Trang chính » Biên Khảo, Giới thiệu nghệ sĩ, Phỏng vấn Email bài này

Phỏng vấn họa sĩ Nguyễn Trung, ‘Có thay đổi, nghĩa là anh vẫn-còn-sống’

0 bình luận ♦ 28.02.2024

 

Nguyễn Trung - Kẻ mộng du

“Kẻ mộng du,” tranh Nguyễn Trung

 

Trong tiểu sử các nghệ sĩ tạo hình xuất thân từ miền Nam Việt Nam hiện còn sinh hoạt tại Hoa Kỳ, thường có ghi “Hội viên Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam.” Hội Hoạ Sĩ Trẻ Việt Nam là một hội nghệ thuật tại Saigon từ thập niên 60 của thế kỷ trước, và họa sĩ Nguyễn Trung là người được các họa sĩ cùng thời với ông chọn làm chủ tịch hội.

Không chỉ có ảnh hưởng trong nước, Nguyễn Trung còn là họa sĩ Việt Nam có tác phẩm được đều đặn bán trong các cuộc đấu giá quốc tế. Tranh của ông được sưu tập bởi Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật Việt Nam, Viện Bảo Tàng Nghệ Thuật Singapore và Viện Bảo Tàng Mỹ Thuật Bassano del Grappa của Ý. Tranh Nguyễn Trung đã nhiều lần dự triển lãm quốc tế. Gần đây nhất là các cuộc triển lãm được tổ chức tại Singapore, Nhật Bản, Đài Loan, Thái Lan (Hành lang Nghệ Thuật Thavibu) Đại Hàn, Ý, Pháp và Hoa Kỳ.

Năm 2005, sau cuộc triển lãm tại New York hồi tháng Mười, Nguyễn Trung đã ở lại Houston, Texas, trong vòng ba tháng chỉ để vẽ, vẽ, và vẽ. Phòng tranh Nguyễn Trung lần đầu tiên tại Little Saigon được mở cửa từ 14-1-2006 gồm những bức tranh mới, được vẽ cho bạn bè thân hữu và những người ái mộ tranh của ông.

Sau đây là cuộc phỏng vấn họa sĩ Nguyễn Trung do Sông Văn (Việt Báo Houston) thực hiện, khi ông làm việc tại Houston.

 

*

 

Sông Văn (SV): Xin ông cho biết ông khởi sự vào thế giới hội họa như thế nào?

Nguyễn Trung (NT): Như phần đông các họa sĩ khác, tôi bắt đầu vào thế giới hội họa qua ngưỡng cửa trường Mỹ Thuật. Tuy nhiên không như phần đông họ, tôi thấy chán học sớm, cho đến năm thứ hai thì bỏ trường. Có thể coi như thời điểm đó tôi bắt đầu chính thức tham gia vào đời sống nghệ thuật của miền Nam Việt Nam.

 

SV: Những hoạt động đáng ghi nhớ? Triển lãm nào được coi là thành công nhất và ông hài lòng nhất?

NT: Lúc bấy giờ hằng năm có tổ chức một cuộc triển lãm mang tên “Triển lãm mùa Xuân.” Tôi có tham gia vào năm 1960 và 1963 và được đồng nghiệp công nhận. Điều đó rất quan trọng đối với tôi vì nó giúp mình tự tin, mạnh dạn bước vào thế giới nghệ thuật. Lúc đó tôi cũng không thể tưởng tượng tranh của mình còn non nớt như thế nào và con đường nghệ thuật đầy chông gai và mênh mông ra sao! Đó là điều đáng ghi nhớ nhất.

Triển lãm nào được coi là thành công ư? Đối với tôi, mỗi lần triển lãm chỉ là một lần đánh dấu một bước đi của mình để rồi lại phải bước thêm nữa, bước mãi bởi nghệ thuật là một cái gì rất cắc cớ, khi chúng ta nghĩ là có thể chộp bắt được nàng ta trong tay thì nàng ta đã vượt chạy ra xa rồi. Rồi cứ thế mà rượt bắt, rượt bắt mãi.

Nói chung, những gì mình mới làm ra thì có thể là hài lòng nhưng rồi luôn luôn có nhu cầu không thôi đi tìm cái mới. Nghệ thuật thị giác dễ bị nhàm chán, lỗi thời, nhất là đối với bản thân người làm ra nó.

