Lời người dịch: Truyện ngắn dưới đây được dịch từ nguyên tác tiếng Nhật của Haruki Murakami là truyện thứ nhất “Ishi no makura ni” trong tuyển tập Ichininsho Tansu (Nhân xưng thứ nhất đơn lẻ) từ nhà xuất bản Bungei Shunju (Văn Nghệ Xuân Thu) tái bản lần thứ ba tháng 9 năm 2020, và đã đăng lần đầu trên tạp chí Bungakkai (Văn học giới) số tháng 7 năm 2018.
–Phạm Vũ Thịnh
Ở đây, tôi muốn kể câu chuyện về một người phụ nữ. Nói thế chứ, tôi gần như không biết gì về cô ấy cả. Tôi thậm chí không nhớ ra tên thật của cô, hay khuôn mặt cô. Mà cả cô chắc hẳn cũng không nhớ tên hay mặt tôi nữa.
Khi gặp cô, tôi là sinh viên năm thứ hai đại học, chưa đến hai mươi tuổi, và tôi đoán cô có lẽ giữa lứa tuổi hai mươi. Cả hai chúng tôi đều làm việc bán thời gian ở cùng một chỗ, cùng một thời kỳ. Thế rồi hoàn toàn tình cờ mà rốt cuộc chúng tôi đã qua đêm với nhau. Và rồi không bao giờ gặp lại nhau nữa.
Thuở mười chín, tôi hầu như hoàn toàn chẳng biết gì về hoạt động bên trong trái tim mình, chứ đừng nói gì đến trái tim của người khác. Dù vậy, tự mình thì nghĩ là đã biết khá rành nỗi vui sướng và nỗi buồn rầu là như thế nào. Tuy có điều tôi vẫn chưa thể nắm bắt được nhiều hiện tượng nằm trong khoảng giữa vui sướng và buồn rầu, cách thức chúng liên quan với nhau như thế nào. Điều đó thường khiến tôi cảm thấy bất an và bất lực.
Mặc dù vậy, tôi vẫn muốn kể về cô ấy.
Những gì tôi biết về cô chỉ là cô đã viết những bài thơ đoản ca, và đã xuất bản một tập thơ. Nói là đã xuất bản, chứ thực ra cuốn sách đó là một tập sách mỏng, cao lắm thì cũng chỉ đạt đến trình độ của một cuốn sách tự xuất bản, gồm những trang giấy in được kết lại bằng dây nhợ thả diều, kèm thêm một cái bìa đơn giản. Thế nhưng một số bài thơ trong tập thơ của cô đã lắng đọng lại trong lòng tôi lì lợm đến mức kỳ dị. Hầu hết các bài thơ của cô đều nói về tình yêu nam nữ, và cái chết. Như thể để trình bày rằng tình yêu và cái chết là những khái niệm gắn kết không thể tách rời hay chia cắt được.
Anh và em
chúng ta đã cách xa nhau
thật đấy nhỉ?
Đổi tàu ở Sao Mộc,
em đã làm đúng đấy chăng?
Em áp tai
vào gối đá, lắng nghe
Tiếng máu chảy
vắng bặt, im lìm.
“Này anh, có thể em sẽ hét lên tên một người đàn ông khác khi em cực sướng đấy. Anh có chấp nhận điều đó không?” cô hỏi tôi. Chúng tôi đang khỏa thân dưới tấm chăn futon.
“Có sao đâu,” tôi nói. Chẳng phải là tin chắc như thế, nhưng tôi nghĩ chừng đó có lẽ sẽ không làm tôi bận tâm. Tôi nghĩ, chỉ là một cái tên thôi mà, sẽ chẳng có gì thay đổi chỉ vì một cái tên.
“Em có thể hét khá lớn đấy nhé.”
“Ồ, thế thì có thể là vấn đề đấy,” tôi vội vàng nói. Căn phòng trọ bằng gỗ cũ kỹ mà tôi đang ở có những bức tường thô sơ mỏng manh như mấy chiếc bánh quế mà tôi từng ăn khi còn bé. Lại đã khá muộn vào ban đêm, nếu cô thực sự hét tướng lên thì hai bên hàng xóm sẽ nghe được tất cả.
“Vậy thì lúc đó em sẽ cắn chặt một chiếc khăn nhé,” cô nói.
Tôi chọn chiếc khăn sạch nhất, dày nhất trong phòng tắm, mang lại đặt cạnh gối.
“Khăn này được không?”
