Trang chính » Các Số Da Màu định kỳ, Da Màu số 22, Dịch Thuật, Sáng Tác, Sang Việt ngữ, Truyện ngắn Email bài này

Nhật Ký Thai Kỳ

0 bình luận ♦ 20.01.2007

Hải Ngọc chuyển ngữ


Đôi nét về tác giả:

Yoko Ogawa sinh năm 1962 tại Okayama, Nhật Bản. Bà được xem là một gương mặt độc đáo của văn học Nhật Bản đương đại. Bà đã từng được nhận giải thưởng Akutagawa- giải thưởng văn học danh giá nhất của văn học Nhật Bản vào năm 1991.

Khác với nhiều nhà văn Nhật Bản cùng thời, thay vì đem vào trong tác phẩm những náo động, cuồng nộ, bạo lực của đời sống hiện đại, Yoko Ogawa lại xây dựng nên một thế giới im lặng, dường như không trọng lượng nhưng đồng thời cũng ẩn chứa nhiều nỗi bất an. “Nhật ký thai kỳ” là một tác phẩm tiêu biểu cho cách tiếp cận hiện thực đời sống của nhà văn.

Hải Ngọc dịch

Chuyển ngữ từ bản Anh văn do Stephen Snyder dịch từ tiếng Nhật, “Pregnancy Diary”, đăng trên The New Yorker, ngày 26/12/2005.

29 tháng 12 ( Thứ Hai): Hôm nay, chị tôi đến bệnh viện M. Vì chị hầu như chưa gặp một bác sĩ nào khác ngoài bác sĩ Nikaido nên cuộc hẹn làm chị thấy căng thẳng. Chị cứ trì hoãn việc này mãi, khi thì lo lắng về chuyện chọn trang phục, lúc lại băn khoăn không biết nên nói như thế nào với bác sĩ, cho đến ngày cuối cùng trong năm phòng khám bệnh viện làm việc. Sáng hôm nay, chị vẫn còn chưa yên tâm.
“Không biết chị phải cho họ xem biểu đồ thân nhiệt của bao nhiêu tháng nhỉ?” Chị lơ đãng ngước lên khỏi bàn ăn sáng nhưng không hề có động tác gì cho thấy chị muốn đứng dậy.
“Tại sao chị không mang tất cả đi?” Tôi hỏi lại.
“Nhưng như thế thì phải mang biểu đồ của cả hai năm ư?” Chị lên giọng, đồng thời vừa khuấy chiếc thìa trong hũ sữa chua. “Hai mươi tư cái biểu đồ. Trong khi đó, chỉ có mấy ngày là liên quan đến cái bầu. Chị nghĩ mình chỉ đưa cho họ xem biểu đồ của tháng này mà thôi.”
“Vậy suốt hai năm, ngày nào chị cũng đo thân nhiệt để làm gì?”
“Chị không thể nào chịu nổi khi nghĩ rằng có một vị bác sĩ nào đó cứ mân mó những bảng biểu đồ ấy trước mắt mình, cứ như thể ông ta muốn săm soi mọi chi tiết để xem chị đã có bầu như thế nào vậy.” Chị chăm chú nhìn chỗ sữa chua dính vào thìa của mình. Những giọt sữa trở nên lờ nhờ, sánh và trắng, rồi rơi trở lại xuống hũ.
“Chị cứ quan trọng hoá vấn đề,” tôi vừa nói vừa đậy hũ sữa chua lại, đem cất vào tủ lạnh.

