Đó là tên một bài thơ của thi sĩ Nguyễn Đạt. Cũng như nhiều bài thơ sáng tác gần đây, Để sống những ngày này trình diện một chân dung thơ mới mẻ, đặc sắc của Nguyễn Đạt, thoát ra khỏi những ảnh hưởng rơi rớt trực tiếp hay gián tiếp của Thanh Tâm Tuyền trước đó còn sót lại trong thực hành thơ để mang một phong cách rất riêng, không thể lẫn với ai của Nguyễn Đạt. Người ta không còn thấy trong thơ Nguyễn Đạt những ngày u ám chán chường, cơn mê dài, cơn mửa mệt rũ, hay điệu blues buồn ám ảnh,… mà bắt gặp một Nguyễn Đạt ngơ ngác, hoang mang cùng với một giọng điệu mỗi lúc một khắc khoải, bi đát cùng cực về thân phận con người. Thành công của một bài thơ nhiều khi không hoàn toàn xuất phát từ một sự cách tân độc đáo (ngôn ngữ, hình thức hay phong cách) mà từ khí hậu của bài thơ, từ những âm ba không dứt trong lòng người đọc như thể của một chấn động dưới tầng sâu thẳm của đại dương. Dưới góc nhìn đó, Để sống những ngày này là một bài thơ thành công.
Quả thật, bài thơ không chỉ là tiếng thở dài bi thiết của thi sĩ mà còn nói hộ nỗi lòng u uất, tuyệt vọng của người Việt cùng thời trước thực trạng đen tối, cùng quẫn của đất nước.
Làm thế nào để sống những ngày này, trước hết, là câu hỏi bất lực của những người thua cuộc. Sự sống, đối với họ, không còn là nguồn hoan lạc mà đã trở thành một gánh nặng khủng khiếp phải cưu mang. Như Sisyphus phải lăn hòn đá tảng lên đỉnh núi, như Ixion quay cái bánh xe, như Tantalus đứng giữa lòng sông mà phải chịu khát đến thiên thu. Nhưng cái bi đát của họ không phải nằm ở sự nghiệt ngã được đẩy đến tận cùng của hình phạt, mà chính là ở chỗ hoàn toàn không có một lý do nào giải thích cho những khổ đau phải chịu đựng đó. Hòn đá tảng có thể lăn, cái bánh xe có thể quay và cơn khát có thể kéo dài đến vô tận miễn là ta có thể giải thích được tính thiết yếu của những cực hình đó. Chúng ta đau chính vì nhiều lúc nỗi đau hoặc niềm bất hạnh đến thật tình cờ, vô nghĩa, không lý do.
Sáng nay ngoài cửa sổ chiếc lá xanh chợt rụng
sâu bọ ẩn nấp từ bao giờ
Sáng nay thốt tiếng cú báo tin chẳng lành
có người lối xóm tắt thở
Nói như Oscar Wilde: “Bí ẩn thật sự của vũ trụ là ở những điều trông thấy, chứ không phải ở những cái vô hình.” Những điều thi sĩ trông thấy sáng nay chưa hẳn đã là “đau đớn lòng,” cũng là những điều ai ai trong chúng ta cũng đã từng chứng kiến trong đời, bình thường đến độ chẳng khi nào khiến chúng ta phải ngạc nhiên truy vấn. Nhưng thi ca cũng như triết học đều bắt đầu bằng một sự kinh ngạc từ những cái rất đỗi bình thường đó. Và con người, ngay từ thời Adam, đã khát khao hiểu biết, nỗ lực không ngừng nghỉ tìm kiếm lý do để giải thích cho dù biết rằng cái giá phải trả là sẽ phải kéo lê chiếc bóng cô độc của mình giữa hoang mạc của lý trí.
Vấn đề là con người không chỉ có trông thấy những điều bình thường, cuộc đời còn có cả bất hạnh, thống khổ, bất công, chiến tranh và tù đày. Chiến tranh trải suốt chiều dài lịch sử Việt Nam gieo rắc biết bao tang thương, chết chóc, hận thù, ly tán, máu đã chảy thành sông, xương đã chất cao thành núi mà đến giờ vẫn chưa tắt hẳn những âm thừa, tuy vậy, chiến tranh chưa hẳn đã là thảm kịch độc nhất. Chế độ độc tài toàn trị nô dịch nhân dân hiện thời chưa hẳn đã là nỗi đau nhục tột cùng.
