- Tạp Chí Da Màu – Văn chương không biên giới - https://damau.org -

UC Berkeley Nhìn Lại 20 Năm VNCH Xây Dựng Quốc Gia Trong Thời Chiến- Kỳ 1/2

 

clip_image002

Mục đích của hội thảo trước nhất là vì học thuật. Chúng tôi không có mục đích chính trị, không phục vụ ý đồ của bất kỳ phe nhóm chính trị nào […], càng không nhằm phê phán, tôn vinh, hay khôi phục chế độ VNCH.
— Giáo sư Vũ Tường, Đại học Oregon

 

[Kỳ 1]

Vào hai ngày 17 và 18 tháng 10 vừa qua tại Đại học Tiểu bang California, Berkeley đã diễn ra cuộc hội thảo về kinh nghiệm kiến quốc của Miền Nam Việt Nam trong 20 năm từ 1955 đến 1975, qua hai thời kỳ Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hoà. Cuộc hội thảo do Center for Southeast Asia Studies và Journal of Vietnamese Studies thuộc UCB tổ chức, dưới sự hướng dẫn của Giáo sư khoa Sử Peter Zinoman, phối hợp với một số học giả đến từ các tiểu bang khác và Canada, trong đó có một số giáo sư trẻ gốc Việt. Có thể nói đây là lần đầu tiên một cuộc hội thảo về kinh nghiệm xây dựng quốc gia của VNCH đã được thảo luận, bao gồm không chỉ cuộc chiến và quân sự mà còn cả các lãnh vực khác như văn hoá, xã hội, kinh tế, giáo dục tới các sinh hoạt văn học nghệ thuật và truyền thông và dân sự.

Và cũng hãn hữu là việc quy tụ một số nhân vật trong giới lãnh đạo và dân sự của thời VNCH, phần lớn đã ở tuổi trên dưới 70 tới ngoài 90, bên cạnh những khuôn mặt học giả trẻ cả gốc Mỹ và Việt, để cùng nghiên cứu về một giai đoạn phát triển không tiền khoáng hậu trong lịch sử Việt Nam dưới một thể chế tự do dân chủ mặc dù những khó khăn của thời chiến. Trên 40 năm tuy vừa đủ cho một thế hệ học giả trẻ không bị ảnh hưởng trực tiếp bởi cuộc chiến nhìn lại một cách khách quan và tổng quan, do đấy phản ảnh trung thực hơn. Nhưng cũng là trễ cho một số vị có kinh nghiệm trực tiếp trong việc xây dựng một thể chế dân chủ lần đầu tiên được thiết lập tại Việt Nam. Trễ, do đấy, vài ngày trước khi Hội thảo diễn ra, hai vị đã qua đời vì lớn tuổi và bệnh hoạn, đó là nhà báo và chính khách đối lập Võ Long Triều, và nhà giáo dục Nguyễn Thanh Liêm. Ngoài ra, Giáo sư Vũ Quốc Thúc, đã ngoài 90, từ Pháp, và Luật sư Cao Văn Thân, cũng đã trọng tuổi và từ Canada, bị bệnh bất ngờ nên không lên Skype chuyện trò được trong hội thảo.

clip_image004

clip_image006

Quang cảnh phòng hội thảo trong Doe Memorial Library, University of California, Berkeley. Hình trên, ngày đầu hội thảo; hình dưới, ngày hội thảo thứ hai và cuối cùng. (Hình Trùng Dương)

Mục đích hội thảo

“Hội thảo nhằm mục đích tìm hiểu thêm về kinh nghiệm xây dựng quốc gia dưới thời Đệ nhất và Đệ nhị Cộng Hòa ở miền Nam Việt nam, cả những ưu điểm và những yếu kém, thành công hay thất bại,” Giáo sư Vũ Tường, giám đốc Chương trình Nghiên cứu Á châu thuộc Phân khoa Chính trị học tại Đại học Oregon, Eugene, và là một trong những người đứng ra tổ chức chương trình hội thảo, nói trong một cuộc trao đổi với người viết bài này.(*) “Tôi tin rằng hội thảo sẽ giúp mở rộng hiểu biết về VNCH mà hiện nay còn rất hạn hẹp và thiên lệch […]. Hội thảo cũng có thể gợi ra vài bài học bổ ích cho việc xây dựng một thể chế dân chủ, kinh tế tư nhân phát triển, và xã hội tự do ở Việt nam vào thời điểm này và trong tương lai. Đường hướng phát triển này đã hiện hữu trong cơ cấu chính trị, kinh tế, và xã hội của VNCH, nhưng bị khuynh đảo bởi cuộc chiến tàn bạo và bị chôn vùi trong bốn thập niên qua sau khi đất nước thống nhất bởi những người cộng sản.”