“Chúng chỉ là mấy cái biểu đồ thôi mà.”
Cuối cùng thì chị quyết định đem đến bác sĩ tất cả các biểu đồ nhưng việc này làm chị phải mất thời gian một chút. Tôi không hiểu sao chị tôi ngày nào cũng cẩn thận đo thân nhiệt vậy mà lại cẩu thả đối với chính những bảng biểu đồ ấy. Những tờ giấy vẽ biểu đồ, đáng ra phải được cất giữ trong phòng ngủ của chị, lại lạc sang tận giá để tạp chí hay bàn điện thoại. Thỉnh thoảng, tôi lại bắt gặp chúng khi lật giở một tờ báo hay lúc gọi điện. Bây giờ tôi mới nhận ra có một cảm giác lạ lùng khi mình tìm thấy những mẩu giấy có đường viền răng cưa này. Những lần ấy tôi thường thầm phỏng đoán: “Hẳn là chị đã đến kỳ rụng trứng” hoặc “Thân nhiệt bình quân tháng này của chị xuống thấp.”
Chị tôi chọn bệnh viện M vì những lý do tình cảm. Tôi muốn đưa chị đến một bệnh viện nào đó lớn hơn, trang thiết bị tốt hơn nhưng chị tôi đã quyết định chọn bệnh viện này. Chị bảo: “Từ hồi còn nhỏ, chị đã nghĩ rằng sau này nếu có con, nhất định chị sẽ sinh ở đó.”
Bệnh viện M là một bệnh viện phụ sản nhỏ của tư nhân ở gần nhà chúng tôi từ thời ông nội. Khi chị em tôi còn nhỏ, chúng tôi thường lén vào trong vườn bệnh viện chơi. Nhìn từ phía trước, khu nhà gỗ ba tầng của bệnh viện trông thật âm u với những bức tường rêu, một tấm biển đã mờ mất một nửa và những cửa sổ bạc hơi sương. Nhưng nếu đi từ vườn ra phía sau lại thấy khu nhà này sáng sủa, nhiều nắng. Không hiểu sao sự tương phản ấy lại cuốn hút chị em tôi.
Phía sau khu nhà bệnh viện có một bãi cỏ được chăm sóc cẩn thận mà chị em tôi đều thích lăn mình trên đó. Khi tôi lăn mình, những hình ảnh vụt thoáng của bãi cỏ xanh và bầu trời lấp loáng luân chuyển nhau trong mắt tôi rồi nhòa thành một màu ngọc lam nhạt. Trong khoảnh khắc, bầu trời, ngọn gió, mặt đất chợt nhẹ tênh và tôi có cảm giác như đang bềnh bồng trong không gian vậy. Khoảnh khắc đó, với tôi, thật đáng yêu.
Nhưng trò chơi lý thú của hai chị em tôi là khám phá xem chuyện gì đang diễn ra bên trong bệnh viện. Trèo lên những chiếc thùng vốn đựng bông gạc nay đã bỏ không, chúng tôi dòm qua cửa sổ vào phòng khám.
“Chị em mình sẽ gặp rắc rối đấy nếu như người ta bắt được,” tôi nói. Tôi luôn nhát hơn chị mình.
“Yên tâm đi, họ không làm gì đâu. Bọn mình chỉ là trẻ con thôi mà.” Chị vừa nói vừa lẳng lặng lấy gấu áo dụi vào cửa kính để lau đi những chỗ mờ do hơi thở của chúng tôi đọng lại. Áp mặt vào cửa sổ, chúng tôi có thể ngửi thấy mùi sơn trắng còn mới bên trong. Cái mùi ấy, như một chỗ nhức đau nằm sâu trong óc, vẫn làm tôi nhớ đến cái bệnh viện này sau bao nhiêu năm tháng.
Căn phòng luôn không có người vào giữa trưa, trước khi giờ khám buổi chiều bắt đầu và chúng tôi có thể ngắm nhìn nó thoải mái. Một hàng chai lọ được đặt trên một cái khay hình ô van gợi một điều gì đó rất bí ẩn. Chúng không có nắp đậy hay dán tem niêm phong, chỉ có những chiếc nút thủy tinh mà tôi vô cùng muốn được nhấc chúng ra. Những chiếc chai đã ố màu của những dung dịch chứa trong chúng: nâu, tía hoặc đỏ sẫm và khi nắng hắt qua chúng, những chất lỏng ấy dường như long lanh.
Một chiếc ống nghe, mấy cái banh và một máy đo huyết áp nằm trên bàn bác sĩ. Cái ống thanh mảnh, cong cong, cái thiết bị gắn cố định màu xỉn bạc và quả bóp hình trái lê bằng cao su của cái máy đo huyết áp khiến nó trông giống như một con côn trùng lạ lẫm làm tổ giữa những dụng cụ khác. Có một vẻ đẹp kỳ quặc ở những hàng chữ khó hiểu in trên những biểu đồ y học. Một tấm áp phích trên tường có ghi: “Tư thế cần trong trường hợp thai nhi nằm ngược”. Bức tranh vẽ một phụ nữ quỳ rạp người, ngực áp xuống sàn nhà. Chị ta mặc một chiếc váy bó chật đến nỗi tưởng như đang trần truồng. Chị ta nằm đấy, trong tấm áp phích đã ngả vàng, mắt nhìn đờ đẫn về một nơi xa xăm đâu đó. Thế rồi khi tiếng chuông từ một ngôi trường lân cận nào đó vang lên là chúng tôi biết đã đến giờ khám bệnh buổi chiều. Chúng tôi phải rời khỏi nơi này khi nghe thấy tiếng của các y tá trở về sau bữa trưa.
Đôi khi tôi nhìn thấy những người phụ nữ nhìn ra cửa sổ từ tầng ba. Họ dường như mới sinh xong. Họ mặc trên mình tấm áo choàng tắm dày cộm, tóc buộc vổng lên như đuôi ngựa. Không ai trong số họ trang điểm cả. Mấy nhánh tóc của họ lòa xòa bên thái dương và khuôn mặt của họ không một chút biểu cảm. Tôi không hiểu tại sao họ lại không thấy sung sướng hơn khi được nằm ngủ ở tầng trên của một phòng khám đầy những đồ vật thú vị như thế.
Chị tôi trở về trước giờ trưa. Tôi gặp chị ngay ở hành lang trước nhà khi đang chuẩn bị đi làm.
“Họ nói sao?”
“Chị có bầu tháng thứ hai rồi – chính xác là sáu tuần.”
“Họ có thể nói chính xác như vậy ư?”
“Có thể, khi họ xem tất cả các biểu đồ,” chị vừa nói vừa cởi áo khoác, vội vã đi qua tôi. Có vẻ như chị không thật hào hứng với cái tin này. “Bữa tối ăn gì vậy?”
“Súp hải sản,” tôi đáp. “Sò và mực ống đang rẻ mà.”
Chị đổi đề tài nhanh đến nỗi tôi quên hẳn việc phải nói lời chúc mừng chị. Nhưng rồi sau đó, tôi lại băn khoăn không biết liệu từ “chúc” có thích hợp với đứa trẻ sắp sửa ra đời – kết quả của chị và anh rể – hay không nữa. Tôi tra từ “chúc” trong từ điển: nghĩa của nó là “mong cho ai đó vui vẻ”.
“Chẳng có ý nghĩa gì lắm,” tôi vừa lẩm bẩm vừa dò ngón tay theo những hàng chữ mà bản thân chúng cũng chẳng hứa hẹn điều gì vui vẻ cả.
30 tháng 12 (Thứ Ba), 6 tuần + 1 ngày: Từ hồi còn nhỏ, tôi đã không thích ngày ba mươi tháng mười hai. Bao giờ tôi cũng có thể chịu đựng ngày ba mươi mốt bằng cách tự nhủ mình: cuối cùng thì cũng hết một năm. Nhưng ngày ba mươi, không hiểu sao, cứ luôn rối tung cả lên, không chuyện này thì chuyện khác. Làm bữa cơm truyền thống mừng năm mới, dọn dẹp nhà cửa, đi mua sắm – không việc nào tôi hoàn tất được trọn vẹn.
Khi cha mẹ tôi đau ốm rồi qua đời, người này đi ngay sau người kia thì những việc Tết nhất đối với tôi thậm chí còn sơ sài hơn. Điều này cũng không thay đổi khi anh rể đến ở cùng chúng tôi. Tuy vậy, bữa sáng hôm nay thoải mái hơn một chút so với ngày thường vì tôi không phải đến trường còn văn phòng của anh rể cũng đóng cửa nghỉ tết.