Cô thử cắn chặt chiếc khăn vài lần, giống như một con ngựa cắn thử miếng mồi mới. Rồi gật đầu, ra hiệu chiếc khăn đã qua được đợt kiểm tra.
Hoàn toàn là một cuộc gặp gỡ tình cờ đấy thôi. Tôi thực sự đã chẳng ao ước chúng tôi sẽ cặp với nhau, và tôi nghĩ cô cũng vậy. Chúng tôi đã làm việc cùng chỗ trong nửa tháng rồi, nhưng vì công việc khác và xa nhau nên hầu như không có cơ hội trò chuyện gì cho ra hồn. Mùa đông năm đó, tôi rửa chén bát và giúp việc vặt trong bếp của một nhà hàng Ý bình dân gần ga Yotsuya, còn cô hầu bàn trong phòng ăn. Tất cả những người làm bán thời gian ở nhà hàng ấy đều là sinh viên đại học, ngoại trừ cô. Có lẽ đó là lý do cô có thái độ hơi xa cách.
Cô đã quyết định nghỉ việc vào giữa tháng 12, và một ngày nọ sau giờ làm việc, một số nhân viên cùng nhau đến ăn uống ở một quán nhậu gần đấy. Tôi cũng được rủ tham gia. Không hẳn là một bữa tiệc chia tay theo lệ thường, chỉ là trong khoảng một giờ, chúng tôi cùng uống bia sống, ăn một ít thức nhắm, và tán chuyện, thế thôi. Nhân đó tôi được biết là trước khi làm hầu bàn ở đấy thì cô đã làm việc tại một công ty bất động sản nhỏ, rồi tại một hiệu sách. Cô cho biết rằng ở các chỗ làm cũ, cô đã chẳng hòa hợp được với những người quản lý hoặc người chủ. Còn ở nhà hàng này thì cô không va chạm gì với bất cứ ai, nhưng mức lương quá thấp không đủ sống khiến cô khó mà làm lâu được, vì vậy cô phải tìm một công việc khác, tuy cô không muốn.
Thế cô muốn làm công việc gì nào? có người hỏi.
“Công việc gì cũng được,” cô nói, xoa xoa bên sống mũi. (Bên cạnh mũi cô có hai nốt ruồi nhỏ, xếp thành hàng như một chòm sao.) “Bởi công việc nào tôi tìm được thì cũng chẳng quan trọng bao nhiêu.”
Thời đó tôi trọ ở Asagaya, còn chỗ của cô thì ở Koganei. Vì vậy, cả hai cùng về bằng tàu điện tốc hành trên tuyến Chuo từ ga Yotsuya. Chúng tôi ngồi cạnh nhau trên tàu. Lúc đó đã quá mười một giờ tối, một đêm rét thấu xương với gió mùa đông lạnh buốt. Tôi đã chẳng kịp để ý là đến mùa phải mang găng tay và khăn quàng cổ rồi. Khi tàu đến gần ga Asagaya, tôi đứng dậy chuẩn bị xuống tàu, thì cô nhìn lên tôi mà nói, giọng thì thầm, “Anh có thể cho em trú lại nhà anh đêm nay được không?”
“Được thôi, nhưng sao thế?”
“Quá xa để quay lại Koganei mà.”
“Tôi phải nói trước, chỉ là một căn phòng hẹp, và thực sự bừa bộn lắm đấy,” tôi nói.
“Điều đó không làm phiền em chút nào cả,” cô nói, và nắm lấy cánh tay áo khoác của tôi.
Thế là cô đến chỗ trọ chật chội, tồi tàn của tôi, và chúng tôi cùng nhau uống vài lon bia. Chúng tôi thong thả uống bia, rồi như thể chỉ là bước tiếp theo tự nhiên, cô cởi quần áo ngay trước mắt tôi. Và cứ thế, cô trần truồng chui vào chiếc chăn futon của tôi. Theo sau, tôi cởi quần áo nằm xuống với cô. Tôi với tay tắt đèn, nhưng ánh lửa từ lò sưởi bằng khí đốt vẫn giữ cho căn phòng khá sáng. Trên nệm futon, chúng tôi sờ soạng sưởi ấm nhau. Một lúc lâu, không ai nói lời nào. Gấp rút cởi bỏ áo quần nằm với nhau xong, thật khó mà biết phải nói gì tiếp. Nhưng khi cơ thể dần ấm lên, chúng tôi thực sự cảm thấy sự ngượng ngùng dịu đi qua làn da. Có cảm giác thân mật kỳ lạ.
