cho tập thể, nhưng cũng không để cá nhân dùng quyền lực tư riêng lũng đoạn cộng đồng xã hội. Vì không là, và không bao giờ muốn, ‘’làm chính trị’’, tôi chỉ xin nói, với tư cách một nhà văn, rằng công việc xây lại ngôi nhà thờ tổ đã cấp thiết lắm rồi. Người nào khuyên tôi hãy kiên nhẫn chờ, tôi sẽ đáp, rất thành thật, tôi không thích chờ chết. Chờ như thế, kinh hoàng lắm! Thà chết ngay còn hơn.

Phùng Nguyn:
Liệu người Việt ở hải ngoại đã có những đóng góp tiêu cực nào cho sự khủng hoảng đạo đức ở VN hay không? Nếu có, điều này có được đề cập trong Trăng Nguyên Sơ và dưới hình thức nào?

Nam Dao:
Người Việt hải ngoại có đóng góp gì tiêu cực trong khủng hoảng đạo đức ở Việt Nam không? Có thể có dăm trường hợp đơn biệt tai tiếng, nhưng nói chung, tôi nghĩ là không. Không thiếu Việt Kiều làm những công việc thiện nguyện ‘’hộ dân’’. Lớp trẻ, không có định kiến và và nhất là cái hận thù Quốc-Cộng như ta thường gọi, cởi mở và công bằng, là một niềm phấn khởi.

Phùng Nguyn:
Xuyên qua cuộc trao đổi giữa chúng ta, có thể dễ dàng nhìn thấy mối quan tâm sâu sắc của anh với cuộc khủng hoảng đạo đức (đạo đức rễu rã) đang tiếp tục diễn ra ở Việt Nam. Anh có thêm lời nào dành cho bạn đọc Da Màu?

Nam Dao:
Tôi xin nói thêm vài lời. Trước tiên, cái hiện thực quyền thế – kinh tài kết hợp chính trị – đánh cướp từ Đông sang Tây (Âu-Mỹ) là điều khiến tôi chủ quan cho rằng ‘’cả thế gian này bế tắc‘’ được khai triển trong cuộc trao đổi ‘’Tại sao Trăng Nguyên Sơ bị cấm?’’ với NT Thư. Bạn đọc có thể chia sẻ, có thể không, nhưng quan trọng là thái độ xét lại nền văn minh đặt trên cơ sở tư lợi và vật dục trong giai đoạn cận đại trên toàn cầu có thực sự cho phép mỗi cá thể (và mọi cá thể, tức là cộng đồng xã hội) tìm ra hạnh phúc hay không. Thiên niên kỷ này, nếu không là thiên niên kỷ của tâm linh, thì – như một ai đó ( hình như Malraux theo trí nhớ khá tồi của tôi ) đã nói – nhân loại này sẽ tàn phá hết, đi thụt lùi, hoặc là đi mà chẳng biết về đâu. Thứ hai, liên quan đến câu hỏi số 8, tôi thiết tưởng tất cả những ai còn quan tâm tới tiền đồ dân tộc phải động não tìm ra câu trả lời nghiêm chỉnh, khoa học về vấn đề khủng hoảng đạo đức ở Việt Nam. Đề nghị damau.org làm 1 chuyên mục ‘’ tại sao đạo lý rễu rã?’’, trao giải thưởng ( vật chất dẫu nhỏ, nhưng ý nghĩa biểu tượng rất lớn) cho những đóng góp sáng giá. Tôi sẽ xin tham gia, trên mọi mặt. Còn đề nghị trong Trăng Nguyên Sơ về cái anh gọi là giải pháp cho vấn đề khủng hoảng nói trên thì, xin nhắc, Trăng Nguyên Sơ là tiểu thuyết, và tác giả nó không có cái tham vọng độc chiếm chân lý nào. Thôi chiếm hữu – tức phủ định vai trò của mọi quyền lực – và quay về với sự hồn nhiên trinh nguyên có thể chỉ là huyễn vọng của một nhà văn chân không chấm đất, lơ lửng với tay vào một niềm tin để sống, để viết, để đi đến tận cùng thân phận và định nghiệp của mình.