“Khi thiếu ngủ thì ngay cả ánh mặt trời mùa đông cũng làm người ta chói mắt,” anh vừa nói, mắt nheo nheo sau cặp kính, vừa từ từ hạ mình xuống ghế. Nắng từ vườn rọi vào nhà, hắt trên mặt bàn và ba đôi dép đi trong nhà của chúng tôi loang bóng dài trên sàn.
“Hôm qua anh về muộn à?” Tôi hỏi. Hôm qua anh đi liên hoan tất niên của phòng khám nha khoa nơi anh làm việc. Có lẽ tôi đã ngủ khi anh về nhà.
“Anh phải bắt chuyến tàu cuối ngày,” anh rể trả lời. Khi anh nâng tách cà phê của mình lên, một mùi ngòn ngọt thoang thoảng bay ra. Anh cho nhiều kem và đường vào cà phê của mình đến nỗi phòng bếp như có mùi của tiệm bánh ngọt ăn sáng. Tôi vẫn thường tự hỏi làm sao một người chuyên đi làm nẹp răng và răng giả cho thiên hạ lại có thể uống một thứ cà phê ngọt như vậy mà chẳng hề lo gì đến việc bị sâu răng. “Tàu cuối ngày bao giờ cũng tồi tệ hơn giờ cao điểm,” anh nói thêm. “Nó luôn chật cứng và ai cũng say khướt.” Chị tôi lấy dao xắt bơ trát lên miếng bánh mì của mình.
Kể từ buổi gặp bác sĩ phụ khoa hôm qua, việc chị có bầu giờ đây đã rõ ràng nhưng dường như chị chẳng có gì đổi khác. Bình thường, một sự việc nhỏ nhặt nhất như tiệm tóc quen của chị đóng cửa, con mèo giả của nhà hàng xóm chết, vòi dẫn nước chính bị hỏng – cũng đủ làm cho chị thấy bất an và phải chạy đến chỗ bác sĩ Nikaido.
Tôi không hiểu chị tôi đã báo cái tin ấy cho anh rể như thế nào. Tôi thật sự không hiểu họ nói gì khi không có tôi ở bên. Thực ra thì tôi chẳng hiểu gì về các cặp vợ chồng. Đối với tôi, họ như một hiện tượng nào đó ở thể khí không lý giải được – một sự vật không hình dạng, không màu sắc, khó hiểu, bị kẹt trong một chiếc cốc thí nghiệm.
“Món này nhiều hạt tiêu quá,” chị vừa cắm dĩa vào món trứng ốp lết vừa lầm bầm. Bởi chị lúc nào cũng có chuyện để kêu ca về thực phẩm nên tôi cứ vờ như không nghe thấy. Lòng đào trứng rỏ giọt xuống từ đầu dĩa của chị như một dòng máu vàng. Anh rể tôi đang ăn những lát kiwi. Tôi thì không thể chịu nổi trái kiwi – hạt của nó làm tôi liên tưởng đến những con bọ nhỏ màu đen, mà trái kiwi sáng nay lại rất chín và mềm. Những hạt mồ hôi đã tụ lại trên mặt bơ.
Rõ ràng cả hai người đều không tỏ ra lo lắng đem chuyện cái bầu ra bàn nên tôi cũng không nhắc đến nó nữa. Ngoài vườn chim đang hót. Vài gợn mây tan ra phía góc trời xa xa. Tiếng chạm bát đĩa đan xen với tiếng nhai của mọi người.
Không một ai trong chúng tôi ý thức rõ năm cũ đã sắp hết. Không có một cành thông nào để trang trí cửa, cũng không có đỗ đen hay mochi1 trong nhà. “Em nghĩ là ít nhất chúng ta nên dọn dẹp nhà cửa,” tôi nói cứ như chỉ cho riêng mình nghe mà thôi.
“Bây giờ đã có bầu, em không nên làm việc này quá sức,” anh rể vừa nhằn trái kiwi vừa quay sang chị tôi nói. Anh nói một điều hiển nhiên cứ như thể đấy là một chân lý sâu sắc.
8 tháng 1 (Thứ Năm), 7 tuần + 3 ngày: Chị tôi bắt đầu ốm nghén. Tôi không hiểu vì sao nó lại xuất hiện đột ngột như vậy. Ngay từ đầu, chị đã nói chị sẽ không bị ốm nghén, chị ghét cái tính trạng mỏi mòn ấy. Chị tin chắc những hiện tượng như ngủ nhân tạo hay mất cảm giác chẳng hạn sẽ không có ở chị. Nhưng trưa nay, khi chúng tôi đang ngồi ăn mì ống và pho mát thì bỗng nhiên, chị giơ chiếc thìa của mình lên và trân trân nhìn nó.
“Cái thìa này trông ngộ nhỉ?” chị nói. Tôi thì thấy nó hoàn toàn bình thường.
“Nó có mùi rất kỳ cục,” chị căng lỗ mũi ngửi chiếc thìa và nói.
“Kỳ cục như thế nào?”
“Chị không biết nữa… nó như cát ấy. Khi còn bé, em đã bao giờ ngã vào một hố cát chưa? Như thế đó, khô và lạo rạo.” Chị đặt lại chiếc thìa vào đĩa của mình rồi lau miệng.
“Chị ăn xong rồi à?” Tôi hỏi. Chị gật đầu, rồi vẫn cứ ngồi chống cằm bên bàn. Ấm nước bắt đầu reo trên lò. Chị nhìn tôi nhưng không nói gì nên tôi cứ tiếp tục ăn.
“Chẳng lẽ nước sốt mì không làm em nghĩ đến những loại nước trái cây giúp tiêu hoá hay sao?”
Chị thì thào. Chị cúi đầu về phía trước, nhìn tôi chằm chặp, đầu nghiêng về một bên. Tôi gõ chiếc thìa của mình vào đĩa. “Và màu của nó nữa, nhìn có giống mỡ lợn không? Cả những sợi mì cũng lạ. Chúng cứ trôi thun thút vào miệng khiến chị tưởng như mình đang ăn những khúc ruột, những cái ống nhỏ, trơn chứa đầy dịch dạ dày vậy.” Tôi cầm chiếc thìa trên tay, nhìn chị vừa nói vừa ứa nước dãi mà thấy buồn khi chị trở nên như thế này. Chị cứ nói mãi, nói mãi, cho đến khi không còn gì để nói nữa và rồi đứng dậy đi. Món mì ống đã trở thành một cái gì đó bùng nhùng, trắng và lạnh, trên đĩa chị.
28 tháng 1 (Thứ Tư), 10 tuần + 2 ngày: Tình trạng ốm nghén của chị trở nên tồi tệ hơn. Dường như chị tin rằng nó chẳng thể khá lên dần dần, cũng không biến mất hoàn toàn được và điều đó làm chị chán nản. Nài ép thế nào đi nữa, chị cũng không thể ăn được cái gì cả. Tôi gợi ý đủ các món có thể nghĩ ra được nhưng chị đều từ chối. Thậm chí, tôi còn lục tìm tất cả sách nấu ăn trong nhà và cùng chị xem chúng nhưng việc này cũng vô hiệu. Bây giờ tôi mới nhận ra ăn thật sự cũng là một việc không đơn giản.
Tuy nhiên, nếu chị không ăn gì thì ắt sẽ đau bụng vì thế cuối cùng chị cũng bảo chị cần một cái gì đó “để cho vào mồm”. (Chị không thể thốt ra được từ “ăn” nữa.) Chị quyết định chọn một cái bánh sừng bò. Bánh quế hay khoai tây cũng được nhưng một cái bánh sừng bò còn thừa lại sau bữa sáng ló ra từ giỏ bánh mì có lẽ đã lọt vào mắt chị. Chị xé chiếc bánh thành từng mẩu nhỏ, ấn vào miệng, nuốt mà không nhai. Rồi để cho trôi, chị nhấp một ngụm nhỏ nước khoáng, mặt nhăn lại khổ sở khi nuốt mẩu bánh. Chẳng giống như người ta ăn chút nào mà giống như đang thực hiện một nghi thức, nghi lễ thần bí nào đó hơn.
Anh rể tôi mang về nhà mấy bài báo mà anh nghĩ có thể giúp ích: “Làm thế nào mà tôi qua được kỳ ốm nghén” hay “Những ông chồng có thể giúp gì cho các bà vợ đang ốm nghén”. Thật khó tin nhưng cái bầu dường như ảnh hưởng đến cả chuyện ăn uống của anh nữa. Ở bàn ăn, anh chỉ ngồi gẩy thức ăn, hầu như chẳng ăn gì cả. “Anh không thể nào ăn được khi chị đang có cảm giác tiêu cực như thế,”anh thở dài bảo. Có lẽ chị nghĩ anh làm như vậy chỉ cốt để chứng tỏ sự tử tế của mình nhưng tôi để ý thấy lúc xoa lưng cho chị khi chị đang cố nuốt một mẩu bánh, mặt của anh nhợt nhạt khủng khiếp và một tay anh phải bụm miệng lại. Họ ôm lấy nhau rũ rượi như một đôi chim bị thương rồi dìu nhau về phòng ngủ đến tận sáng hôm sau mới thấy mặt.