“ Mục đích của hội thảo trước nhất là vì học thuật,” Giáo sư Tường cho biết. “Chúng tôi không có mục đích chính trị, không phục vụ ý đồ của bất kỳ phe nhóm chính trị nào trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại, càng không nhằm phê phán, tôn vinh, hay khôi phục chế độ VNCH.”

Đồng chủ toạ hội thảo với các Giáo sư Peter Zinoman và Vũ Tường, còn có Giáo sư Trần Nữ-Anh đến từ Đại học Connecticut. Cả ba cùng thuộc lứa tuổi 50, lớn lên sau khi cuộc chiến VN đã kết thúc, nên, theo GS Tường, không bị các định kiến của giới học giả phản chiến chi phối.

Hội thảo viên gồm hai thành phần, một là những người có kinh nghiệm trực tiếp trong việc xây dựng và phát triển Miền Nam về mọi mặt, từ thời Đệ nhất, 1955-1963, tới Đệ nhị Cộng Hoà, 1967-1975, để cung ứng cho giới học giả tương lai nguồn tài liệu nguyên thủy (primary source). Và nhóm thứ hai gồm các học giả, trong số đó có một số ứng viên tiến sĩ trẻ đang làm luận án, trình bầy những công trình nghiên cứu của họ dựa vào các nguồn tài liệu khác nhau và cả những phỏng vấn của riêng họ.

Nội dung thuyết trình được chia thành bẩy nhóm đề tài: 1) Chính trị Đa nguyên; 2) Phát triển Kinh tế; 3) Chính trị và Kinh tế; 4) Giáo dục và Truyền thông; 5) An ninh và Quân sự; 6) Xã hội, Văn hoá và Nghệ thuật; và 7) Đời sống Dân sự trong Thời chiến. Riêng nhóm đề tài 3 và 7 do các học giả trẻ, trong đó có hai gốc Việt, một gốc Á và ba gốc Mỹ, trình bầy những nghiên cứu một số khía cạnh đời sống tại Miền Nam thời Cộng hoà qua sách báo và phỏng vấn của họ. Những nhóm đề tài còn lại là do các nhân vật đã từng hoạt động đóng góp vào công cuộc xây dựng và vun sới cho nền dân chủ trẻ trung và duy nhất cho tới nay trong lịch sử Việt Nam. Đặc biệt có sự tham dự của Giáo sư John Schafer, với bài nghiên cứu về Ngô Kha, một trong những người bạn của và đã ảnh hưởng tới nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ông Schafer là tác giả cuốn “Vo Phien and the Sadness of Exile.”

Hội thảo Ngày 1:
Đặt Nền tảng Chính trị; Phát triển Kinh tế; Giáo dục và Truyền thông

Trong một công trình xây dựng quốc gia, theo Giáo sư Tường, thì việc đầu tiên và cần thiết là xây dựng một nền tảng chính trị. Đặt vào bối cảnh Việt Nam hiện nay, ông nói: “[V]iệc cấp thiết nhất với Việt Nam hiện nay là cải tổ chính trị sâu sắc và rộng lớn theo hướng dân chủ hóa. Giải quyết được điều này có thể giải phóng được rất lớn trí tuệ và năng lực người Việt Nam. Nếu sợ dân chủ sẽ dẫn đến hỗn loạn, hãy có lộ trình, nhưng không được lấy cớ hỗn loạn để trì hoãn.”

clip_image008  clip_image010clip_image012

Hình trên, trái và giữa, các ông Lâm Lễ Trinh và Huỳnh Văn Lang, qua Skype, trình bầy về giai đoạn thiết lập nền Đệ nhất Cộng hoà dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Phải, Ông Hoàng Đức Nhã nói về tiến trình đưa tới Hiệp định Paris 1973 dưới thời Đệ nhị Cộng hoà của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. (Ảnh TD)

Trong tinh thần đó, cuộc hội thảo mở đầu với chủ đề Chính trị Đa nguyên (ý muốn nói là gồm các nhân vật của cả hai thời Đệ nhất và nhị Cộng hoà vốn còn nhiều bất đồng chính kiến?), với sự tham dự của các nhân vật đã tham gia vào các sinh hoạt chính trị của cả hai giai đọan này của VNCH. Luật sư Lâm Lễ Trinh, 93 tuổi, nguyên tổng trưởng Bộ Nội vụ trong thời Đệ nhất Cộng Hoà, qua hệ thống Skype, mở đầu với phần trình bầy về “Tổng thống Ngô Đình Diệm và nền Đệ nhất Cộng Hoà, 1954-1963.”

