“Hòn Vua”, bờ biển Nam Oregon, 2009 (Ảnh Trùng Dương)
Tại một bãi cát trên bờ biển Oregon xế nhà tôi về phía tây nam có một cụm những hòn đá lớn nhỏ đủ hình thù bao quanh một phiến đá lớn nhất có tên là Face Rock. Phiến đá này và những hòn đá bao quanh mang huyền thoại về cô công chúa xinh đẹp Ewanua thuộc bộ lạc miền núi Nah-So-Mah xưa cư ngụ trên rặng núi nay được đặt tên là Siskiyou nằm giữa hai tiểu bang California và Oregon.
Theo tục truyền thì Ewanua theo cha là Tù trưởng Siskiyou một hôm tới thăm các bộ lạc ven biển. Các bộ lạc này, vốn rất sợ thủy thần Seatka vì ông ta rất dữ, đã mở tiệc mừng cha con Siskiyou và Ewanua. Ewanua và dân bộ lạc của cô là người miền núi nên không biết sợ thần Seatka. Sau bữa tiệc, trong khi mọi người đi nghỉ, Ewanua đem con chó Komax và đàn mèo con đựng trong một cái giỏ ra bãi biển chơi. Mảng vui, Ewanua bơi ra khơi, không để ý tới nguy hiểm đang rình rập. Thình lình, thủy thần Seatka xuất hiện túm lấy cô. Thấy chủ bị lâm nguy, con chó Komax miệng ngậm cái giỏ trong đó có đám mèo con bơi ra cứu chủ và cắn thần biển. Seatka bị đau, nổi giận, đá con chó và thẩy đám mèo rớt vung vãi trên sóng. Ewanua giận lắm, biết sức mạnh của Seatka nằm trong đôi mắt của thần, nên cô từ chối không thèm nhìn vào mắt Seatka. Ngày nay, cô công chúa là hòn Face Rock nằm ngoài khơi, mặt ngửa lên nhìn trời, không đoái hoài gì tới thần Seatka ngồi kế bên. Con chó Komax và đám mèo con nằm rải rác trên bãi cát và giữa những lớp sóng phía sau Face Rock, hoài mong cô chủ của chúng chỗi dậy đến với chúng.
Tôi không biết thần biển Seatka có phải là hòn đá tôi vẫn nhìn với thích thú vì, từ mỏm đất nay là Face Rock State Park nhìn về hướng tây nam, hòn đá có hình thù như một ông quan An Nam ngồi ngóng ra biển Thái Bình Dương. Trả lời thắc mắc của tôi, một người điạ phương nói Seatka không có trong những hòn đá thuộc huyền thoại Facerock. Dù gì thì mỗi lần tới công viên Facerock, tôi đều bị lôi cuốn bởi hòn đá có hình thù một ông quan An Nam ấy, mà tôi đã nhân cách hoá là một ông quan ta bị lưu đầy, ngồi ngóng ra biển về phía bên kia Thái Bình Dương. Có đôi lần tôi xuống bãi, đi vòng quanh hòn đá, "hỏi han" có thấy gì ở chân trời, ngoài xa tít mù khơi, bên kia bờ đại dương, nơi có mảnh đất hình chữ S, nơi bao nhiêu triệu con người vẫn còn bị nghèo đói, thiếu tự do, nơi những giòng sông đã hoặc đang chết vì ô nhiễm trước một xã hội vô tâm và vô tình …
Mùa hè năm rồi nhà văn Nguyễn Tường Thiết, nhân chuyến nghỉ hè ở nhà tôi cùng với vợ, chị Thái Vân, và nhà thơ Trần Mộng Tú và chồng, anh Frank, đã đặt tên cho hòn đá này là Hòn Vua, khi tôi chỉ cho anh xem và nói cảm tưởng của tôi về hòn đá có dáng giống như một ông quan An Nam ngồi lặng lẽ ngóng ra biển trông về quê mẹ bên kia bờ Thái Bình. Nhà thơ Trần Mộng Tú đứng bên hóng chuyện, và như thường lệ thở thôi cũng ra thơ… thẩn, buột miệng: “Chiều chiều ra đứng ngõ sau/ Ngóng về quê mẹ ruột đau chín chiều…"
Tôi ngẫm nghĩ về cái tên Hòn Vua của anh Thiết, thấy hay hay. Tôi thả óc tưởng tượng của mình đi xa hơn, hình dung tới những vị vua An Nam thời nhà Nguyễn đã bị chính quyền bảo hộ bắt đầy ra ngoại quốc vì tội chống Pháp. Đã hẳn không thiếu những vị vua, quan, công chúa của ta, và cả dân thường hoặc bị bắt bớ, bị gả bán hoặc đem đi cống và đã từng rơi vào cảnh "nước non ngàn dặm ra đi", nhưng ít ra những nhân vật của lịch sử đó cùng lắm cũng chỉ đi tới Trung Quốc cùng ở một phía quả địa cầu, là cùng. Chưa có ai trước đó bị đưa đi xa tít mù khơi tới bên kia qua địa cầu như các vua nhà Nguyễn can "tội" chống Pháp và bị đầy đi biệt xứ. Những ông vua này gồm có vua Hàm Nghi, khởi nghĩa thất bại năm 1888 và năm sau đó bị đầy đi "an trí" ở Algerie; và hai cha con vua Thành Thái và vua Duy Tân, chống Pháp, kẻ trước (1907) người sau (1916), bị bắt và cùng bị đầy ra đảo Reunion, một thuộc địa của Pháp ở Ân Độ Dương, vào năm 1916, trên cùng một chuyến tầu.