Tôi thương hại cho anh rể vì anh chẳng có lý do gì để cảm thấy ốm đau như vậy và tức giận bởi những tiếng thở dài, rên rẩm thì thầm của anh. Tự nhiên tôi nghĩ mình sẽ yêu người đàn ông nào có thể chén ngon lành cả một bữa tối kiểu Pháp đủ ba món ngay cả khi anh ta biết rõ tôi đang nằm liệt giường vì ốm nghén.
6 tháng 2 (Thứ Sáu), 11 tuần + 4 ngày: Bây giờ tôi ăn một mình. Tôi cứ vừa nhẩn nha ăn vừa ngắm những luống hoa hay một chiếc xẻng bị bỏ quên trong vườn hay những cụm mây nhởn nhơ bay qua. Tôi thích những khoảnh khắc yên tĩnh như thế, thậm chí thỉnh thoảng, tôi còn uống bia hay hút thuốc trong bữa trưa, điều mà chị tôi vốn rất ghét. Tôi không cô đơn. Ăn một mình có lẽ hợp với tôi. Nhưng sáng nay, khi tôi đang rán thịt muối và trứng thì chị tôi hớt hải chạy xuống cầu thang.
“Mùi gì kinh khủng vậy?” Chị vừa giật tóc mình vừa gào lên. “Chẳng nhẽ em không thể không làm một việc gì đó được sao?” Dường như chị sắp bật khóc. Bàn chân trần lộ ra dưới chiếc quần pijama của chị trông thật lạnh giá và trong suốt tựa thủy tinh. Chị tắt bếp mà cứ như thể muốn giật phăng cái núm điều chỉnh ra khỏi bếp lò.
“Chỉ là thịt muối và trứng thôi mà chị,” tôi nói nhỏ.
“Thế thì tại sao cả nhà này lại lợm cái mùi ghê tởm ấy? Nào bơ, nào mỡ, rồi lại trứng, lại thịt lợn – trời ơi, tôi ngộp thở mất!” Chị gục đầu xuống bàn nức nở. Tôi không biết phải làm gì, đành bật quạt thông gió lên và mở cửa sổ ra.
Lần này chị khóc rất thê thiết. Nhìn chị khóc, có cảm giác như đang xem một cảnh trong một vở kịch vậy. Tóc chị xoà xuống mặt, hai bờ vai cứ run lên. Tôi vỗ vỗ lưng chị để an ủi.
“Em phải làm cái gì đó đi!” Chị nói trong tiếng nghẹn ngào. “Khi tỉnh dậy, cả cơ thể chị như bị ám nhiễm bởi cái mùi khắm lặm đó. Nó ở trong miệng chị, trong phổi chị. Dường như nó xâm chiếm toàn bộ cơ thể bên trong chị.”
“Em xin lỗi,” tôi lí nhí. “Em sẽ cẩn thận hơn.”
“Mà không chỉ thịt muối và trứng thôi đâu. Cả chảo rán, bát đĩa, rồi xà bông trong phòng tắm, màn cửa trong buồng ngủ – tất cả đều dậy mùi. Nó lan khắp cái nhà này như một con a míp khổng lồ ngấu nghiến hết tất cả các mùi khác, cứ thế, cứ thế mãi.” Chị ngồi đó sùi sụt, khuôn mặt đẫm nước tì trên bàn còn tôi thì vẫn chỉ biết đứng đấy, đặt tay lên lưng chị, quan sát những ô kẻ ca rô trên bộ pijama của chị. Tiếng mô tơ của quạt thông gió nghe to hơn bình thường.
“Em biết, em biết rồi,” tôi thì thầm. Tôi hít một hơi thở sâu, nhưng chẳng ngửi thấy gì cả. Vẫn là phòng bếp buổi sáng đấy thôi. Những chiếc tách cà phê được xếp ngăn nắp trong tủ ly. Những chiếc khăn lau bát trắng phơi trên giá. Một mảng trời xanh lạnh lẽo hiện qua cửa sổ.
Tôi không biết chị đã khóc trong bao lâu. Có thể chỉ mấy phút thôi nhưng dường như có cảm giác chị đã khóc lâu hơn thế. Nhưng dù thế nào đi nữa thì chị cũng đã khóc cho đến khi không thể khóc được nữa. Rồi chị hắt một hơi thở dài, chậm rãi và ngước nhìn tôi. Hai má và mi mắt chị đầm đìa nhưng nét mặt chị lại bình thản.
“Từ giờ, em sẽ không sử dụng phòng bếp khi chị ở đây,” tôi nói. Chị gật đầu. Thịt muối và trứng của tôi đã trở nên lạnh tanh, nằm yên trong chảo rán.
10 tháng 2 (Thứ Ba), 12 tuần +1 ngày: Đã mười hai tuần rồi nhưng tình trạng ốm nghén của chị vẫn tồi tệ như trước. Nó dính chặt lấy chị như một chiếc áo cánh ướt nhẹp. Đó có thể là lý do khiến hôm nay, chị đến chỗ bác sĩ Nikaido. Thần kinh, hoóc môn, cảm xúc của chị – dường như tất cả đều có vấn đề không ổn. Như mọi lần trước khi đến chỗ bác sĩ, chị lại bỏ hàng giờ để nghĩ xem nên mặc gì. Chị trải hết áo choàng, váy ngắn, áo len, khăn quàng lên trên giường và ngắm nhìn chúng kỹ lưỡng. Chị cũng mất một hồi lâu để trang điểm. Tôi cứ lo tất cả sự cầu kỳ thái quá này của chị sẽ làm cho anh rể nổi ghen mất. Ốm nghén làm cho hông chị thắt lại, gò má hơi hóp đi, răng như đều hơn; trông chị còn xinh hơn trước. Người ngoài khó mà đoán được là chị đang mang bầu.
Tôi đã từng gặp bác sĩ Nikaido một lần, khi ông ta đưa chị tôi về nhà vào một hôm trời bão. Đó là một người đàn ông trung niên, khuôn mặt không có điểm gì đặc biệt và ông ta chẳng để lại trong tôi một ấn tượng nào cả. Thật sự tôi tuyệt nhiên không thể nhớ nổi một đặc điểm nào ở ông, chẳng hạn như dái tai dày hay những ngón tay cứng cáp. Ông ta đứng yên lặng sau lưng chị tôi, mắt cúi xuống. Có thể là lúc ấy vai và tóc ông đều sũng nước mưa nên trông ông rất buồn.
Tôi không biết phương pháp điều trị của ông là gì; chị tôi có nói đến những bài kiểm tra tâm lý và loại thuốc thang nào đó. Từ hồi học trung học, gặp chuyện gì, chị cũng tìm đến ông, tính đến giờ đã hơn mười năm, không gián đoạn nhưng tôi không hiểu liệu chị có thật sự khá hơn. Những vấn đề về cảm xúc ở chị có lẽ chưa bao giờ yên ổn cả, chúng như cụm rong biển lênh đênh khắp đại dương, chưa bao giờ thấy một bến bờ nào an toàn để dạt vào. Tuy nhiên, chị bảo rằng khi ở văn phòng bác sĩ, chị thấy tốt hơn nhiều.
“Giống như khi người ta gội đầu cho mình ở tiệm vậy,” chị nói. “Có cảm giác mình được ai đó chăm sóc – thật tuyệt vời.” Chị khoan khoái lim dim mắt, mơ màng nghĩ đến ông bác sĩ.
Nhưng tôi thì thấy thật khó có thể tin bác sĩ Nikaido là một bác sĩ tâm lý giỏi. Dáng ông đứng lặng bên cửa trong cái đêm trời nổi bão đó khiến ông trông giống một bệnh nhân sợ hãi hơn là một bác sĩ.
Mặt trời đã lặn và mặt trăng dát vàng đã nhô lên trên nền trời tối nhưng chị tôi vẫn chưa về nhà. “Đáng ra cô ấy không nên ra ngoài khi trời lạnh như thế này,” anh rể than thở. Khi một chiếc taxi đỗ ngay trước cổng nhà, anh vội chạy ra đón chị. Mắt chị long lanh khi cởi khăn quàng ra và chị có vẻ như đã bình tĩnh hơn nhiều so với buổi sáng. Song cho dù đến bác sĩ Nikaido thường xuyên, tình trạng ốm nghén của chị vẫn tệ như trước.