Trong câu chuyện của chúng ta, theo tôi, kiểm duyệt là phương cách giới hạn, và cần thì bóp chết, quyền ngôn luận. Kiểm duyệt là phương sách xây dựng một hệ thống ‘’đóng’’, thông tin mất hết giá trị, từ đó khả năng tư duy mai một, xã hội từng bước đi vào tình trạng mất văn hóa. Sự kiện ngưng phát hành Trăng Nguyên Sơ nhỏ, nhưng chúng ta đã từng mong nó đánh động được dư luận về cái bản chất của chế độ kiểm duyệt, và về khà năng người viết vượt qua được cái hàng rào ngăn cấm nhiều khi thô thiển vô lý đó. Cho đến nay, ‘’bách gia tranh minh’’ nhà nhà cất tiếng, nhưng tiếng nói cùng một lúc cất lên với nhiều âm độ khác nhau thì thật khó nghe mà hiểu. Cho đến nay, ‘’bách hoa tề phóng’’ trăm hoa đua nở, nhưng đua nở đến độ vuờn hoa biến thành rừng rú thì rắn rết sẽ bò ra. Đó là một vấn đề của văn hóa mạng : nó tích cực, nhưng cũng có khả năng rất văng mạng.

Đã từng, đôi khi thôi, định bắt chước Ngũ Tử Tư, treo mắt ở cửa thành mà trông về mai hậu, nhưng tôi không đành lòng. Chỉ còn ngòi bút để khẳng định mình, cố làm được cái gì cho đời sáng sủa hơn, tôi sẽ tiếp tục viết. Và sẽ tiếp tục gửi tác phẩm về in trong nước : ‘’tận nhân lực, tri thiên mệnh’’ thôi, anh ạ!

Khi tuyệt vọng, tôi nghĩ đến cụ Tiên Điền. Thời cụ chưa có Google, e-meo, phải viết bút lông trên giấy bản, và cũng chẳng biết việc mình ‘’ tam bách dư niên hậu ‘’ liệu có ai còn nhớ (khóc) không mà cụ vẫn cứ kiên tâm bền trí. Thời chúng ta, hẳn đỡ vất vả hơn thời cụ, nên đừng ‘’ đổ thừa ‘’ sự bất lực của mình cho những chuyện ngoại tại.

Xin cám ơn anh Phùng Nguyễn và bạn đọc tạp chí Da Màu.


Ghi chú:

[1] Nguyễn Đại Phượng trên báo Tiền Phong ở Việt Nam số ngày 7 tháng 2 năm 2009, bài báo mang tên : « Ném Giầy – Văn Hóa Quái Dị » : «…Trước đó ngày 2/2 ti London, Liên hip Anh, th tướng ca mt quc gia châu Á cũng b mt người đàn ông rút giy ném không trúng khi ông đang nói chuyn vi sinh viên ti Đi hc Cambridge v quan h hp tác gia nước ông và Liên hip Anh. Người đàn ông t phía c ta đt ngt đng dy nói ln ngt li v th tướng. Nhiu người ngi d cuc nói chuyn đòi đui k quá khích này ra ngoài. Nhưng cũng lúc đó k quá khích rút giy ném v phía th tướng nhưng không trúng. Giy rơi cách th tướng khong ba mét. Mt nhân viên an ninh lng l đến nht chiếc giy da đen xu xí mang ra ngoài. K ném giy là mt thanh niên nam 27 tui lin b cnh sát Anh bt gi và truy t v ti gây ri trt t công cng. Đi din ban lãnh đo Đi hc Cambridge bày t s chân thành xin li v s c không vui nói trên ».

Ông Nguyễn Hùng, trên bbcvietnamese.com, viết : « Khi Th tướng Ôn Gia Bo ca Trung Quc b ném giày Đi hc Cambridge th Hai tun trước, hu như không t báo nào ca Vit Nam đưa tin.Cho ti cui tun đó mi có mt bài báo nói v điu được gi là ”văn hóa quái d” ca chuyn ném giy và trong đó ông Ôn Gia Bo được nhc ti vi tên ”th tướng ca mt nước”.Trong khi đó trong cùng bài viết, tên ca mt đi s Israel b ném giy và dĩ nhiên tên ca Tng thng George W. Bush được tác gi bài viết đ cp ti. Trước đó cũng đã có nhiu cơ s đ tin rng truyn thông Vit Nam có s s hãi khi nhc ti hai ch Trung Quc trong nhng tình hung mà h s rng Bc Kinh có th pht lòng”.