Mỗi lần nhìn Hòn Vua, tôi thường nghĩ về ba ông vua nhà Nguyễn bị đầy biệt xứ và đặc biệt về đời sống của các ông trong những năm tháng lưu đầy. Những câu hỏi lởn vởn trong đầu: Các ông đã cảm thấy ra sao khi bước chân xuống thuyền một ra đi không hy vọng có ngày về lại quê cha đất tổ? Chắc cũng tan tác, chết lặng, như tôi và bao người tị nạn cộng sản 35 năm về trước mặc dù sự ra đi của người Việt tị nạn là do chọn lựa, một hành động tự do, và do đấy có tính cách chủ động, đòi hỏi nhiều nghị lực, can đảm và quyết tâm, thay vì thụ động. Những năm tháng đầu đời lưu vong của các ông vua này và các thân nhân, cận vệ đã cùng đi với các ông ra sao? Những năm tháng kế đó họ đã sống ra sao? bằng lợi tức nào? đã làm những gì? đã cảm thấy thế nào? đã ước vọng những gì? đã khắc khoải ra sao? đã ăn uống thế nào — tôi tẩn mẩn hỏi không biết họ có… nước mắm và gạo không (hai món tối cần cho cái bụng đã quen với đồ ăn Việt)? Nơi họ sống ra sao? Dân tình nơi đó đối với họ thế nào? Nhà cửa họ thế nào? Hàng xóm ra sao? Con cái thế nào? vv…
Bình thường cách đây khoảng chục năm, những câu hỏi đó sẽ không có câu trả lời vì sự khan hiếm những tài liệu lịch sử loại này cũng như trở ngại thu nhập (access) tài liệu. Tuy nhiên, ở thời đại Internet, việc này không đến nỗi quá khó khăn, đặc biệt gần đây đã có những nỗ lực rất đáng khích lệ trong nước trong việc sưu tầm các chứng liệu lịch sử liên hệ tới ba ông vua lưu đầy này, và đã đăng rải rác trên các trang Web trên Internet.
Cũng trong lúc sưu tầm tài liệu, tôi được biết vào giữa năm 2008 có một nhóm bắt đầu thực hiện một bộ phim ký sự lịch sử, tựa là "Đi tìm dấu tích ba vua lưu đầy", gồm 60 bộ (không thấy nói mỗi bộ dài bao nhiêu), để chiếu trên truyền hình. Được biết đòan quay phim, dưới sự điều khiển của nhà văn và viết truyện phim Nguyễn Hồ, đã tiếp xúc với nhiều người có liên hệ gần xa tới ba vua, kể cả đi tới gặp gỡ những người thân quen của các vua ở Pháp, và thu thập được nhiều tài liệu lịch sử mà nếu không nhờ dự án làm phim này, có lẽ sẽ mãi mãi được chôn kín đâu đó vì người giữ chúng sợ thất thoát, mai một. Như trường hợp những người dân làng Phú Gia ở Hà Tĩnh đã luân phiên giữ gìn nguyên vẹn các kỷ vật của Vua Hàm Nghi suốt trên 120 năm trời. Những bảo vật này gồm có long bào, kiếm báu, voi vàng và một số đồ ngự dụng mà vua Hàm Nghi khi về vùng này lập căn cứ chống Pháp và ban hịch Cần Vương vào năm 1885 đã ban tặng cho dân làng này, và đã được dân làng giữ gìn bảo vệ, có lẽ còn hơn cả mạng sống của chính họ, qua bao nhiêu biến đổi, tàn phá của thời cuộc. Tôi hy vọng sẽ có dịp xem bộ phim này, và cũng hy vọng là sẽ không bị thất vọng như với bộ phim về Vua Bảo Đại, một vị vua vì có lẽ vì sinh thời quá gần với cận đại, có nhiều giao tiếp với và những nhận xét tiêu cực về ông Hồ Chí Minh, nên chân dung của ông cũng phần nào bị ảnh hưởng bởi thái độ thiên vị lịch sử của những người tài trợ bộ phim "Ngọn Nến Hoàng Cung" (2004) do Nguyễn Quốc Hưng đạo diễn.