1 tháng 3 (Chủ Nhật), 14 tuần + 6 ngày: Bỗng tôi nhận ra mình đã chẳng nghĩ gì đến đứa bé cả. Tôi nghĩ đáng lẽ mình phải tò mò xem nó là con trai hay con gái, anh chị tôi sẽ đặt tên cho nó là gì, nên mua loại quần áo trẻ nào. Tôi hình dung người ta thường thích nghĩ đến những chuyện như vậy. Thế nhưng chị tôi và anh rể không bao giờ nói về đứa bé trước mặt tôi. Họ xử sự như thể chẳng có mối liên hệ nào giữa cái bầu với một hài nhi, trên thực tế, đang nằm trong bụng chị. Điều đó có lẽ lý giải vì sao đứa bé ấy không tồn tại một cách cụ thể đối với tôi.
Lúc này, tôi dùng từ “nhiễm sắc thể” để nhắc mình nhớ có một đứa trẻ thật sự đang nằm ở đó. Từ “nhiễm sắc thể” giúp cho tôi có một ý niệm nào đó về hình thức của nó. Tôi đã một lần nhìn thấy hình ảnh về các nhiễm sắc thể trong một tạp chí khoa học. Chúng trông giống như những đôi kén bướm đang xếp hàng. Thân chúng thuôn thuôn, kích cỡ và hình dạng chỉ vừa đủ để có thể lấy ngón tay bấu. Những cặp nhiễm sắc thể này đều khác nhau: có cặp cong cong ở đầu như chiếc ba toong, lại có cặp thẳng đuột và song song, còn có cặp thì quấn vào nhau như một cặp song sinh dính liền thân. Tôi gạt đi trong đầu mình hình ảnh những cặp kén song sinh khi nghĩ đến đứa con của chị.
14 tháng 3 (Thứ Bảy), 16 tuần + 5 ngày: Trông chị không giống người có bầu một chút nào, mặc dù chị đã sang tháng thứ năm. Từ hàng tuần nay, chị chẳng dùng gì ngoài bánh sừng bò cùng nước khoáng và chị đã sụt cân khá nhiều. Ngoài những lần đến bác sĩ Nikaido, cả ngày chị chỉ nằm trên giường như thể đang ốm nặng lắm.
Điều duy nhất mà tôi có thể làm cho chị là tránh tạo ra bất cứ một mùi gì vì thế tôi đã thay tất cả xà bông đang có trong nhà bằng một loại không có hương. Tôi trút tất cả ớt bột, húng tây, xô thơm trên giá để gia vị vào trong một cái hộp thiếc. Tôi mang tất cả đồ trang điểm từ phòng chị sang phòng mình. Và khi chị bắt đầu phàn nàn về mùi của kem đánh răng thì anh rể đi mua về một cái vòi sục răng. Tất nhiên, tôi cố gắng không nấu nướng gì khi chị ở gần. Nhưng nếu cần thiết phải làm một cái gì đó thì tôi mang nồi cơm, lò vi ba hay máy nghiền cà phê ra ngoài vườn và trải một tấm chiếu xuống đất.
Thật thanh thản khi ăn ngoài trời một mình như thế này, vừa ăn tôi vừa ngước nhìn trời. Thời gian này những buổi tối đã trở nên ấm hơn vì mùa xuân sắp về, không khí cũng đã dịu lại. Tay và chân tôi do tì vào chiếu nên tê đau một chút nhưng mọi thứ khác đều thú vị; bụi bách nhật hồng, hàng gạch viền quanh những luống hoa, những vì sao nhấp nhánh – tất cả đều sắc nét, trong sáng. Ngoại trừ tiếng chó sủa phía xa xa, buổi tối hoàn toàn thanh tĩnh.
Tôi cắm nồi cơm vào một ổ điện nối thêm được kéo ra từ bếp, chẳng mấy chốc, hơi nước đã bốc lên qua lỗ thông hơi và tan vào bóng tối. Một gói nhỏ thịt hầm ăn liền đang chín dần trong lò vi sóng. Thi thoảng, một làn gió nhẹ lướt qua, lay động cây lá, cuốn theo hơi nước bay đi.
Ở ngoài vườn, tôi ăn chậm hơn. Chén, bát bày trên chiếu được tôi xếp ở những góc hơi khác nhau. Tôi rưới nước hầm, cẩn thận để không bị sánh ra ngoài, tự dưng thấy mình như đang chơi đồ hàng vậy. Một ánh sáng mờ mờ được thắp lên bên cửa sổ của phòng chị trên tầng hai. Tôi nghĩ giờ này chắc chị đang cuộn mình trên giường trong sự phủ vây của tất cả những thứ mùi này. Và rồi, tôi há to miệng như muốn cắn cả bóng tối cùng với miếng thịt hầm.
31 tháng 3 (Thứ Ba), 19 tuần + 1 ngày: Hôm nay, tôi dậy sớm vì siêu thị nơi tôi phải đến theo phân công của chỗ làm thêm cách nhà khá xa. Trời đầy sương đến nỗi khi đến nhà ga thì cả hai mí mắt tôi đều lạnh và ướt nhèm.
Công việc này phù hợp với tôi vì mỗi lần nhận nhiệm vụ, tôi lại được sếp điều đến một siêu thị ở một khu vực không mấy quen thuộc trong thành phố và chưa bao giờ tôi phải đến một siêu thị nào tới hai lần. Siêu thị thường được xây trên một khoanh đất nhỏ nằm trước một nhà ga, có vạch sang đường dành cho người đi bộ, có chỗ để xe đạp và một bến xe buýt gần đó. Nhìn người người đi vào cửa hàng, tôi có cảm tưởng như mình đang trong một chuyến tham quan nào vậy.
Ở lối vào dành cho người làm trong siêu thị, tôi chìa thẻ nhân viên của nơi làm thêm ra và viên bảo vệ gật đầu khó chịu..Siêu thị này trông cũng chán khi nhìn ở phía sau với những chiếc hộp, những mảnh vải nhựa ẩm ướt và mấy cọng rau vương vãi trên sàn nhà. Đèn huỳnh quang thì sáng lờ mờ. Tôi lang thang trong quầy hàng với chiếc túi đựng đầy đồ nghề, tìm một vị trí tốt nhất để thực hiện công việc của mình. Ngày hôm nay, tôi chọn vị trí ở giữa quầy bán thịt và gian hàng đông lạnh.
Đầu tiên, tôi chất mấy cái thùng bỏ không lấy từ nhà kho lên để dựng một cái bệ. Sau đó, tôi trải lên nó một tấm khăn trải bàn in hoa và bày ra một cái đĩa. Tôi đặt bánh quy lên đĩa rồi lấy một cái máy đánh kem bằng điện từ trong túi ra và bắt đầu đánh kem.
Cửa hàng vừa mới tân trang nên sàn nhà sạch bóng, mọi thứ dường như đều lấp loá. Tôi chấm chỗ kem vừa đánh lên từng chiếc bánh quy và mời khách hàng khi họ đi ngang qua. Tôi cứ phải luôn miệng nói đi nói lại mấy câu chào hàng chính xác y như những gì được in trong sách hướng dẫn của nơi làm thêm: “Xin mời quý khách nếm thử. Hàng mới ra hôm nay. Còn gì xứng hơn với chiếc bánh yêu thích mà quý khách tự làm ở nhà?” Hiếm khi tôi nói thêm một cái gì khác.
Đủ loại người đi qua chỗ tôi đang đứng – một quý bà đi xăng đan, một chàng thanh niên mặc đồ thể thao, một phụ nữ Philipin với mái tóc quăn. Một vài người lấy một chiếc bánh quy tôi bày trên đĩa và ăn. Có người đi qua nhìn với vẻ nghi ngờ. Lại có người lấy một hộp kem cho vào túi mình mà chẳng nói năng gì. Tôi đều mỉm cười với tất cả. Tiền lương của tôi không liên quan đến số lượng hộp kem mà tôi bán được, do đó, tỏ ra niềm nở với mọi người có lẽ là việc dễ dàng nhất.