Cũng nói qua Skype, Ông Huỳnh Văn Lang, nguyên giám đốc Viện Hối Đoái và bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Đảng Cần Lao Nhân Vị thời Đệ nhất Cộng Hoà, sáng lập viên Hội Văn hoá Bình dân và tạp chí Bách Khoa, và là một nhà kinh doanh thành công thời Đệ nhị Cộng hoà, cũng qua Skype, nói về “Đảng Cần Lao” của Đệ nhất Cộng hòa. Ông Lang cũng đã dự tính bàn thêm về đê tài “Nền Văn hoá nào cho Người Tị nạn Vĩnh viễn ở Hải ngoại” trong nhóm chủ đề về văn hoá, nhưng hệ thống nối với Skype bị trở ngại, nên thôi.

Kết thúc cho nhóm chủ đề Chính trị Đa nguyên là phần trình bầy của ông Hoàng Đức Nhã, nguyên Tổng trưởng Bộ Thông tin và Chiều hồi thời đệ nhị Cộng hoà, tập trung vào kinh nghiệm của ông đối với Thỏa hiệp Paris năm 1973 khi Hoa kỳ, dưới thời Tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger, áp lực chính phủ của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ký Thoả hiệp, với những hứa hẹn tuy trên giấy tờ nhưng đã không hề được đệ trình lên Quốc hội Mỹ thông qua, do đấy vô giá trị đối với các nhà lập pháp Mỹ.

Nhóm chủ đề thứ hai về Kinh tế và Phát triển, tuy khô khan nhưng lại chứa nhiều thông tin thực tiễn, nói lên những thành quả tích cực mà, nếu không vì chiến tranh và phá hoại của cộng sản trên mọi mặt, thì VNCH có lẽ ngày nay đã phát triển không thua các nước Nam Hàn và Đông Nam Á, và nhất là đã không chịu sự chi phối của Trung Cộng, như đã và đang diễn ra trên mảnh đất đang bị nhiễm độc trầm trọng, cả ở nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Miền Nam, sau khi đất nước bị chia đôi và vừa thoát ra khỏi chế độ thuộc địa, nhiều cơ chế kinh tế và thương mại cần được xây dựng từ móng. Giáo sư Vũ Quốc Thúc, nay đã 96 tuổi, dự tính nói từ Pháp qua Skype, về “Sự ra đời của Ngân hàng Trung ương,” nhưng tiếc là không thành. Thay vì thế, Ông Nguyễn Đức Cường đã thay Ông Thúc trình bầy.

clip_image014 clip_image016

Hình trên, trái, Ông Nguyễn Đức Cường đang trình bầy về việc phát triển hệ thống ngân hàng của Việt Nam Cộng hoà; với Giáo sư Vũ Tường điều khiển cuộc thảo lận và các ông Phạm Kim Ngọc và Trần Quang Minh chờ tới phiên thuyết trình. Phải, các diễn giả đang trả lời những câu hỏi của khán giả sau phần thuyết trình. (Ảnh TD)

Cũng trong nhóm hội thảo về phát triển kinh tế, có ông Phạm Kim Ngọc, 88 tuổi, tốt nghiệp ngành kinh tế tại Đại học Southampton và ngân hàng và tài chính quốc tế tại London School of Economics, Anh quốc, nguyên Bộ trưởng Bộ Kinh tế thời Đệ nhị Cộng hoà. Qua đề tài “Canh tân hay Tan rã,” ông nói về những kế hoạch “thắt lưng buộc bụng” (austerity measures) và khó khăn trong giai đoạn Miền Nam cần tự lực cánh sinh để có thể sống còn một khi quân đội Mỹ rút về nước và do đấy những tài trợ cũng bị cắt giảm. Một trong những đề nghị tuy nhỏ nhưng đã bị phản ứng công khai và dữ dội là quyết định cắt phụ cấp giấy in báo nhập cảng, một nguồn lợi không nhỏ của một số chủ báo. Do đấy ông cho biết đã bị nhiều báo Sài Gòn dạo ấy xúm vào tấn công.