 

SV: Là người gắn bó với sinh hoạt mỹ thuật Việt nam, xin cho biết ông nghĩ thế nào về hội họa trong nước hiện thời?

NT: Hội họa Việt Nam, bắt đầu từ 1986, tức là sau khi “đổi mới,” đến nay đã phát triển rất nhiều. Người ta ít thấy trưng bày tranh theo khuynh hướng hiện thực xã hội chủ nghĩa, ngoại trừ trong các cuộc triển lãm chính thức do nhà nước tổ chức. Trường Mỹ Thuật vẫn phải đào tạo sinh viên theo đường lối cũ nhưng nhờ có trao đổi với các trường mỹ thuật các nước tiên tiến nên có sự phát triển theo chiều hướng hiện đại và đa dạng. Ta có thể thấy Performance, Installation, Trừu Tượng và các khuynh hướng hiện đại khác. Ở Hà Nội, Huế, Saigon, và ngay cả An Giang cũng mở ra những workshop, mời các nhà điêu khắc trên thế giới tới tham gia sáng tác chung với các nghệ sĩ trong nước. Sự “cọ xát” đó theo tôi rất bổ ích. Nói chung, riêng về lãnh vực nghệ thuật tạo hình trong nước, tôi có cái nhìn rất lạc quan.

 

SV: Đây là lần thứ hai ông sang Mỹ? Lần đầu thì triển lãm ở Oakland vào năm 1998 tại Gallery Pacific Bridge, rồi sau đó là một cuộc triển lãm “phụ” do bà Judith Day tổ chức ở New York, người mà một lần nữa mời ông tới New York năm nay. Tại sao ông quyết định dành một thời gian khá dài để làm việc tại Mỹ lần này?

NT: Tôi thật chẳng quyết định gì cả, chẳng qua là do tính bốc đồng thôi. Đến đây, tôi thấy có chỗ làm việc, có phương tiện làm việc, có bạn bè tử tế thì “ghé” lại một thời gian. Bây giờ chúng ta sống trong nếp văn hóa của con người định cư, nhưng máu du mục, nhất là ở họa sĩ thì còn rất đậm. Đó là một nhận định rất “rừng,” xét theo kinh nghiệm cá nhân, chứ chưa chắc có sách vở nào nói. Và cũng là để nói phét mà chơi, chứ cái “nostalgia” – cái nỗi nhớ nhà – vẫn là một căn bệnh không thuốc chữa, ít ra cũng là của riêng tôi.

Đến đây, cũng để nhìn lại, để thưởng thức, để chiêm nghiệm tác phẩm của những bậc thầy hiện đại mà tôi yêu thích, như Cy Twombly, Rothko, Barnett Newman… những người có quá trình làm việc và tự vượt hơn người. Tôi nghĩ họ phải vô cùng can đảm, đam mê, ý chí của họ mạnh mẽ để theo đuổi con đường mình đi. Tâm hồn của họ thật thanh cao, cô đơn, tịch mịch. Đó là tự tôi nghĩ như thế.

 

SV: Ông có thể nói một chút về cuộc triển lãm ở New York vừa qua?

NT: Tôi tới New York vào hạ tuần tháng Chín 2005 theo lời mời của bà Judith Day. Bà là người chuyên về nghệ thuật Việt Nam, từng giới thiệu tranh của tôi cho khách mua tranh tại đây. Bây giờ chỉ còn sót trong tôi một New York với mưa lạnh, một buổi hòa nhạc Jazz với tay piano, tay trống, bass, saxophone và nhất là tay trombone tuyệt vời. Rồi thì là New York Philharmonic với tay nữ violinist người Hàn Quốc xuất sắc, giúp tôi đỡ phải ngủ gục trong khi ban nhạc trình tấu. Cuối cùng, còn lắng đọng sâu sắc trong tôi vẫn là MOMA, một MOMA đổi khác, phong phú và, vẫn còn lóng lánh trong ký ức tôi nghệ thuật installation của Eva Hesse, sắp đặt những vật hình ống làm từ sợi thủy tinh, một chất liệu vừa trong vừa đục, vừa như có vẻ tầm thường nhưng vừa sang trọng. Cái đó đánh mạnh vào cảm xúc sáng tạo khiến người ta muốn có nó trong tay để làm ra một cái gì đó.