Đúng vào lúc ấy cô lên tiếng hỏi, “Có thể em sẽ hét lên tên một người đàn ông khác khi em cực sướng đấy. Anh có chấp nhận được không?”
“Thế cô có yêu anh ta không?” Tôi hỏi, sau khi trao cô chiếc khăn.
“Yêu chứ. Nhiều lắm,” cô đáp. “Em yêu anh ấy thật, thật nhiều. Em luôn luôn nghĩ đến anh ấy, từng phút từng giây. Nhưng anh ấy thì không yêu em nhiều đến thế. Vả lại, anh ấy có bạn gái khác rồi.”
“Thế mà cô vẫn chơi với anh ta à?”
“Ừm. Anh ấy gọi cho em bất cứ khi nào anh ấy muốn thân thể em,” cô nói. “Giống như điện thoại gọi đồ ăn mang đến vậy.”
Tôi không biết phải trả lời thế nào, nên im lặng. Cô dùng đầu ngón tay vẽ hình gì đấy trên lưng tôi. Hoặc cũng có thể cô đang viết nguệch ngoạc chữ gì đấy.
“Anh ấy bảo khuôn mặt em xấu xí nhưng thân thể em là tuyệt vời nhất.”
Tôi không nghĩ khuôn mặt cô xấu xí, mặc dù gọi là xinh đẹp thì hẳn là quá đáng. Bây giờ nghĩ lại, tôi không thể nhớ chính xác được khuôn mặt cô như thế nào, hay mô tả chi tiết về khuôn mặt đó.
“Nhưng nếu anh ta gọi, thì cô đi à?”
“Em yêu anh ấy, nên đâu còn làm sao khác được?” cô nói, như thể không còn gì có thể tự nhiên hơn. “Cho dù anh ấy có nói gì em đi nữa, có những lúc em thiết tha cần một người đàn ông làm tình với mình.”
Tôi nghĩ về điều cô nói một hồi. Nhưng thuở ấy, tôi không thể tưởng tượng ra được cụ thể là trạng thái cảm xúc như thế nào, khi người phụ nữ “thiết tha cần một người đàn ông làm tình với mình.” (Mà ngay cả bây giờ, ngẫm lại thì tôi vẫn chưa hiểu rõ được nữa là.)
“Yêu ai đó thì giống như mắc bệnh tâm thần không được bảo hiểm y tế,” cô nói, giọng đều đều, như thể đang đọc lại dòng chữ viết trên tường.
“Thế cơ đấy!” tôi nói, có phần thán phục.
“Thế nên không sao cả nếu ngay lúc ấy anh cứ xem em như là một người phụ nữ khác,” cô nói. “Anh có người yêu nào đấy chứ?”
“Có chứ.”
“Thế thì em không phiền gì nếu anh hét tên người đó khi anh cực sướng. Em sẽ không bận tâm đâu.”
Thời đó quả là có một cô gái tôi thích, nhưng hoàn cảnh đã ngăn cản chúng tôi tiến sâu hơn. Và khi khoảnh khắc đó đến, tôi đã không gọi tên cô ta. Ý nghĩ đó đã thoáng qua trong đầu tôi, nhưng ngay giữa lúc quan hệ tính dục với cô này mà làm thế thì có vẻ ngớ ngẩn sao ấy, nên tôi đã xuất tinh bên trong cô mà không thốt lên lời nào. Cô lại sắp hét lên tên của người đàn ông như cô đã cho biết, nên tôi phải vội vàng nhét khăn vào giữa hai hàm răng của cô. Cô có hàm răng thực sự vững chắc, trông rất khỏe mạnh. Đến mức nha sĩ nào thấy hẳn cũng thực sự trầm trồ. Tôi không nhớ lúc đó cô đã hét lên cái tên nào. Chỉ nhớ có lẽ là một cái tên thông thường, chẳng có gì đặc biệt, và tôi đã rất ngạc nhiên vì một cái tên nhạt nhẽo như vậy lại được cô xem là quý báu và thực sự quan trọng. Hóa ra một cái tên đơn giản đôi khi có thể làm rung động trái tim người ta đấy.
Sáng hôm sau thì tôi có một lớp học sớm mà tôi phải nộp một báo cáo quan trọng thay cho bài kiểm tra giữa kỳ, nhưng tất nhiên là tôi đã bỏ qua. (Điều này dẫn đến một số vấn đề nghiêm trọng sau này, nhưng đó là một câu chuyện khác.) Cuối cùng thì chúng tôi cũng đã thức dậy lúc trưa trật, đun nước pha cà phê uống liền và ăn vài miếng bánh mì nướng. Còn một ít trứng trong tủ lạnh, nên tôi luộc ăn chung. Trời trong vắt không mây, nắng sáng huy hoàng, và tôi cảm thấy lười biếng.