Nối tiếp ông Ngọc là ông Nguyễn Đức Cường, tốt nghiệp đại học Massachusetts Institute of Technology và nguyên bộ trưởng Bộ Thương mại và Kỹ nghệ thời Đệ nhị Cộng hoà, qua đề tài “Nền móng cho Sự Tự lập và Tăng trưởng.” Bài thuyết trình của ông bao gồm cả hai thời Đệ nhất và Đệ nhị Cộng hoà, cho khán giả một cái nhìn toàn diện về những nỗ lực để tự túc tự cường của một quốc gia dân chủ non trẻ còn nhiều tàn tích di sản của thời thuộc địa dài cả thế kỷ, lại đang gặp chiến tranh do phương Bắc gây ra, và những gì lẽ ra phải làm nhưng đã không được thực hiện.

“Nhìn lại, chúng ta đã có thể làm được hơn cho ngành kỹ nghệ hồi ấy,” ông nói. “Chẳng hạn như chúng ta đã không quan tâm đủ về tiềm năng sản xuất các quân trang quân dụng cho quân đội của các kỹ nghệ trong nước. Bộ Quốc phòng Mỹ hiện đã quan tâm tới việc giao cho địa phương việc cung cấp quân trang quân dụng thay vì nhập cảng, việc mà dạo đó các cơ sở kỹ nghệ của ta có thể khai triển với số vốn khiêm nhượng để thu về những đồng Mỹ kim khan hiếm. Nền kinh tế đã có thể nhờ đó thu lợi thay vì phải đầu tư lớn vào việc nhập cảng những thứ này.”

Cũng trong khuôn khổ nhóm thuyết trìnhh về phát triển kinh tế, Luật sư Cao Văn Thân, xuất thân từ các trường đại học Pháp và Mỹ, nguyên Bộ trưởng Bộ Cải cách và Phát triển Nông nghiệp thời Đệ nhị Cộng Hoà, cũng đã được lên chương trình và sẽ nói qua Skype, với đề tài “Cải cách Ruộng đất, Phát triển Nông thôn và Nông Nghiệp.” Tuy nhiên, hai ngày trước Hội thảo, ông bị bệnh, nên ông Trần Quang Minh, nguyên tổng giám đốc kế hoạch Ngũ niên Phát triển Canh nông và phó bộ trưởng Bộ Canh nông thời Đệ nhị Cộng hoà, được mời thay thế. Sinh năm 1938 tại Châu Đốc và, như những người thuộc thế hệ ông hồi ấy được huấn luyện tại Hoa kỳ, ông Minh tốt nghiệp ngành thú y và đã từng giảng dậy tại Đại học Nông Lâm Súc Oklahoma trước khi về Việt Nam tiếp tay kiến quốc. Ông Minh có óc hài hước, mặc dù đề tài của ông đầy tính chuyên môn, nhưng vài câu khôi hài của ông, kể cả hai lần đề cập tới Donald Trump, đã khiến khán giả cười rộ, thoải mái.

Đề tài thuyết trình của ông Minh, đặt trọng tâm vào Chương trình Người Cầy Có Ruộng của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, cũng chính là đề tài ông đã thuyết trình bốn năm trước tại kỳ hội thảo lần đầu ở Đại học Cornell do Giáo sư Keith W. Taylor khởi xướng. Nội dung của cuộc Hội thảo Cornell, tuy vậy, chỉ thu hẹp trong khuôn khổ trao đổi kinh nghiệm kiến quốc của các vị làm việc trong chính quyền thời Đệ nhị Cộng hoà. Bài này đã được khai triển và in trong tuyển tập “Voices from the Second Republic of South Vietnam, 1967-1975.” (**) Đây cũng là một trong những bài tôi đã đọc với tất cả thích thú lẫn ngạc nhiên — thích thú vì đề tài thiết thực, và ngạc nhiên vì sao mình đã không biết nhiều những chi tiết về cuộc cải cách nông nghiệp quan trọng này.