Những người đi mua sắm đi qua tôi, trên tay là những chiếc giỏ mua hàng, cứ như thể tất cả đang bập bềnh theo một dòng suối hàng hoá. Bỗng nhiên tôi nhận ra gần như mọi thứ ở đây đều có thể ăn được và điều ấy có vẻ thật hiểm độc. Có một nỗi bất an nào đó khi thấy bao nhiêu con người tụ lại một nơi để tìm kiếm thực phẩm. Và rồi tôi nhớ đến chị mình, nhớ đến ánh mắt buồn bã của chị khi nhìn chằm chằm vào một mẩu bánh ngọt nhỏ xíu, nhớ đến hình ảnh chị muốn bật khóc khi cố nuốt và những vụn bánh trắng vung vãi lung tung trên bàn.
16 tháng 4 (Thứ Năm), 21 tuần + 3 ngày: Hôm nay, lần đầu tiên, chị tôi mặc váy bầu. Bụng của chị trông có vẻ lớn hơn nhưng khi chạm vào đó, tôi lại thấy nó chẳng đổi thay gì hết. Tôi thấy khó có thể tin có một sự sống ở dưới tay mình. Chắc chị phải mất một thời gian khó khăn để quen với chiếc váy. Chị cứ ngồi nghịch vơ vẩn mãi với sợi dây thắt lưng.
Nhưng những cơn ốm nghén của chị đã biến mất, cũng đột ngột như khi nó phát bệnh. Từ lúc những cơn buồn nôn của chị bắt đầu xuất hiện, chị đã hoàn toàn tránh xa phòng bếp, vì thế tôi rất bối rối khi thấy chị lại đứng dựa vào bàn làm bếp sau khi tiễn anh rể đi làm sáng nay.
Bởi chúng tôi không nấu nướng gì nên phòng bếp sạch bong. Tất cả đồ làm bếp đã được cất đi, bàn làm bếp sạch sẽ, khô ráo, máy rửa bát để không. Căn phòng lạnh và trang nghiêm như một phòng trưng bày. Chị nhìn quanh một lát rồi ngồi xuống bên bàn ăn. Bình thường thế nào trên bàn cũng ngổn ngang chai lọ mà chúng tôi đã quên cất đi nhưng hôm nay thì chẳng có cái gì ở đó cả. Chị ngước nhìn tôi như muốn nói điều gì. Đường diềm của chiếc váy luấn quấn gót chân chị.
“Chị có muốn một cái bánh sừng bò không?” Tôi hỏi một cách hết sức thận trọng.
“Làm ơn đừng thốt ra cái từ đáng sợ ấy,” chị nói. Tôi gật đầu ngoan ngoãn. “Nhưng chị muốn một cái gì đó khác,” chị nói tiếp, gần như là thì thào.
“Được thôi,” tôi nói rồi vội chạy đến tủ lạnh, chợt nhận ra lần đầu tiên sau bao nhiêu ngày trời, chị tôi mới tỏ ra có chút hứng thú về chuyện ăn uống. Nhưng hoàn toàn không có gì trong tủ, chỉ có một ánh sáng trơ trọi soi rọi sự trống rỗng mà thôi. Tôi đóng cửa tủ lại, thở dài rồi đến chạn tìm, nhưng ở đó cũng không có gì nốt.
“Em không có cái gì sao?” Chị nói với giọng lo lắng.
“Để em xem nào,” tôi vừa nói vừa lục lọi hết các túi, các hộp, các bình. “Có một chút bột làm thạch, nửa gói bột mì, mấy cái nấm khô, phẩm đỏ, men bia, va ni còn thừa…” Tôi nhìn thấy hai cái bánh sừng bò còn sót nhưng nhanh chóng để chúng lại.
“Nhưng chị muốn ăn một cái gì đấy,” chị nói như thể đưa ra một quyết định tức thì.
“Từ từ đã. Chắc phải có thứ gì quanh đây chứ!” Tôi lục lại chạn một lần nữa, từng ngăn một. Ở tận dưới đáy, tôi tìm thấy một ít gạo mà một lần chúng tôi đã mua về để làm bánh. Nhìn vào đát trên hộp thì thấy chỗ gạo này đã để được hơn hai năm rồi và giờ chúng đã khô khốc như nhãn cầu của xác ướp vậy. “Cái này thì thế nào?” Tôi đẩy cái túi về phía chị hỏi. Chị gật đầu.
Nhìn chị ăn một thứ cứng ngắc như vậy mà nét mặt vẫn ngời lên thỏa mãn thấy thật lạ lùng. Răng hàm của chị đảo liên tục, chị vốc hết nắm này đến nắm khác từ túi ra. Dường như toàn bộ tâm trí và cơ thể chị dồn hết vào mỗi việc ăn. Khi ăn đến những hạt gạo cuối cùng, chị nhìn chúng nằm trong lòng tay giây lát, ngắm nghía nó một cách trìu mến trước khi chầm chậm đưa nó vào miệng. Đến lúc ấy, tôi hiểu rằng chị đã qua kỳ ốm nghén.
1 tháng 5 (Thứ Sáu), 23 tuần + 4 ngày: Mười ngày qua, chị tôi đã lấy lại gần năm ký mà chị đã mất trong suốt 14 tuần ốm nghén. Giờ thì lúc nào chị cũng có một cái gì ăn được trong tay khi không ngủ. Nếu không ngồi ở bàn ăn thì hẳn lúc ấy, chị đang cầm một túi bánh ngọt trên tay hay đang đi tìm một cái mở đồ hộp hay mò mẫm ngăn tủ lạnh. Cứ như thể toàn bộ sự sống của chị giờ đây chỉ còn là việc ăn mà thôi. Lúc nào chị cũng ăn, ăn như phản xạ, ăn như thở. Mắt chị trong veo và vô cảm, đôi mắt như bị dán chặt vào một nơi xa xăm nào đó. Cơ miệng của chị cử động rất khỏe như bắp đùi của vận động viên đang chạy nước rút vậy. Nhưng với tôi thì hầu như không có gì thay đổi. Cũng như khi chị ốm, tất cả những gì tôi có thể làm chỉ là ngồi yên và quan sát.
28 tháng 3 (Thứ Năm), 27 tuần + 3 ngày: Chị càng ăn nhiều thì bụng chị lại càng lớn. Nó phồng căng lên ngay từ dưới ngực đến tận phần bụng dưới. Khi để tôi chạm vào nó, tôi giật mình vì thấy nó cứng đến vậy. Và nó không hoàn toàn cân đối; nó hơi lệch về một bên. Cả điều này nữa cũng đáng ngạc nhiên.
“Giờ đang là thời điểm mà các mí mắt bắt đầu tách ra,” chị bảo tôi. “Nếu bào thai này là con trai thì cơ quan sinh dục ngoài của nó đang bắt đầu hạ xuống từ khoang bụng.” Giọng của chị khi miêu tả đứa bé thật lạnh. Và có cái gì đó không ổn trong những từ mà chị dùng – “bào thai”, “cơ quan sinh dục ngoài”, “khoang bụng” – nó có cái gì đó không thích hợp lắm với một bà mẹ đang đợi đến kỳ sinh nở. Nhìn bụng chị, tôi băn khoăn không biết liệu những nhiễm sắc thể trong đó có bình thường hay không, liệu chúng có ngọ nguậy ở đâu đó bên trong chị không.
Có một sự cố nhỏ xảy ra tại siêu thị nơi tôi làm việc hôm nay. Một cậu nhân viên nhà kho trượt chân bởi một cọng rau diếp và làm đổ cả một xe đầy trứng. Việc xảy ra ngay chỗ tôi đang đứng chào hàng nên tôi thấy rất rõ. Vỏ trứng vỡ và lòng trứng vàng nhớp nháp dây ra khắp sàn nhà. Dấu giày vải của cậu nhân viên còn hằn in trên lá rau diếp. Mấy hộp trứng đổ xuống chỗ bày hoa quả, làm cho những trái táo, trái dưa và chuối lấm lem lòng trứng trắng.
Sau sự cố ấy, người quản lý siêu thị cho tôi một túi bưởi lớn mà ông bảo không thể bán đươc nữa. Tôi hớn hở mang những trái bưởi ấy về nhà vì mấy ngày này, nhà tôi dường như lúc nào cũng không đủ thức ăn. Khi trút túi bưởi ra bàn, tôi ngửi thấy chúng hơi có mùi trứng. Đó là những trái bưởi vàng to được nhập từ Mỹ và tôi quyết định chế biến nó thành mứt.
Bổ những quả bưởi này, lấy phần ruột của nó ra là cả một việc nặng nhọc. Chị và anh rể tôi đã đi ra ngoài ăn đồ Trung Hoa. Đêm xuống, căn nhà hoàn toàn yên tĩnh, chỉ có tiếng dao thỉnh thoảng chạm vào nồi, tiếng một trái bưởi lăn trên bàn hay tiếng ho khẽ của tôi. Ngón tay của tôi dấp dính nước từ trái bưởi. Ánh sáng trong phòng bếp soi rõ cả hàng hạt trong múi bưởi. Những trái bưởi thậm chí trông còn bóng sáng hơn khi lớp đường tôi rắc lên chúng tan đi. Tôi lần lượt cho những tép bưởi xinh xinh hình trăng lưỡi liềm vào trong nồi.