Cũng nên nhắc đến bức tượng bằng sắt “Broken Obelisk” của Barnett Newman, mạnh mẽ, thăng bằng nhưng luôn luôn gây cho người ta một cảm giác bất an, ngã đổ của người đi dây.

 

Blackboard XIV 2004 100cmx100cm Mixed media on canvas

Nguyễn Trung, Blackboard XIV (2004)
100cm x 100cm, mixed media on canvas

 

SV: Cuộc triển lãm trong nước “Blackboard” của ông tại Galerie Quynh, Viet Nam năm 2004, là một sự mới mẻ đáng kể và được giới báo chí cũng như giới phê bình hội họa, họa sĩ, galleries coi là một sự bất ngờ. Đợt tranh này khác hẳn những đợt tranh trừu tượng trước của ông (những loạt tranh trừu tượng mang nặng nghệ thuật hoài niệm về kiến trúc cổ hay đúng ra là nơi con người trú ẩn, để sống, để tu hành qua nhiều thế hệ tiếp nối nhau) từ tư tưởng cho đến vật liệu, kỹ thuật. Xin ông cho biết khởi điểm nào dẫn ông đến ý niệm của loạt tranh Blackboard?

NT: Tôi đã thực hiện cuộc triển lãm này giống như người ta chạy bão ở Houston: Bắt đầu vào giờ chót, làm việc thục mạng như có ma đuổi sau lưng. Bởi vì ban đầu tôi vẫn định làm tranh theo lối đã thường làm và lấy chủ đề cho triển lãm này là “hand-print,” bắt nguồn từ lúc tôi phát hiện ra một số dấu tay của người nghệ nhân trên một bình cổ. Tôi thử ướm mấy ngón tay của mình lên thì thấy vừa khít. Điều này làm tôi rất xúc động và tưởng tượng ra cái hồn của vị tiền bối này lẩn khuất đâu đây trong xưởng vẽ của mình.

Nhưng thực hiện ý tưởng “hand-print” thì phải hao tốn thời giờ lắm vì phải qua nhiều công đoạn kỹ thuật. Cái áp lực là làm sao vẽ cho nhanh, không có kỹ thuật rườm rà mà dĩ nhiên là không được – không bao giờ được – cẩu thả.

Vậy là nảy ra trong tôi ý tưởng về “Blackboard.” Mội hồi ức về tuổi thơ, thuở còn bị ám ảnh về nỗi lo sợ phải “lên bảng,” cái bảng đen ngự trị toàn lớp học những năm tiểu học, những năm trung học lúc nào cũng lù lù như đe dọa mình. Nó đã đi sâu vào tiềm thức cho đến nay thỉnh thoảng vẫn còn nằm mơ thấy thầy giáo gọi lên bảng.

Cách thể hiện thì đã có, đó là oil-stick màu trắng vẽ lên nền vải bố sơn acrylic màu đen. Vậy là đã có bảng đen chữ trắng và tôi tha hồ ghi lại hồi ức của mình về “Blackboard.” Hẳn nhiên những hồi ức không còn nguyên vẹn mà đã bị bôi xóa gần như mất hết nhưng “đằng sau đó là những hình ảnh mang đầy tính thi ca.” Đây là lời tôi trích từ statement in trong catalog của cuộc triển lãm.

Cũng nên nhắc, oil stick là một vật liệu tôi chưa bao giờ dùng đến nhưng nhờ có nó mà tôi có thể làm việc được nhanh và chuyển biến không ngừng từ tranh này tới tranh khác. Rất may là một người bạn đã gợi ý và cung cấp cho tôi kịp thời.

 

SV: Xin ông cho biết dự án đang tiến hành và dự định trong tương lai?

NT: Chỉ có một dự án duy nhất là “làm việc, làm việc, làm việc.” Là để tự vượt lên chính mình. Ngày nào thấy không còn vượt nổi mình nữa thì sẽ thôi.

À quên, tôi còn một dự án nữa, là làm gốm. Cái nghệ thuật của đất và lửa này ám ảnh tôi từ lâu nhưng chưa thực hiện được.