Việt Nam, kể từ khi chính thức độc lập khỏi sự cai trị của người Pháp vào năm 1945, đã trải qua ba cuộc cải cách nông nghiệp. Lần đầu là vào đầu thập niên 1950 tại các vùng do Việt Minh đã tiếp thu tại miền Bắc, đó là cuộc Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu mà ai cũng đã từng nghe biết, khiến hàng ngàn người bị liệt vào thành phần địa chủ, bị đem ra đấu tố, làm nhục, bị cướp đi đất đai của cải từ nhiều đời và không được đền bù, đã vậy nhiều người còn bị sát hại. Lần thứ hai là chương trình Cải cách Điền địa dưới thời Tổng thống Ngô Đình Diệm. Chương trình này không mấy thành công vì sự đề kháng của các nhà đại điền chủ ở Miền Nam và vì nhiều những lý do khác. Và lần thứ ba là chương trình Người Cầy Có Ruộng dưới thời Đệ nhị Cộng hoà, với sự trợ giúp của Hoa kỳ, đã khá thành công. Vào khoảng đầu năm 1973, khoảng 3 triệu mẫu ruộng, tức 60 phần trăm tổng số 7.5 triệu mẫu đất cầy cấy của Miền Nam, đã được phân phát cho khoảng 800,000 gia đình nông dân. Các đại và trung điền chủ được bồi thường bằng tiền mặt, chứ không bị cưỡng đoạt như trong cuộc Cải cách Ruộng đất của cộng sản Việt vào dầu thập niên 1950 và tại Trung Quốc trước đó. Từ đấy là khả năng sản xuất lúa gạo đã gia tăng, đặc biệt với việc trồng loại lúa “Thần nông”, mà kết quả là vào đầu năm 1973, thời kỳ Thoả hiệp Paris được ký kết, VNCH đã có thể tự nuôi và còn chuẩn bị để xuất cảng gạo.

“Vào cuối cuộc chiến, chúng tôi đang tập trung vào công tác xây dựng hạ tầng cơ sở cho việc xuất cảng gạo tương lai,” ông Minh kết luận trong bài viết trong cuốn “Voices,” nên tôi tạm mượn trích đọan trong sách cho bài được đầy đủ hơn một chút. “ Nhìn lại, thật đáng kể là những thành tựu trong việc tái phân phối sở hữu ruộng đất ở thôn quê, gia tăng sản xuất lúa gạo, và hợp lý hoá giá gạo đã được thực hiện vào cao điểm của một cuộc chiến kéo dài do Bắc quân gây ra.”

“Cuộc chiến Việt Nam không chỉ là bắn giết và gây thương tật, trận thua trận được, và Việt Mỹ bất bình nhau, như hầu như đã chỉ được mô tả trong sách vở và qua truyền thông,” Ông Minh chia sẻ. “Đối với chúng tôi phần nhiều đó là việc xây dựng một quốc gia và thay đổi những cuộc đời, là cách mạng xã hội, là tái thiết nông thôn, là phát triển nông nghiệp, phát triển kinh tế, và xây dựng một tương lai hạnh phúc cho con cháu chúng ta. Đây chính là di sản trường tồn và hữu dụng mà nền Đệ nhị Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, để lại cho một dân tộc đã nhiều khổ đau. Và chúng tôi, những thành phần dân sự trong cuộc chơi này, đã và còn hãnh diện về các thành quả và đóng góp trong cuộc đấu tranh chống lại chủ nghĩa cộng sản quốc tế. Mặc dù chúng tôi thua trận vì thiếu sự hộ trợ hậu cần (logistics), song điều đó không làm giảm hay vô hiệu hoá các nỗ lực của chúng tôi.”

Vào cuối chương trình của ngày hội thảo đầu, trước khi bước qua phần trao đổi kinh nghiệm về Giáo dục và Truyền thông, khán giả có dịp thay đổi không khí qua một số nghiên cứu của các học giả trẻ, dựa trên nghiên cứu các tài liệu lưu trữ và phỏng vấn do chính họ thực hiện.