[2] Trích Nguyễn Huệ Chi, Tình trạng vượt ngưỡng: Sự khủng hoảng đạo đức trong xã hội chúng ta đã vượt khỏi cái ngưỡng mà như một quy ước vô ngôn, mọi xã hội văn minh không bao giờ cho phép vượt. Hãy cứ nhìn vào nhiều ngõ ngách của đời sống, bất cứ vùng miền nào cũng diễn ra như cơm bữa những chuyện nhức nhối mà lý trí thông thường không thể giải thích, đôi khi có cả những chuyện tưởng chừng đã chạm đến bản năng sinh tồn nó phân biệt con vật với con người (mẹ ném con xuống sông, bố giết con, ông giết cháu, con giết bố giết mẹ…)[1] . Phải coi đây là một sự băng hoại không thể xem thường, một cảnh báo về nguy cơ tồn vong của cộng đồng dân tộc.

[3] Xin tham khảo 1 bài viết tâm huyết của Thiện Ý, ‘’Vì sao đạo đức băng hoại’’ trong Talawas blogs, ngày 21/03/2009.

[4] Trong ‘’Les rêveries d’un promeneur solitaire’’, tham khảo http://fr.wikipedia.org/wiki/rousseau

[5] Lão Tử từng khuyên ta : “Ăn gin d, t nhiên, ít riêng tư, ít tham dc

[6] Thuyết duy lợi ( utilitarisme) do J. Bentham và J.S Mill khởi xướng cách đây 2 thế kỷ ( tham khảo http://fr.wikipedia.org/wiki/utilitarisme ) nay bị phái Tân-Tự Do ( neo-liberalism) cưỡng chế vào khuôn khổ thuần cá nhân, phủ định tính cộng đồng xã hội, sinh hạ cái quái thai tôi gọi là tư li-hp hòi trong triết lý chính trị-kinh tế. Từ thời hậu chiến tranh lạnh, với Reagan bên Mỹ và Thatcher bên Anh, tư lợi-hẹp hòi từng bước thành hiện thực. Quyền lực tài chánh không còn giám sát của xã hội đã đưa đến tình trạng khủng hoảng kinh tế hiện nay ( xem Tại sao TNS bị cấm? trong đợt bài về kiểm duyệt của damau.org).

bài đã đăng của Nam Dao

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

4 Bình luận

  • Chu Nguyệt Thư says:

    Những phát biểu của ông Nam Dao về “đạo đức rệu rã” ở VN hiện nay rất chính xác và rõ ràng, có dịp về thăm VN hoặc đọc sách báo trong nước đều có thể kiểm chứng. Nhưng tiếp theo những “công phá” đó ông nói: “Lớp trẻ không có định kiến và nhất là cái hận thù Quốc Cọng như ta thường gọi, cởi mở và công bằng, là một niềm phấn khởi”… thì câu phát biểu này lại như một sự vỗ tay hoan hô những gì ông vừa mới công kích.

    Do đâu mà đạo đức xã hội VN băng hoại, rệu rã? Ông Nam Dao chứng minh là từ những điều dối trá, xảo quyệt của chính quyền CS ngay từ thời 1954 với chính sách cải cách ruộng đất, đấu tố, qua thời cướp chính quyền Miền Nam 1975 với cách nói một đàng làm một ngả trong việc lừa dối quân cán chính miền Nam vào các trại tù cải tạo, với sự đểu giả trong hai lần đổi tiền (cướp của) áp đặt lên toàn bộ dân chúng miền Nam. Ông nói: “Tóm gọn, căn cơ của khủng hoảng đạo đức hiện nay là sự áp đặt cái Đạo Đức Cách Mạng…”

    Vậy mà câu trước câu sau ông lại cổ vũ lớp trẻ không nên có định kiến, không nên có hận thù Quốc Cọng??? Vậy thì thưa ông Nam Dao, theo ông lớp trẻ cứ việc không phân biệt thiện ác, cứ việc chấp nhận chủ nghĩa Cộng Sản, cứ việc bắt tay với những kẻ tàn ác, những kẻ xô đẩy đất nước và người dân vào chỗ mà ông nhận xét: “Trong xã hội phong kiến mới, biết là biết gì? Biết ton hót, dối trá, lừa lọc, biết đội trên đạp dưới.”

    Tại sao nhà văn lại tự mâu thuẫn đến thế? Có thể như ông nói, ông là “một nhà văn chân không chấm đất” nhưng khi lơ lửng giữa không trung ít ra một nhà văn chân chính cũng nên có sự ngay thẳng và thái độ đen trắng rõ ràng, không nên vừa đánh trống xuôi vừa thổi kèn ngược.