Sau đây là tóm lược những gì tôi sưu tầm được về ba vua nhà Nguyễn bị lưu đầy (*) để, trước hết là thỏa mãn những thắc mắc của mình, và sau là chia sẻ với độc giả.
Vua Hàm Nghi (1871-1940)
Được các phụ chính đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa lên ngôi năm 1884 — năm Pháp hoàn tất cuộc thôn tính toàn cõi Việt Nam — lúc mới 13 tuổi, Vua Hàm Nghi (tức Nguyễn Phúc Ưng Lịch) trở thành vị vua thứ tám của nhà Nguyễn. Sau vụ phản công thất bại tại kinh thành Huế vào năm 1885, Tôn Thất Thuyết đưa vua ra khỏi thành và phát hịch Cần Vương chống lại sự cai trị của người Pháp. Phong trào kéo dài được ba năm, đến năm 1888 thì nhà vua bị bắt, các cận vệ của ông trong đó có Tôn Thất Thuyết phải lánh nạn sang Trung Hoa rồi chết bên đó (theo sử gia Trần Trọng Kim), hoặc bị tù đầy, như ông Nguyễn Văn Tường bị đầy ra Côn Đảo, rồi Tahiti và chết ở đó (theo lời của người cháu gọi ông bằng cụ cố, Giáo sư Nguyễn Quốc Trị, hiện sống tại Hoa Kỳ). Riêng nhà vua thì bị Pháp đưa đi an trí ở Alger, Algerie, thuộc Bắc Phi, vào cuối năm 1888, khi vừa chớm 18 tuổi (ta).
Lúc đầu, ông không chịu học tiếng Pháp, cho đó là ngôn ngữ của kẻ xâm lược, và vẫn mặc quốc phục khăn đóng áo dài. Nhưng sau nhận thấy người Pháp ở Algerie, đặc biệt gia đình Toàn quyền Tirman của Algerie, đối xử với ông tử tế và thân thiện, ông bắt đầu học tiếng Pháp. Trong vài ba năm, ông đã nói và viết thông thạo tiếng Pháp. Một số bài viết cho thấy ông yêu thích nghệ thuật, đã từng sang Paris vào năm 1899 và viếng phòng triển lãm của hoạ sĩ nổi tiếng Paul Gauguin. Hàm Nghi cũng đã từng vẽ tranh, được biết ông chịu ảnh hưởng nhiều của Gauguin.
Năm 1904, cựu hoàng Hàm Nghi làm lễ thành hôn với cô Marcelle Laloe (1884-1974), con gái của ông chánh toà Thượng thẩm Alger. Đám cưới của hai người là một biến cố văn hóa đặc biệt của thủ đô Alger. Ngoài sự kiện con gái của ông chánh toà thành hôn với một vị cựu hoàng người Việt từ một mảnh đất mà có lẽ hồi ấy chẳng ai biết ở đâu, còn là việc chú rể mặc sắc phục Việt với khăn đóng áo dài, bên cạnh cô dâu trong bộ đồ cưới mầu trắng tây phương, đã hẳn là hết sức ngoạn mục. Hai ông bà sinh hạ được ba người con: Công chúa Như Mai (1905-1999), Công chúa Như Lý (1908-2005), và Hoàng tử Minh Đức (1910-1990). Vào ngày 4 tháng 1, 1944, cựu hoàng Hàm Nghi qua đời vì bệnh ung thư dạ dầy, và được chôn cất tại Sarlat, trong vùng Aquitaine bên Pháp. Vào năm 2008, hài cốt của ông được đưa về Việt Nam và chôn cất tại Huế.