Kevin Li, sinh viên tiến sĩ sử học tại UC Berkeley, với đề tài có lẽ ít ai còn để ý, do đấy đặc biệt, "Yêu nước hay nối giáo cho giặc: Xét lại lực lượng Bình Xuyên trong thời hậu thuộc địa.” Ryan Nelson, sinh viên tiến sĩ sử học tại UC Berkeley, qua những tin tức và một số hí hoạ trên báo Sài Gòn thời ấy, nêu lên những vấn đề xã hội mà sự hiện diện của quân đội Mỹ đã gây ra, qua đề tài "Để mất lòng dân: Nhìn vào bốn vấn đề xã hội tại đô thị từ 1965-1966." Simon Toner, sinh viên hậu tiến sĩ ngành Đông Nam Á tại đại học Columbia University, với đề tài "Đường tới thất thủ: Cuộc khủng hoảng kinh tế của Việt Nam Cộng Hòa, 1969-1975.” Cuối cùng, Sean Fear, sinh viên hậu tiến sĩ ngành chính sách ngoại giao Hoa Kỳ và an ninh quốc tế tại đại học Dartmouth College, bàn về đề tài "Những suy nghĩ về chính phủ và xã hội dân sự trong nền Đệ Nhị Cộng hoà.”

clip_image018

Trái, sinh viên tiến sĩ sử Ryan Nelson đang trình bầy nghiên cứu về xã hội Miền Nam, đặc biệt tại Sài Gòn, vào giữa thập niên 1960, dưới ảnh hưởng của sự có mặt ồ ạt của quân Đội Mỹ vào Việt Nam. Cạnh Nelson, từ trái, Giáo sư Trần Nữ-Anh, người điều khiển hội luận, Kevin Li, Simon Toner và Sean Fear đang cùng nhìn lên màn ảnh thứ hai trong hội trường. (Ảnh TD)

Kết thúc ngày đầu của cuộc hội thảo kéo dài hai ngày này là phần chia sẻ kinh nghiệm về giáo dục và truyền thông, với các thuyết trình viên: Tiến sĩ Võ Kim Sơn, nguyên giảng sư Đại học Sư phạm Saigòn, trình bầy về “Việc Điều hành Hệ thống Giáo dục Công lập của Nam Vietnam”; Tiến sĩ Nguyễn Hữu Phước, phu quân của bà Sơn, nguyên Viện trưởng Phân khoa Đào tạo Giáo chức Tiểu học tại Saigon, đóng góp về đề tài “Triết lý Giáo dục và Phát triển Hệ thống Trường Kiểu mẫu của Việt Nam Cộng Hoà”; Nhà báo Phạm Trần, với trên 50 năm kinh nghiệm trong báo giới từ cả trước và sau 1975, nói về đề tài “Sống và làm việc trong vai trò ký giả dưới chế độ Việt Nam Cộng Hoà”; và Vũ Thanh Thủy, cựu phóng viên chiến trường trước 1975 và hiện là giám đốc Đài Phát thanh Saigon Houston, nói về “Chiến tranh Việt Nam qua cái nhìn của các phóng viên chiến trường người Việt.”

Quan trọng không kém các công cuộc đặt nền móng pháp lý, phát triển kinh tế, cải cách nông nghiệp và xây dựng quân đội của một tân quốc gia trong thời chiến, bên cạnh những khó khăn nội bộ, là việc xây dựng một hệ thống giáo dục để đáp ứng những đòi hỏi cấp thời, cũng như đặt nền tảng chuẩn bị cho tương lai. Trong khi Tiến sĩ Sơn nói về những nỗ lực tái thiết nền giáo dục từ chế độ thuộc địa ảnh hưởng của Pháp, huấn luyện giáo viên tiểu và trung học, phát triển hệ thống đại học, soạn thảo sách giáo khoa, và những công tác liên hệ khác; Tiến sĩ Phước bàn về nền tảng triết lý giáo dục của VNCH.

Lịch sử nền giáo dục của Việt Nam là lịch sử của 10 thế kỷ (từ năm 939, là lúc đất nước thoát khỏi sự đô hộ kéo dài cả ngàn năm của Tầu, tới khi Pháp qua thuộc địa hoá Việt Nam vào cuối thế kỷ 19) chịu ảnh hưởng bởi hệ thống giáo dục Khổng Tử chỉ nhằm huấn luyện quan lại phục vụ cho chế độ quân chủ. Rồi nối tiếp là gần một thế kỷ ảnh hưởng bởi giáo dục của Pháp nhằm đào tạo một tầng lớp trí thức tiêm nhiễm văn hoá phương Tây. Kể từ khi Việt Nam lấy lại được nền độc lập vào năm 1945, thay vì xây dựng đất nước, người cộng sản, sau khi cướp được chính quyền từ tay người quốc gia, đã tự ý phát động một cuộc chiến gọi là giành lại độc lập từ tay Pháp, mà thực ra không cần thiết. Không cần thiết bởi vì sau Đệ nhị Thế chiến, các nước thuộc địa, với sự hỗ trợ của Liên Hiệp Quốc tuy lúc ấy cũng chỉ mới được thành lập và còn phôi thai, trước sau đều khôi phục được độc lập của mình mà không cần phải đổ máu.