Lớp vỏ dày nằm lăn lóc trên bàn không hiểu sao có cái gì đó rất hài hước. Tôi bỏ lớp cùi đi, xắt vỏ thành những miếng nhỏ trước khi cho vào nồi. Nước bưởi vàng phọt ra khắp nơi, bắn lên lưỡi dao, lên bàn thái thức ăn và vào tay tôi. Cả vỏ bưởi cũng có những đường vân gọn gàng, đều đặn như màng da của con người khi được quan sát dưới kính hiển vi.
Cuối cùng, tôi bật bếp lò lên và ngồi xuống nghỉ ngơi. Tiếng của nồi mứt bưởi sắp chín như bị cuốn đi, chìm vào đêm. Hơi nước chua từ nồi dâng lên. Nhìn trái bưởi đang tan dần, bỗng dưng tôi lại nhớ đến một cuộc hội thảo mà mấy đứa bạn kéo tôi đến dự vài tháng trước. Tên của chương trình hội thảo là: “Nạn ô nhiễm: Trái Đất của chúng ta; Cơ thể của chúng ta.” Không có nhiều người đến dự nhưng những người có mặt ở đây có vẻ là một nhóm bạn thân. Là người bên ngoài, tôi chọn một cái bàn ở góc phòng ngồi xuống và nhìn những hàng dương trong khuôn viên trường qua cửa sổ.
Một phụ nữ gầy gò đeo một cặp kính kiểu cũ thuyết trình về mưa axit rồi sau đó, một vài câu hỏi hóc búa được nêu lên. Tôi vờ như đang tập trung nghe nhưng tay thì sốt ruột lật qua lật lại cuốn sách nhỏ mà người ta đưa cho mình ở lối vào phòng họp. Ở trang đầu tiên có hình một trái bưởi Mỹ với một lời ghi chú được in đậm: “Hãy cảnh giác với trái cây nhập khẩu. Chất chống nấm P.W.H có chứa hàm lượng độc tố gây ung thư cao đã cho thấy có thể hủy hoại nhiễm sắc thể của người!” Dòng chữ ấy lúc này lại hiện lên trong đầu tôi khi đang ngồi trong phòng bếp này.
Múi và vỏ bưởi đã tan thành một chất lỏng hiền hòa điểm xuyết những sợi thạch. Tôi vừa tắt bếp lò thì chị tôi và anh rể về đến nhà. Chị đi thẳng vào bếp.
“Mùi gì lạ thế?” chị hỏi rồi ngó vào trong nồi. “Chà! Mứt bưởi – tuyệt vời quá!” Chị không nói gì tiếp nữa trước khi tìm thấy một chiếc thìa và xúc lên một thìa mứt còn nóng. Vẫn giữ chặt ví trong tay, chị tôi, trong bộ váy bầu mới và đôi khuyên đẹp nhất, cứ thế đứng đưa thìa vào mồm. Anh rể đứng ở cửa nhìn chị.
Chị ăn hết thìa này đến thìa khác. Cái bụng căng vổng lên khiến chị trông có vẻ ngạo nghễ khi đứng bên bếp lò, nuốt từng giọt nước mứt nhơn nhớt xuống cổ họng. Khi nhìn chỗ nước mứt cuối cùng trong còn lại hơi sóng sánh ở đáy nồi, tôi không hiểu liệu cái chất P.W.H ấy có thật sự hủy hoại các nhiễm sắc thể?
15 tháng 6 (Thứ Hai),30 tuần tròn: Gió mùa về. Hầu như ngày nào trời cũng mưa. Không gian sầm sì và ảm đạm khiến chúng tôi phải bật đèn suốt cả ngày. Tiếng mưa cứ rả rích hoài bên tai tôi và trời lại lạnh đến nỗi tôi bắt đầu hồ nghi không biết liệu mùa hè rồi có đến?
Nhưng bệnh thèm ăn của chị tôi thì chẳng thay đổi gì cả và mỡ đã bắt đầu tích lại ở má, ở cổ, rồi cả ở ngón tay và gót chân của chị nữa. Lớp mỡ dày, mềm.
Và tôi vẫn tiếp tục làm mứt. Bưởi chất đống khắp phòng bếp – trong giỏ trái cây, trên tủ lạnh, gần giá gia vị. Tôi gọt bưởi, lấy phần ruột, rắc đường lên, rồi xào nhỏ lửa. Thế rồi, trước khi tôi lấy mứt đổ vào bát thì chị tôi đã ăn rồi. Chị ngồi ở bàn, ẵm cái nồi trong tay và làm việc với cái thìa. Chị chẳng buồn phết nó lên bánh mì hay cái gì khác nữa. Nhìn chiếc thìa của chị cứ đưa lên đưa xuống, nhìn miệng chị nhai, có lẽ sẽ có người nghĩ hẳn là chị đang ăn món gì đó ngon lành, bổ dưỡng lắm, như cà ri hay cơm chẳng hạn. Thật là một cách ăn mứt kỳ quặc.
Mùi chua của trái bưởi hoà với mùi mưa. Chị dường như chẳng để ý gì tôi nhưng tôi thì vẫn cứ ngồi quan sát chị ăn. “Chị không sợ tức bụng sao nếu ăn nhiều như thế?” Tôi hỏi nhỏ. “Chị vẫn ăn chưa đủ à?” Vẫn không có câu trả lời. Có lẽ giọng nói của tôi đã bị nhấn chìm bởi tiếng mứt đang tan trong miệng chị hay tiếng gõ nhịp của mưa. Khi liếm hết thìa mứt cuối cùng, chị liếc nhìn tôi với một ánh mắt mơ màng.
“Còn nữa không em?” Chị hỏi.
“Ngày mai em sẽ làm thêm,” tôi đáp với một giọng đều đều, vô âm sắc. Rồi sau đó, khi đã dùng hết số bưởi có trong nhà, tôi lại đến siêu thị nơi mình đang làm việc mua về một túi mới. Lần nào tôi cũng hỏi người bán hàng ở gian hoa quả xem đây có phải là bưởi nhập từ Mỹ không để cho chắc.
2 tháng 7 (Thứ Năm), 32 tuần + 3 ngày: Đã gần chín tháng rồi. Hôm nay, chị tôi có vẻ hơi buồn khi từ bệnh viện M về. Có lẽ người ta đã cảnh báo chị về việc để lên cân quá nhiều.
“Chị không hiểu tại sao ống sinh lại có thể tích mỡ được nhỉ,” chị nói. “Người ta bảo rằng phụ nữ lên cân quá nhiều sẽ sinh khó.” Chị tỏ ra bực bội, lấy ra cuốn sổ mà chị dùng để theo dõi thai. Tôi có thể nhìn thấy một dòng chữ ai đó đã viết bằng mực đỏ trên một trang giấy: “Giới hạn trọng lượng của cơ thể.” “Người ta bảo chị chỉ nên tăng khoảng 10 ký tính đến tháng cuối cùng khi mang bầu. Không nghi ngờ gì nữa, chị có chuyện rắc rối rồi.” Chị luồn tay vào tóc và thở dài. Chị đã lên gần hai mươi ký.
“Em không nghĩ là chị không thể làm được gì”, tôi liếc nhìn những ngón tay múp míp của chị khẽ nói khi đang đi vào bếp làm thêm mứt. Giờ thì đối với tôi, làm mứt bưởi, (gạt đi những ý nghĩ thật sự của tôi về việc này), đã trở thành một cái gì đó gần như là thói quen. Tôi làm mứt và chị ăn mứt, dễ dàng và tự nhiên như việc chải đầu khi thức dậy vào buổi sáng. “Chị thật sự có sợ bị sinh khó không?” Tôi hỏi nhưng không ngước lên khỏi bàn làm thức ăn.
“Dĩ nhiên,” giọng của chị nghe mỏng manh và yếu ớt. “Mấy ngày qua chị đã nghĩ rất nhiều về sự đau đớn – chị đã cố hình dung ra sự đau đớn khủng khiếp nhất mà mình đã từng cảm nhận được, không biết đau đẻ giống đau ung thư giai đoạn cuối hơn hay là giống như khi người ta bị cắt bỏ cả hai chân? Đại loại những thứ như thế đấy. Nhưng thật vô cùng khó để cụ thể hóa được nỗi đau ấy và chẳng vui vẻ gì khi cố hình dung điều đó.”
“Em có thể hiểu,” tôi vừa nói vừa gọt bưởi. Chị nắm chặt cuốn sổ trong tay. Hình đứa bé trên trang bìa trông méo mó; dường như nó đang khóc.