Trái, chân dung vua Hàm Nghi, không rõ năm. Phải, đám cưới cựu hoàng Hàm Nghi-Ưng Lịch và cô Marcelle Laloe, năm 1904. (Ảnh Wikipedia.org)
Trái, cựu hoàng Hàm Nghi- Ưng Lịch giữa những tượng điêu khắc tại Pháp, 1935. Phải, mộ cựu hoàng Hàm Nghi tại Sarlat, Pháp, không rõ năm chụp. (Ảnh Wikipedia.org)
Vua Thành Thái (1879 – 1954)
Vua Thành Thái (Nguyễn Phúc Bửu Lâm) là vị vua thứ 10 của nhà Nguyễn, lên ngôi vào năm 1889, khi mới lên 10, và tại vì cho tới năm 1907. Ông có tinh thần chống Pháp, nhưng không bảo thủ. Khác với các vì vua trước, ông học tiếng Pháp bên cạnh Hán văn, cắt tóc ngắn, mặc âu phục, học cả lái ca nô, xe hơi và làm quen với vǎn minh phương Tây. Ông cũng thường xuyên đi vi hành trong dân chúng, mang theo cả các bà cung phi, và dân chúng không bị bắt cúi đầu tránh nhìn thấy mặt vua, một hành động xưa coi là phạm thượng. Ông thích nghiên cứu các loại vũ khí, đọc các tân thư của Trung Quốc và Nhật Bản, thầm nhuần tinh thần cải cách và có đầu óc tự cường. Ông khinh thường bọn quan lại xu nịnh, và có những hành động không mấy phục tòng người Pháp, nên không được phía Pháp ưa, tìm cách triệt hạ ông.
Vào ngày 29 tháng 7, 1907, vì không chịu phê chuẩn việc bổ nhiệm một số quan lại đã được Khâm sứ Pháp là Lévêque và Hội đồng Thượng thư thỏa thuận, ông bị Lévêque tuyên bố truất quyền và bị quản thúc trong Đại nội. Khi ông từ chối tự nguyện thoái vị, theo thỉnh cầu của triều thần dưới áp lực của Pháp, ông bị đưa đi quản thúc ở Cap Saint Jacques (Vũng Tầu). Năm 1916, ông cùng với con trai là Vua Duy Tân, bị đầy ra đảo Réunion, một hòn đảo nhỏ nằm trong Ấn Độ Dương, nay vẫn thuộc về Pháp, cách 700 km phía đông của Madagascar và cách Mauritius 200 km về phía tây nam.
Khác với vua Hàm Nghi có một đời sống vật chất tương đối đầy đủ, một phần có lẽ cũng nhờ địa phương nơi cựu hoàng bị lưu đầy là thủ đô Alger có nhiều cơ hội kinh tế hơn và vì ông còn trẻ nên dễ thích nghi hơn, cựu hoàng Thành Thái và gia đình sống khá chật vật trên đảo Réunion. Theo Wikipedia ấn bản tiếng Việt, thì "[Ô]ng cùng gia đình thuê một căn nhà ở thành phố Saint Denis tại đảo Réunion. Thành Thái và Hoàng phi Chí Lạc dạy các con tiếng Việt và cả những nhạc cụ dân tộc như đàn cò, sáo … Ông tự phân công cho tất cả những người con từ nhỏ đến lớn đảm nhận công việc trong gia đình. Các công chúa phụ mẹ việc bếp núc, làm vườn. Các hoàng từ người làm cận vệ cho Thành Thái, người đảm nhận lo phân trầu cau, điểm tâm sáng, người phụ dọn dẹp nhà cửa… […] Già cả ốm đau, con cái nheo nhóc, ông hoàng Bửu Lân nhiều lần bị chủ nhà đòi tiền thuê nhà, chủ nợ đòi nợ. Năm 1925, vua Khải Định biết tình cảnh ông, đã trích ngân sách gửi sang cho ông 1.000 đồng, rồi sau thỉnh thoảng lại cho tiền. Sau khi Khải Định mất, không còn khoản tiền đó nữa, nên ngày 21 tháng 9 năm 1935, Bửu Lân phải viết thư gửi vua Bảo Đại, xin nhà nước Bảo hộ Pháp cho một khoản tiền để mua nhà, ‘hễ hết đời’ ông thì nhà nước sẽ thu lại."