  • nhatdiep says:

    Một Tác Phẩm muốn in ở VN, là 1 điều cần suy nghĩ cân nhắc, kỹ lưỡng, khi biết rằng: Mình là ai? Là gì?…. Và tại sao… mình lưu vong! Là 1 người cầm viết, lại lưu vong, mà tin những người đã đẩy mình ra đi, rồi gửi Tác Phẩm; và khi bị thu hồi… và rồi tự phản biện về đạo lý, đạo đức con người… Tôi thấy có cái gì đó không thật lòng và không ổn… của Nam Dao!!! Vua không Hí Ngôn, và Nhà Văn không Hí Tự!

    Tôi biết, trước “Trăng Nguyên Sơ,” Nam Dao còn có 1 tác phẩm nữa đâ in ở VN! Sao ông ND không nhắc tới???

    Chúng ta có quá nhiều Nhà văn Hí tự… nhờ vào truyền thông internet!

    Tôi rất thích nhạc TCS! Nhưng rất tiếc TCS đã chết… Và “Nối vòng Tay Lớn,” vào ngày 30/04/1975… tại sao ông làm điều đó?! Tôi cho rằng, TCS là Tên Hí Tự, mà lịch sử cần phán xét lại về hành vi ngày 30/04/75 của ông… dù tôi rất thích nhạc và lời của ông!!!

    Nhưng như bây giờ, tại sao Nam Dao lại gửi về Cố Quốc và La Làng… TÔI Bị THU HỒI!!! Sau khi 1 truyện dài đã in, trước đó???

    Nhà Văn nên Nói Thật!!!

  • thehemoivn says:

    Tôi đã đọc bài viết Trịnh Công Sơn và chiến tranh Việt Nam trong tập biên khảo “Trịnh Công Sơn vết chân dã tràng” của tác giả Ban Mai.
    Nhìn chung, đây là một tập sách công phu, nghiêm túc, cung cấp nhiều tư liệu cuộc đời và sự nghiệp của nhạc sĩ TCS.
    Riêng bài Trịnh Công Sơn và chiến tranh VN, tác giả lập luận bài viết có tính thuyết phục cao, tôi không thấy có gì trầm trọng đến mức phải “kiểm duyệt” cắt bỏ bài này vì bài viết nêu quan niệm của TCS là cuộc chiên tranh “nội chiến”, và tác giả Ban Mai nhận định rằng “ngày nay quan điểm về tên gọi cuộc chiến còn nhiều tranh cãi, có người cho rằng đây là cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” của các nước lớn”. Thế hệ trẻ chúng tôi thấy việc lật lại lịch sử để tìm hiểu là một việc làm bình thường. Nhận chân lại quá khứ để hướng đến tương lai.
    Ông Nguyễn Hoàn có thể xem Báo Tuổi trẻ ra ngày 30.4.2009, có bài viết “Gặp những cựu binh Nga góp phần làm nên chiến thắng 30.4” do tác giả Thu Băng (viết từ Matxcova).
    Trong đó có đoạn ghi: “Họ là những chuyên gia quân sự Nga thuộc Hội Cựu chiến binh TP Matxcova, từng có mặt tại VN trong thời kỳ những năm 1960, 1970…mục đích đều là giúp nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến cứu nước. Ông Lêoonhit Artunov, một chuyên gia trong lĩnh vực tên lửa tầm cao, từng có hai đợt công tác tại VN…(…)…kể rằng: Vào tháng 9-1966 tôi đã bay đến VN trong một đoàn chuyên gia gồm khoảng 200 người. Tôi tham gia giảng dạy tại trung đoàn tên lửa…”. Cuối cùng tác giả Thu Băng kết luận: Họ đã làm được những công việc hữu ích cho đất nước, cho nhân dân VN để có được thắng lợi cuối cùng ngày 30.4.1975.
    Miền Nam VN có Mỹ hậu thuẫn, Miền Bắc VN có Liên xô và Trung Cộng giúp đỡ. Vậy có phải là cuộc chiến tranh “ủy nhiệm” của các nước lớn không?
    Tại sao tất cả các nước lớn lại đến VN để làm gì?
    Thế hệ trẻ chúng tôi muốn hướng đến tương lai cần phải biết sự thật.

  • bắc phong says:

    vai trò đại chúng

    chúng ta được thưởng thức cái đẹp
    từ cảm tính sáng tạo nghệ nhân
    cần thách đố phán quan tư tưởng
    đầu óc hoang sơ thuở bạo tần

    bắc phong

@2006-2023 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)