 

NguyenTrung working in studio 2
Nguyễn Trung trong xưởng vẽ

 

SV: Là một họa sĩ dẫn đầu và then chốt trong nghệ thuật trừu tượng tại Việt Nam, xin ông cho biết từ bao giờ ông đã tiếp xúc với nghệ thuật trừu tượng và quyết định chuyển hướng từ figurative sang abstract?

NT: Từ những năm 60 của thế kỷ trước, tôi đã tiếp xúc với nghệ thuật trừu tượng qua một vài triển lãm quốc tế ở Saigon, như “Phòng tranh so sánh” do Pháp tổ chức, trong đó tôi lưu ý đặc biệt Hartung, một họa sĩ người Đức; như Biennal quốc tế lần I do Việt Nam tổ chức tại Saigon. Tôi đã bị lôi cuốn bởi nghệ thuật trừu tượng từ đó và tìm hiểu thêm qua sách báo. Lúc bấy giờ có nhà sách Albert Portail (sau đổi lại Xuân Thu) ở đường Tự Do, thường có những tạp chí, sách vở về nghệ thuật, đặc biệt có tờ Cimaises chuyên về nghệ thuật hiện đại do nhà văn Michel Ragon làm chủ bút. Ông ta là người bảo vệ cho phong trào trừu tượng ở Pháp, trong đó có nhóm Soulages, Zao Wou-Ki, Vieira Da Silva, Mathieu, Riopelle là nhóm của galerie Pierre Loeb. Những tên tuổi này đã gắn liền với nghệ thuật trừu tượng nước Pháp cũng như thế giới, và cũng là những tên tuổi khắc sâu trong ký ức tôi. Tôi cũng yêu thích hội họa Trung Hoa, đặc biệt các họa sĩ thiền như Wou-Ki, Thạch Đào có pháp danh là Khổ Qua Thiền Sư.

Trong quyển sách nói về “sự hình thành một nghệ thuật mới,” Michel Ragon cho là ở mỗi họa sĩ trừu tượng đều có chút đỉnh thiền. Điều đó đã là câu khai tâm cho tôi về nghệ thuật trừu tượng. Tất cả những gì đã lôi cuốn tôi hình thành trong tôi một tổng hợp cho một ước muốn mới về nghệ thuật. Tôi đã dấn bước vào con đường “trừu tượng” từ đó. Tuy nhiên, sau một thời gian thể nghiệm, tôi cảm thấy là “chưa phải nó,” cái nghệ thuật trừu tượng ấy.

Tôi trở về với figurative cho mãi tới năm 1990, khi tôi sang Paris, ở lại đó một năm để thể nghiệm con đường abstract của mình. Sau một thời gian ngắn phá vỡ cái vỏ bọc hàn lâm cứng ngắc, chuyển sang một hình thức figurative mới, mạnh mẽ và tự do hơn và cuối cùng là hoàn toàn abstract.

Sự chuyển hóa trong nghệ thuật thường có một hóa trình tuần tự, kéo dài. Trong trường hợp tôi, nó bị ngắt khúc làm hai giai đoạn. Giai đoạn đầu, trong thời thanh niên là một chuyển hóa bất thành. Đến giai đoạn sau, sau nhiều năm ấp ủ, rồi gặp môi trường thuận lợi là Paris, thì sự chuyển hóa rất nhanh và có thể nói là đã hình thành. Thì cũng giống như người ta ủ men rượu vậy.

 

SV: Và ông cảm giác thế nào về sự khác biệt (khi làm việc) giữa figurative art và abstract art?

NT: Xin lưu ý một điều, bởi vì tôi đã chuyển bước từ figurative sang abstract mà không phải vì thế mà abstract là hiện đại hơn. Figurative là một khuynh hướng nghệ thuật vẫn còn tiếp tục phát triển một cách đa dạng. Vậy thì vì sao tôi chọn abstract, vì sao nó thích hợp với tôi hơn là cái kia?

Là bởi vì với nó, tôi có thể nói lời thô mộc giản dị mà không phải bóng bẩy rườm rà; trực tiếp, mạnh mẽ mà không phải vòng vo tiểu xảo. Với nó tôi có thể đưa ra những hình ảnh sâu xa từ vô thức chứ không phải hình ảnh bên ngoài, nhiều màu sắc. Nói chung, một đàng là cái đẹp ngoại hình, có tính cách trang trí nhiều, một đàng là cái đẹp nội giới có thể chiêm nghiệm về lâu.