Vào tháng 5 năm 1945, cũng theo Wikipedia, nhờ sự vận động của con gái và con rể, tức luật sư Vương Quang Nhường, cựu hoàng Thành Thái mới được cho về Việt Nam. Ông cùng gia đình sống ở Villa Anna, nơi ông đã bị quản thúc trước khi bị đầy đi biệt xứ, tại Cap Saint Jacques. Năm 1953, ông được phép về thăm quê ở Huế lần đầu và cũng là lần cuối. Ông qua đời vào ngày 24 tháng 3, 1954, thọ 75 tuổi, và được chôn cất tại Huế.
Trái, Vua Thành Thái, 1889-1907; giữa, với Vua Bảo Đại, Saigon? (1953?); và phải, cựu hoàng Thành Thái về thăm Huế lần chót, 1953. (Ảnh Wikipedia.org và Internet)
Vua Duy Tân (1900 – 1945)
Sau khi vua cha bị Pháp đưa đi an trí ở Cap Saint Jacques, Nguyễn Phúc Vĩnh San, con thứ năm của Thành Thái, được đưa lên ngôi vào năm 1907, lúc mới 7 tuổi, lấy hiệu là Duy Tân, trở thành ông vua thứ 11 của triều Nguyễn. Trông bề ngoài có vẻ nhút nhát, ngờ nghệch, nhưng ông thông minh, chịu khó học hỏi, có lòng thương dân và tinh thần cầu tiến. Theo một tài liệu thì năm 1908 khi xẩy ra vụ dân Trung Kỳ biểu tình chống thuế, Duy Tân, tuy mới 8 tuổi, đã xin đóng góp 300 đồng trong số lương 500 đồng của ông, để giúp dân nghèo. Năm 13 tuổi, theo một tài liệu, Duy Tân đòi duyệt lại Hiệp ước Patenôtre ký năm 1884 đặt Vương quốc An Nam dưới sự cai trị của người Pháp, nhưng bất thành. Tháng Tư năm 1916, ông bí mật tiếp xúc với nhóm Việt Nam Quang Phục Hội do hai ông Trần Cao Vân và Thái Phiên lãnh đạo, dự tính khởi nghĩa chống Pháp. Việc không thành, hai ông Vân và Phiên bị bắt và bị xử chặt đầu. Còn Duy Tân bị bắt và bị đầy biệt xứ cùng với cha là Vua Thành Thái ra đảo Reunion, lúc ấy ông mới 16 tuổi.
Tại đảo Reunion, vì bất đồng với cha, ông dọn ra ở riêng. Duy Tân học tiếng Pháp, tiếng Anh và kỹ thuật vô tuyến điện, sống một cuộc sống tự lập bằng việc mở tiệm Radio Laboratoire bán, sửa và lắp ráp máy thu thanh. Ông còn viết văn, làm thơ đăng trên các báo Pháp như Le Peuple, Le Progrès, và đoạt giải nhì (có tài liệu nói là giải nhất) văn chương của Viện Hàn Lâm Khoa học và Văn chương của đảo Réunion năm 1924, với bài luận "Variations sur une lyre brisée" (Những biến tấu của một cây đàn lyre đổ vỡ). Ông cũng còn tham gia nhiều hoạt động xã hội, văn hoá và đòi hỏi nhân quyền. Tháng 6 năm 1940, đáp lời kêu gọi chống Đức Quốc Xã của Tuớng Charles de Gaulle, ông tham gia kháng chiến với lực lượng Pháp, chuyên trách về kỹ thuật vô tuyến. Trong thời gian này, ông vẫn sinh sống ở đảo Réunion mặc dù đã mấy lần xin sang Pháp nhưng không được chấp thuận. Nhờ khả năng về kỹ thuật vô tuyến của ông mà dân đảo biết được những tin tức các nơi về cuộc chiến chống Đức Quốc Xã lúc bấy giờ.