Sau Hiệp định Geneva 1954 chia đôi đất nước, cộng sản Miền Bắc chuẩn bị các thế hệ tương lai cho cuộc chiến “giải phóng và thống nhất” Miền Nam. Trong khi đó, với sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, VNCH chuẩn bị cho một tương lai với một hệ thống giáo dục đặt trên ba nền tảng chỉ đạo: Nhân bản, Dân tộc, và Khai phóng.

Mặc dù những khó khăn, như cuộc chiến ngày một gia tăng cường độ giữa Miền Nam tự do với cộng sản Miền Bắc, và các nỗ lực của Pháp qua những thỏa hiệp văn hoá tiếp tục ảnh hưởng tới đường lối giáo dục của VNCH, ông Phước ghi nhận những trợ giúp tích cực của chính phủ Hoa Kỳ qua các chương trình hợp tác của các trường đại học Mỹ. Trong số đó có Đại học Tiểu bang Michigan giúp VNCH tái tổ chức và điều hành các hệ thống công lập; Đại học Nam Tiểu bang Illinois giúp huấn luyện các giáo viên tiểu học; Đại học Ohio trong việc thiết lập hệ thống Trung học Tổng hợp; và Đại học Wisconsin/Stevens Points tiếp tay khai triển hệ thống giáo dục cao cấp. Kết quả là Nam Việt Nam đã, sau 20 năm, thiết lập và phát triển được nhiều cơ sở giáo dục như các trường trung học tổng hợp, hệ thống đại học cộng đồng, hệ thống trắc nghiệm và thẩm định, các đại học huấn luyện giáo chức. Số học sinh, sinh viên gia tăng, như cầu sách vở cũng nhờ vậy mà tăng trưởng, tiếp tay đẩy mạnh các sinh hoạt văn hoá khác, trong đó có các ngành thuộc văn học nghệ thuật.

“Không may là cuộc chiến tranh ý thức hệ diễn ra từ 1959 tới 1975 giữa Miền Bắc cộng sản và Miền Nam tự do đã đưa tới sự xụp đổ của Miền Nam và thay đổi toàn diện và vĩnh viễn số phận của hệ thống giáo dục của VNCH,” Ông Phước ngậm ngùi – niềm ngậm ngùi mà nhiều người trong nước hiện nay cũng đã và đang cảm thấy một cách thấm thía hơn bao giờ hết — kết thúc bài thuyết trình. “Đối với chúng tôi những nhà giáo của VNCH, một thời giáo dục hoàng kim đã biến mất cùng với sự xụp đổ của VNCH.”

clip_image020 clip_image022 clip_image024 clip_image026

Hình trên, trái, nhà báo Phạm Trần, qua hệ thống Skype, đang trình bầy về 20 năm báo chí Miền Nam. Hình thứ hai từ trái, Tiến sĩ Nguyễn Văn Phước chia sẻ cuốn “Giáo Dục Ở Miền Nam Tự Do Trước 1975” mà ông đã sử dụng cho bài thuyết trình về triết lý giáo dục của VNCH. Giữa, bên phải, Tiến sĩ Võ Kim Sơn chia sẻ kinh nghiệm giáo dục tại Miền Nam. Phải, cựu phóng viên chiến trường Vũ Thanh Thủy trong một phút xúc động khi nói về sự dũng cảm và hy sinh của các sĩ quan và binh sĩ VNCH mà bà đã tận mắt chứng kiến ngoài mặt trận vào các năm cuối cuộc chiến. (Ảnh TD)