 

black-abstract-1-mail
Một bức trừu tượng thời kỳ đầu của Nguyễn Trung, vẽ tại Pháp

 

SV: Như vậy, đối với ông figurative art có tính cách trang trí nhiều hơn. Còn họa sĩ Francis Bacon thì ngược lại, cho rằng, “Hội họa trừu tượng từ nguyên lý cơ bản đã làm giảm nghệ thuật hội họa thành nghệ thuật trang trí, vì nó là một cách giải quyết dễ dãi. Màu sắc và vật liệu trong hội họa tự chúng đã ‘trừu tượng,’ mà một bức họa thì không chỉ đơn giản là vật liệu và màu sắc. Một tác phẩm hội họa phải là kết quả của một sự vật lộn giữa vật liệu và đề tài. Tại đó có một ‘độ căng,’ mà những bức họa trừu tượng đã làm mất đi cái phần nào ‘độ căng’ này từ lúc khởi đầu, có nghĩa là ở hội họa trừu tượng, vật liệu đã tự nó khẳng định hình thái và đường nét của nó.” Ông nghĩ thế nào về điều này, thưa ông?

NT: Tôi nghĩ Francis Bacon có lý của ông ta, nhưng chỉ đúng với bản thân ông ta, vì điều này rất thích hợp với tranh của Francis Bacon. Ông ta không thể sử dụng kỹ thuật của hội họa trừu tượng để diễn đạt mình được vì không đúng thể loại, vì Francis Bacon cần một kỹ thuật chi tiết hơn. Ăn thua người họa sĩ muốn diễn đạt cái gì, điều gì, như thế nào… Vật liệu, màu sắc và xin nhấn mạnh, cả kỹ thuật, đều là công cụ của người họa sĩ để diễn đạt mình. Có khi lúc này mình cần cái này để diễn đạt mình, nhưng lúc khác mình lại cần cái khác… Vấn đề là chọn cái gì thích hợp.

 

SV: Đã bao giờ ông có một self portrait – chân dung tự họa?

NT: Khi mới bắt đầu vẽ và cả ngay lúc này, tôi rất yêu những chân dung tự họa của Van Gogh với cái nhìn đăm đăm, khắc khoải. Ta có thể nhìn thấu được nỗi đau sâu kín trong tâm hồn ông. Tôi nghĩ dó là chân dung đẹp và “giống” nhất trong các chân dung tự họa hàng đầu của lịch sử hội họa thế giới.

Riêng phần mình, tôi luôn bị lúng túng vì câu hỏi này bởi vì tôi hầu như chưa hề vẽ chân dung chính mình và không hiểu vì sao mình đã quên bẵng mình suốt bao nhiêu năm vẽ vời như vậy. Có lần một nhà sưu tập tranh yêu cầu làm cho ông ta một chân dung tự họa để in sách, tôi đã để cho ông ta chờ một thời gian lâu và giao cho ông ta một cái chân dung chẳng ra hồn vía gì cả.

Nói chung, tôi không thích và cũng không có khả năng trong lĩnh vực này, có lẽ vì tôi hoàn toàn không ưa cái “chân dung” của mình. Đôi khi trên đường phố, bất chợt nhìn vào gương của cửa hàng, tôi đã giật mình đánh thót vì thấy cái chân dung đáng ghét của mình trong đó.

 

SV: Người Việt hải ngoại thưởng ngoạn tranh Nguyễn Trung có gì khác biệt với giới thưởng ngoạn tranh Nguyễn Trung trong nước hiện tại hay không? Họ thường chọn cùng một thể loại hay không? Có nhiều người cho rằng giới yêu tranh Nguyễn Trung ở hải ngoại có khuynh hướng chuộng tranh figurative và thường gắn liền tên tuổi của ông với thể loại tranh này. Người Việt hải ngoại thích nhìn ông như một Nguyễn Trung vào thời điểm của họ hơn là Nguyễn Trung với loạt tranh trừu tượng sau này. Có đúng như vậy không, và ông có kinh nghiệm gì về điều này?