Tháng 6 năm 1945 ông tới được đất Pháp, và có dịp tiếp xúc với Tướng de Gaulle. Tháng 10 cùng năm, de Gaulle ký sắc lệnh hợp thức hóa việc Duy Tân phục vụ trong quân đội Pháp và các quân hàm ông đã nhận lãnh, từ thiếu úy, trung úy, đại úy và cuối cùng thiếu tá. Cuối năm ấy, theo hồi ký của de Gaulle, thì ông có ý định bàn với cựu hoàng về một sự hợp tác nào đó sau khi Vua Bảo Đại đã chính thức thoái vị. Theo một người bạn thân của Duy Tân, E.P Thébault, trong bài “Destin tragique d’un Empereur d’Annam: Vĩnh San – Duy Tân” đăng trong tạp chí Revue France-Asie năm 1970, và Linh mục Cao Văn Luận cũng nhắc lại trong cuốn hồi ký “Bên Giòng Lịch Sử, 1940-1965”, thì Duy Tân rất tha thiết muốn về góp phần giúp quê hương mặc dù đã gần 40 năm sống biệt xứ. Riêng về Duy Tân, tác giả Hoàng Trọng Thược có soạn một cuốn sách với khá nhiều tài liệu, “Hồ sơ Vua Duy Tân”, do nhà Thanh Hương xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1984 (tôi tình cờ tìm thấy bản thảo viết tay bằng bút chì bài tôi viết điểm sách cuốn này trong thùng tài liệu cũ, song sách thì có lẽ đã cho đi sau mấy lần dọn nhà.)
Ngày 25 tháng 12, 1945, Duy Tân, trên đường trở lại đảo Réunion, bị tử nạn khi chiếc máy bay Lockheed C-60 chở ông bị rớt ở gần làng Bassako, thuộc phân khu M’Baiki, Cộng hoà Trung Phi (Central African Republic). Phi hành đoàn gồm một thiếu tá hoa tiêu, hai trung úy phụ tá, và hai quân nhân, trong đó có Duy Tân, cùng với bốn thường dân nữa đều bị thiệt mạng. Tất nhiên có nhiều nghi vấn, và có lẽ sẽ không bao giờ có giảỉ đáp, xung quanh tai nạn máy bay này.
Vào tháng 4, 1987, các con vua Duy Tân (có với hai người phụ nữ Pháp mà ông đã từng sống chung không hôn thú, vì bà vợ Việt, cựu hoàng phi Mai thị Vàng, theo ông sang đảo Réunion sống được hai năm rồi xin về quê sống vì không hạp phong thổ, nhưng không chịu ly hôn), qua sự giúp đỡ của chính phủ Pháp phối hợp với phía Việt Nam, đã đưa di hài của ông về Việt Nam, an táng bên cạnh vua cha Thành Thái, tại Huế. Vào năm 1992, để ghi nhớ một cư dân rất đặc biệt của đảo Réunion, là cựu hoàng Duy Tân – Vĩnh San, thành phố Saint-Denis đã đặt tên cho một cây cầu chính ở đây là Pont Vinh San, dài 256 mét, bắc qua sông Saint-Denis dẫn vào trung tâm thành phố. Có tài liệu nói là Saint-Denis còn có tên một con đường, là Boulevard du Prince Vinh San nữa.
Trái, Hoàng đế Duy Tân và đòan hộ tống, 1907. Phải, cựu hoàng Duy Tân-Vĩnh San nghe phát thanh ở nhà riêng ở Saint-Denis, Réunion, không rõ năm. (Ảnh Wikipedia.org)
Trái, Duy Tân-Vĩnh San giữa, và các bạn, không rõ năm. Phải, Duy Tân trong quân phục Pháp, không rõ năm. (Ảnh Wikipedia.org)
Pont Vinh San, Saint-Denis, Réunion, 2008. (Ảnh, trái, Wikipedia France; phải, Jacques Mossot, http://fr.structurae.de/photos/index.cfm?JS=102651)
Chú thích:
(*) Độc giả có thể vào Google, dùng các cụm từ “Vua Hàm Nghi”, “Vua Thành Thái”, “Vua Duy Tân”, vv… để đọc thêm; hoặc cụm từ “Đi tìm dấu tích ba vua lưu đầy” để đọc những bài tường thuật về công trình thực hiện phim này. Hiện Wikipedia.org có ấn bản bằng tiếng Việt, ở dưới mỗi bài đều có phần tài liệu tham khảo (References), giúp mở rộng tầm tra cứu thêm, hoặc để phối kiểm độ chính xác của các sự kiện nêu trong bài.
.
Chị Trùng Dương viết sai một chi tiết trong phần vua Hàm Nghi. Mộ gia đình và nhà vua đang được chôn cất ở Thonac mièn Dordogne của nước Pháp vẫn chưa di quan về Huế như đã dẫn. Sở dĩ có sự hiểu lầm này vì vào năm 2008, chính quyền Việt Nam có dự tính ấy nhưng không thành do sự chống đối của gia đình nhà vua và sự hiểu lầm phát xuất từ đó!