Tôi hằng nghĩ tưởng như Oscar Wilde
để sống những ngày này
những ngày hiện tại
những ngày tất thảy bị tước đoạt
những ngày ma quỷ thống trị con người
những ngày sự thật bị chôn vùi
Bởi vì cái bi đát nhất của số phận Việt Nam ở đây, có lẽ, chính là sự bất lực hoàn toàn trong việc tìm kiếm lý do cho sự hiện hữu bền chặt không hồi kết của những màn trình diễn rồ dại đó của lịch sử. Tại sao, đó là câu hỏi cần được trả lời một lần dứt khoát.
Tôi hằng nghĩ tưởng quá khứ mù mịt
tổ tiên tội đồ của thiêng liêng đất trời?
xứ sở tôi hôm nay đành như vậy.
Truy tìm nguồn cội của cái ác, cái xấu hoành hành hiện thời, chẳng có gì dễ dàng và nhanh chóng bằng việc đổ hết tội lỗi cho quá khứ. Tội tổ tông hay lý thuyết nhân quả tìm cách giải thích ý nghĩa của thực tại bằng việc dựa vào một nguyên nhân siêu nghiệm bên ngoài thực tại; đó là phương pháp quen thuộc của các hệ thống tôn giáo, siêu hình học, là liều thuốc an thần và là cách chạy trốn thực tại hoàn hảo nhất. Bởi chính vì một lẽ: quá khứ không phải chỉ, không bao giờ chỉ, xảy ra một lần và chấm dứt. Quá khứ luôn luôn nằm trong một quan hệ chặt chẽ, phức tạp, không phải một chiều mà nhiều chiều, với hiện tại và tương lai; nó làm nên ký ức tập thể sống động trong dòng chảy bất khả chiết đoạn của nhân sinh. Ký ức về quá khứ, sự thật, chỉ có một nửa là những sự kiện mà phần còn lại là diễn dịch và kể lại. Từ một viễn tượng tương lai, người ta có thể chọn lọc để kể lại ký ức tập thể theo nhiều cách khác nhau. Cũng tương tự như vậy khi nhìn về hiện tại, trong cái ác, cái xấu đang ngự trị trong xã hội Việt Nam hiện thời, trong cái tưởng chừng như phi lý của lịch sử, lẽ nào chúng ta thực sự vô can, lẽ nào không ai trong chúng ta không có một phần trách nhiệm ít hay nhiều, kể cả những người chọn một thế đứng ngoài cuộc, dửng dưng?
Quá khứ nào không sửa soạn cho cái chết hiện tại?
Có lẽ đây là câu ta thán bi đát nhất mà chúng ta từng được nghe. Nhưng giả sử nếu thực sự hiện tại chỉ là kết quả của quá khứ một cách máy móc như vậy, vậy thì chúng ta còn có thể hy vọng được gì nơi lịch sử? Lịch sử sẽ hướng tới phía trước đầy hứa hẹn hay chỉ là một vòng quay tròn bất tận? Lịch sử chỉ là một sự lặp lại?
Tôi hằng nghĩ tưởng như Oscar Wilde
về những khoảnh khắc cuộc đời để sống với hiện tại
có quá khứ tương lai trong khoảnh khắc này.
Câu thơ như một âm vọng từ Sách Giảng Viên:
Điều đã có, rồi ra sẽ có, chuyện đã làm, rồi lại sẽ làm ra
dưới ánh mặt trời, nào có chi mới lạ? (I, 9)
Điều gì đang có, xưa kia đã có,
điều gì sẽ có, xưa đã có rồi.
Thiên Chúa đem lại điều đã có (III, 15)
Có phải thi sị cũng như Schopenhauer, cùng mang chung một Căn Bệnh Thời Gian, bi quan nhìn lịch sử như một vòng tròn khép kín, nơi tương lai chỉ là một sự lặp lại vĩnh viễn quá khứ?
Không, thi sĩ không phải là triết nhân; thi sĩ, trước hết và sau cùng, là tình nhân của cuộc đời. Chàng yêu cuộc đời đau thương này bằng cả con tim si dại. Chàng không sống bằng suy lý, mà sống bằng tình yêu và hy vọng.
Chỉ còn duy nhất hy vọng
Hy vọng tương lai lấp đầy hiện tại
Chàng hy vọng gì?
Hy vọng khí quyển tự do mở rộng bầu trời
Hy vọng tiếng nói đích thực của con người
ở đất nước tôi.
Đó không phải chỉ là hy vọng của thi sĩ. Đó cũng chính là hy vọng của chúng ta, của tất thảy người Việt Nam hiện nay.
Cám ơn thi sĩ, kẻ đã gắp lửa bỏ tim người.
VŨ THÀNH SƠN