NT: Đối với người Việt dù là ở trong nước hay ở hải ngoại, những người đã từng yêu tranh figurative của tôi đều vẫn còn giữ tình cảm với loại tranh này. Chính vì cái ơn tri ngộ này mà tôi vẫn chưa thể dứt khoát với figurative. Có một thời gian mấy năm tôi đã không còn làm tranh này nữa nhưng cũng vì cái sự tri ngộ đó mà trong tôi có sự bứt rứt, một mặc cảm phản bội khiến tôi phải trở lại với figurative, dành một nửa thời gian cho nó. Như vậy là hơi khó cho tôi vì phải chia năng lượng của mình ra làm hai.

Về nhận định của người thưởng ngoạn (trong việc chuyển hướng trừu tượng), có hai câu chuyện:

Câu chuyện thứ nhất, cách đây cũng khá lâu, thành phố Paris có tổ chức một cuộc triển lãm, và họ chọn một bức abstract của tôi để treo bên đó. Một người bạn, đã sống bên đó từ trước 1975, đã từng sưu tập tranh tôi, lên tiếng phê bình ban tổ chức vì cho rằng cái tranh đó không phải là điển hình của Nguyễn Trung. Cái đó là hơi bất công! Khi anh rời Việt Nam, tôi còn là một thanh niên, lúc anh xem bức tranh abstract thì tôi sắp thành một ông già thật sự. Vậy thì trong mấy chục năm cách biệt đó, tôi đã làm gì? Tôi đã sống và vẫn suy nghĩ, vẫn làm việc như một người khỏe mạnh!

Câu chuyện thứ hai, về một người bạn già, một nhà phân tâm học. Người bạn này cũng có sưu tập một số tranh figurative của tôi, nhưng khi đến xưởng vẽ lại thấy toàn tranh abstract. Vị này chưng hửng nhưng sau một phút suy nghĩ, bèn nói: “Tôi không thích chút nào về những tranh mới này của anh, nhưng tôi rất mừng vì anh có thay đổi, nghĩa là anh vẫn-còn-sống.” Câu này tôi ghi tạc nằm lòng và mỗi khi bị chùn bước tôi lại giở nó ra.

Đó là nói về những người ở lớp trước. Còn người Việt trẻ ở trong nước hay ngoài nước, thường hướng cái nhìn về phía abstract và đã sưu tập loại này. Điều này tôi cho là rất quan trọng, bởi vì nó rất khuyến khích sự sáng tạo và sự mạch dạn đi tìm cái mới. Nếu người nghệ sĩ được nuôi dưỡng và khuyến khích bởi chính dân tộc mình, thì nghệ thuật của dân tộc đó có nhiều cơ may phát triển hơn.

 

black-abstract-2-mail
Tranh trừu tượng Nguyễn Trung vẽ tại Pháp

 

SV: Năm nay ông 65 tuổi, ông đã ở trong thế giới hội họa hơn 45 năm, hẳn ông nhìn thấy nhiều biến đổi của hội họa thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng?

NT: Hội họa ngày nay khác rất nhiều so với hội họa ngày tôi mới bắt đầu. Người ta áp dụng rất nhiều phương tiện vào trong công việc nghệ thuật. Có thể tóm tắt: Thay vì dùng cây cọ để “vẽ cho hay, cho khéo” thì bây giờ “bất cứ phương tiện nào cũng có thể tốt để tự diễn đạt mình.” Ở Việt Nam, như ở phần trên tôi có nói, cũng đã thay đổi rất nhiều, nhất là ở giới trẻ. Vấn đề là sự thay đổi tìm tòi phải có chiều sâu, phải bằng nhu cầu bên trong hơn là hình thức bề ngoài, hơn là “cái gì cũng có với người ta.”

 

SV: Hội họa có ảnh hưởng nhiều đến đời sống riêng của ông không?

NT: Rất nhiều, rất nhiều! Hay nói cách khác chính xác hơn, hội họa chính là đời sống của tôi và ngược lại. Không có nó tôi không biết làm gì. Không có nó không biết sống bằng gì, cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, vật chất lẫn tinh thần.

SV: Xin cám ơn ông. Chúc ông đón một mùa Giáng Sinh và một năm mới thật vui tại Houston.

 

 

.

bài đã đăng của Lê Sông Văn

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)