Tiếp theo phần trình bày của hai nhà giáo Sơn và Phước, hai nhà truyền thông lần lượt trình bầy về vai trò của người ký giả và phóng viên chiến trường tại Miền Nam. Nhà báo Phạm Trần, vì lý do riêng không thể trực tiếp tham dự hội thảo nên nói qua hệ thống Skype, về đề tài “Sống và Làm việc như một Ký giả thời VNCH.” Với 15 năm, tức kinh nghiệm dài bằng ba phần tư cuộc đời ngắn ngủi của VNCH, lăn lộn trong nghề báo với các cơ quan báo tư nhân cũng như truyền thông của chính quyền tại Miền Nam, ông Phạm Trần đã đưa khán giả đi một vòng lược sử báo chí sinh động của Miền Nam, từ một chế độ kiểm duyệt khá khe khắt của thời Đệ nhất Cộng hoà khiến báo chí đâm dè dặt, xoay ra đặt trọng tâm vào thương mại và giải trí; tới thời Đệ nhị tương đối tự do hơn, song cũng do đó mà sự xâm nhập của cộng sản vào giới này càng trở nên dễ dàng hơn, khiến tình thế càng trở nên phức tạp.

Không bao biện mọi sinh hoạt của nền báo chí VNCH với một tốc độ chóng mặt như phần thuyết trình của nhà báo Phạm Trần, Vũ Thanh Thủy thu gọn đề tài của mình vào góc nhìn đối với cuộc chiến của một phóng viên chiến trường trong giai đọan năm năm cuối cùng của VNCH. Đồng tác giả cuốn “Hồi ký Phóng viên Chiến trường: Tình yêu, Ngục tù & Vượt biển” vừa phát hành, viết chung với phu quân, nguyên đồng nghiệp của bà, là nhà báo Dương Phục, bà Thủy đã mang đến cho khán giả cuộc hội thảo một bản tường trình nhiều xúc cảm chân thành, khiến nhiều người cũng muốn rớt nước mắt theo khi bà kể lại những gì chính mắt mình thấy, đó là sự dũng cảm và cả hy sinh mạng sống của các tướng tá và binh lính VNCH ngoài mặt trận.

“Tôi thấy phẫn uất khi báo chí ngoại quốc gọi quân đội Việt Nam là một quân đội bù nhìn,” bà nói, rồi ngưng một lúc như để ngăn cơn xúc động như muốn tuôn trào.

Bà Thủy dành một phần ba của bài nói chuyện tập trung vào báo chí và các ký giả ngoại quốc tường trình về cuộc chiến tại Việt Nam, và vì những thiếu sót của giới này đã đưa tới cái nhìn lệch lạc, thiển cận đối với cuộc chiến đấu cho tự do của Miền Nam.

“Giới truyền thông Mỹ không bao giờ hiểu cuộc chiến như chúng ta đã hiểu,” bà nói. “Trong cái nhìn của họ, đó là cuộc chiến giữa chính phủ họ với chính phủ Hà Nội. Với chúng ta, đó là cuộc nội chiến do những dị biệt về nếp sống. Nó còn lớn hơn cả chính chúng ta (vì) đó là cuộc Chiến tranh Lạnh châm ngòi bởi chính quyền Sô viết và Trung cộng nhằm bành chướng chủ nghĩa cộng sản xã hội. Người Mỹ cũng biết đó là sự thực, do đấy đã hỗ trợ Miền Nam trong việc ngăn chặn sự bành chướng này, nhưng họ không biết gì về chúng ta… chúng ta đã từ chối bỏ rơi tinh thần tự do.” Theo bà, giới truyền thông Mỹ vốn thiếu khả năng ngôn ngữ và chỉ dựa vào những nhận xét một chiều của các ký giả đi trước, bên cạnh những thông tin do các nhà báo cộng sản nằm vùng tại Miền Nam, như trường hợp gián điệp Phạm Xuân Ẩn, mớm cho, những cái nhìn thiên lệch và nông cạn ấy đã được giới truyền thông Mỹ lặp đi lặp lại, và do đấy ảnh hưởng tới dư luận Mỹ.

“Ý niệm là thế giới biết về chúng ta qua những hiểu lầm của các phóng viên đã không chịu bỏ thì giờ để đào sâu thêm, quả thật là hãi hùng,” Bà Thủy tiếp. “Rằng lịch sử và tương lai của một quốc gia đã chỉ được nhào nặn bởi một nhóm nhỏ không thấu đáo sự việc đúng là một cuộc xẩy thai nghề nghiệp bi thảm.”

[Xem tiếp Kỳ 2]

bài đã đăng của Trùng Dương