“Nhưng điều đáng sợ hơn là nghĩ đến việc phải đón đứa bé này,” chị nói. Chị đưa mắt nhìn xuống bụng. “Chị không thể tin nổi cái vật nằm trong này thật sự là con của mình. Điều đó dường như vẫn còn mơ hồ và trừu tượng. Nhưng chị không biết làm thế nào để thoát được điều đó. Buổi sáng, khi chị mới thức dậy, luôn có một khoảnh khắc mà chị tin chắc rằng tất cả chỉ là giấc mơ – những cơn ốm nghén, bệnh viện, cái bụng này, tất cả mọi thứ. Khoảnh khắc ấy cho chị một cảm giác tự do kỳ diệu. Nhưng rồi khi nhìn lại mình, chị biết rằng nó là hiện thực. Chị buồn lắm, và chị nhận ra điều làm chị sợ hãi nhất chính là viễn cảnh khi phải đón đứa con của mình.”
Tôi nghe chị nói mà không quay lại nhìn chị. Vặn nhỏ lửa xuống, tôi dùng một cái muỗng khuấy nồi mứt. “Chẳng việc gì mà chị phải sợ như thế. Một đứa bé thì chỉ là một đứa bé mà thôi. Cơ thể của nó mềm mại, nó thích được vuốt ve, những ngón tay nhỏ xíu của nó thì nắm nắm lại và nó khóc nhiều. Vậy thôi.” Tôi nhìn chằm chằm vào chỗ mứt đang quấn quanh chiếc thìa.
“Nhưng không đơn giản như thế. Một khi nó được sinh ra, nó sẽ là của chị, dù chị có muốn hay không. Và chị chẳng thể làm gì được nó cả, kể cả khi nó có vết chàm nửa mặt, hay ngón tay dính vào nhau, hay nó không có não, hay nó là một cặp song sinh liền thân…” Chị tiếp tục liệt kê những khả năng đáng sợ khác thêm một lúc. Chiếc thìa tạo ra một âm thanh đều đều khi tôi vét đáy nồi lúc mứt bắt đầu đông lại.
Tôi chăm chú nhìn vào trong nồi, không biết có bao nhiêu chất P.W.H chứa trong đó. Dưới ánh đèn huỳnh quang, nồi mứt này làm tôi liên tưởng đến một hoá chất, một thứ gì đó chứa trong một chiếc chai trong suốt, hoàn toàn lý tưởng để làm phân rã các nhiễm sắc thể.
“Xong rồi,” tôi nói. Nắm lấy quai nồi, tôi đưa ra trước mặt chị. “Đây, chị ăn thêm đi.” Tôi chìa nồi mứt ra và chị nhìn vào nó một lát. Rồi không nói thêm lời nào nữa, chị bắt đầu ăn.
22 tháng 7 (Thứ Tư), 35 tuần + 2 ngày: Tôi đã cố nghĩ về đứa bé như một điều gì đó có ý nghĩa tích cực đối với chị tôi, anh rể và cả tôi nữa. Nhưng tôi chưa bao giờ làm được.Tôi không thể nào hình dung nổi về ánh mắt của anh rể khi anh bồng đứa trẻ trên tay hay bầu vú trắng nhởn của chị khi chị cho đứa bé bú. Tất cả những gì hiện hình trong tôi chỉ là bức ảnh những nhiễm sắc thể mà một lần tôi đã nhìn thấy trong một tạp chí khoa học.
11 tháng 8 (Thứ Ba), 38 tuần + 1 ngày: Đi làm về, tôi bắt gặp mẩu giấy nhắn anh rể tôi để lại trên bàn: “Chị đã đau đẻ. Anh chị phải đến bệnh viện đây!” Tôi cứ đọc đi đọc lại mấy chữ ấy. Khi liếc chéo ra xung quanh, tôi thấy một cái thìa còn dính mứt nằm trên bàn. Tôi vứt nó vào bồn rửa rồi nghĩ xem nên làm gì. Tôi đọc mẩu giấy nhắn của anh thêm lần nữa rồi rời nhà.
Mọi vật đều chan hoà trong ánh sáng. Những tấm kính chắn gió trên những chiếc xe hơi dường như rực sáng và những tia nuớc từ vòi phun trong công viên trở nên lóng lánh. Tôi rảo bước, vừa đi vừa chăm chú nhìn xuống đường và lau mồ hôi. Hai đứa bé đội mũ rơm chạy ngang qua. Cổng ngôi trường tiểu học đã đóng và sân chơi vắng hoe. Đi tiếp đoạn nữa, có một quầy bán hoa nhỏ nhưng tôi không thấy có người bán hàng hay người mua. Một chùm hoa baby nhỏ bé được cắm trong một chiếc bình thủy tinh.
Tôi rẽ ở góc phố và cuối cùng đến trước cửa bệnh viện. Đúng như chị tôi đã nói, ở đây, thời gian dường như dừng lại. Bệnh viện vẫn y như những gì còn bảo lưu trong ký ức tôi sau bao năm tháng – vẫn cây long não to bên cạnh cổng vào, lớp kính mờ sương ở cửa trước, những chữ đã bị bong trên bảng hiệu. Và ở đây cũng không có một ai trong tầm mắt của tôi, ngoài cái bóng của tôi hằn rõ trên đường.
Tôi men theo bức tường vòng ra phía sau khu nhà bệnh viện, lách qua cánh cổng cũ đã hỏng để vào vườn. Tim tôi bắt đầu đập mạnh khi đặt chân lên bãi cỏ được chăm sóc cẩn thận vẫn như ngày nào. Tôi ngước lên nhìn bệnh viện, lấy tay che cho mắt khỏi chói bởi ánh mặt trời phản chiếu trên cửa sổ.
Khi tôi đến gần toà nhà thì mùi sơn bay ra về phía tôi. Không khí tĩnh lặng, không có dấu hiệu nào của sự sống ở quanh tôi. Tôi là vật thể duy nhất đang chuyển động trong vườn. Bây giờ tôi đã đủ cao để có thể nhìn vào phòng khám mà không cần phải đứng trên một cái thùng nhưng không thấy bác sĩ hay y tá nào ở trong cả. Phòng khám tối và vắng lặng, như một phòng thí nghiệm khoa học ở trường sau khi giờ học kết thúc. Tôi đứng nhìn những chai thuốc, cái máy đo huyết áp, tấm áp phích vẽ người phụ nữ đẻ ngược, cái máy siêu âm. Kính cửa ấm lên khi tôi tì má vào.
Tôi nghe thấy có tiếng khóc trẻ con ở xa xa. Một tiếng khóc nhỏ, run run, đẫm nước mắt từ nơi đâu bên ngoài khoảng nắng vọng lại. Tiếng khóc ấy dường như trực tiếp ngấm vào màng nhĩ tôi và đầu tôi bắt đầu nhức buốt. Tôi lùi lại và ngước lên nhìn tầng ba. Tôi nhìn thấy một phụ nữ mặc áo ngủ đang nhìn chằm chằm về một nơi nào đó. Tóc chị xòa xuống má và mặt chị nhìn không rõ bởi góc tối bên trong phòng nên tôi không chắc đấy có phải là chị mình không. Môi chị hơi mấp máy và chị đang dụi mắt, giống như người ta thường dụi mắt khi sắp khóc. Tôi định đứng nhìn chị thêm nhưng góc chiếu của mặt trời thay đổi và chị nhòa đi trong ánh phản chiếu ấy.
Theo tiếng khóc của đứa bé, tôi trèo lên lối thoát hoả hoạn. Sàn gỗ dưới chân tôi rung kẽo kẹt. Cơ thể tôi lả đi và nóng lên nhưng bàn tay vịn vào rào chắn và đôi tai đang ngấm tiếng khóc đứa bé, lạ thay, lại lạnh. Khi bãi cỏ lùi xa dần dưới chân tôi, sắc xanh của nó thậm chí lại còn tươi sáng hơn.
Đứa bé tiếp tục khóc. Khi mở cửa tầng ba ra, tôi như bị mù trong giây lát khi mắt còn chưa điều chỉnh kịp để thích nghi với ánh sáng. Tôi đứng đấy, tập trung lắng nghe tiếng khóc của đứa bé cứ ré lên từng đợt cho đến lúc cuối cùng, tôi nhìn thấy một hành lang dẫn vào bóng tối. Tôi chạy về phía phòng của trẻ mới sinh để nhìn mặt đứa con bị hủy hoại của chị mình.

 

Chú thích:

1. mochi: một loại bánh ngọt truyền thống của Nhật Bản được làm từ bột gạo nếp và nhân đậu.

 

bài đã đăng của Yoko Ogawa

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2023 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)