Lúc cô nhai bánh mì nướng bơ, cô hỏi tôi chuyên ngành gì ở trường đại học. Tôi nói rằng tôi học khoa Văn.
Thế anh muốn thành tiểu thuyết gia đấy à? cô hỏi.
Tôi không thực sự có ý định đó, tôi trả lời thành thật như thế. Tôi không có bất cứ kế hoạch nào vào thời điểm đó, để trở thành tiểu thuyết gia. Thậm chí chưa bao giờ nghĩ đến điều đó (mặc dù có rất nhiều người cùng lớp tôi đã tuyên bố có ý định trở thành tiểu thuyết gia). Nghe tôi đáp thế, cô có vẻ mất hứng đối với tôi. Tuy cũng chẳng phải là cô đã có hứng thú gì nhiều ngay từ đầu. Dù sao đi nữa, tôi có chút cảm giác bị thương tổn.
Trong ánh sáng ban ngày, tôi có thể nhìn thấy dấu răng của cô trên chiếc khăn, khiến tôi thấy hơi kỳ dị. Cô hẳn đã cắn vào đấy khá mạnh. Dưới ánh sáng ban ngày, cô trông có vẻ lạc lõng. Thật khó tin rằng cô gái này – nhỏ nhắn, xương xẩu, với nước da không được đẹp lắm – lại chính là cô gái đã hét lên, mê đắm trong vòng tay tôi đêm hôm trước, dưới ánh trăng mùa đông.
“Em làm thơ tanka đấy anh,” cô đột nhiên nói.
“Tanka à?”
“Anh biết tanka, chứ nhỉ?”
“Tất nhiên rồi,” tôi nói. Ngay cả một người ngây thơ như tôi đi nữa, chừng đó thì cũng biết được chứ. “Nhưng đây là lần đầu tiên tôi gặp một người thực sự làm thơ tanka.”
Cô cười vui sướng. “Nhưng trên thế giới này vẫn có những người như thế, anh biết đấy.”
“Cô tham gia câu lạc bộ thơ hay gì đó à?”
“Không, không phải vậy,” cô nói, và nhún vai nhẹ. “Thơ tanka là thể loại tự mình sáng tác kia. Đúng không nào? Không giống như chơi bóng rổ thành đội.”
“Loại thơ tanka gì nào?”
“Anh muốn nghe không?”
Tôi gật đầu.
“Thật chứ? Anh không chỉ nói suông thế thôi sao?”
“Thật mà,” tôi nói.
Và đó là sự thật. Bởi tôi tò mò. Tôi nghĩ cô gái này, người mới chỉ vài giờ trước đây đã rên rỉ trong vòng tay tôi và hét lên tên một người đàn ông khác, thì viết ra loại thơ nào nhỉ?
Cô do dự. “Em không nghĩ là có thể đọc thuộc lòng bất cứ bài thơ nào ở đây. Thật ngượng ngùng quá. Và mới sáng ra nữa. Nhưng em đã xuất bản một loại tuyển tập, vì vậy nếu anh thực sự muốn đọc, em sẽ gửi cho anh. Anh cho em biết tên họ và địa chỉ được không?”
Tôi ghi địa chỉ của mình vào một mẩu giấy ghi nhớ, đưa cho cô. Cô liếc nhìn, gấp làm tư, rồi nhét vào túi áo khoác. Chiếc áo khoác màu lục nhạt đã qua khỏi thời hoàng kim. Cổ áo tròn đính một chiếc trâm cài bằng bạc hình hoa linh lan. Tôi nhớ chiếc trâm lấp lánh dưới ánh nắng chiếu qua kính cửa sổ hướng về phía nam. Tôi hầu như chẳng biết gì về hoa, nhưng không hiểu sao tôi luôn luôn thích hoa linh lan.
“Cảm ơn anh đã cho em ở lại. Em thực sự không muốn đi tàu điện một mình về Koganei,” cô nói khi rời khỏi phòng tôi. “Con gái đôi khi lo ngại như thế.”
Lúc ấy cả hai chúng tôi đều nhận thức rõ điều đó. Rằng chúng tôi có lẽ sẽ không bao giờ gặp lại nhau nữa. Đêm ấy, cô chỉ đơn giản là không muốn đi tàu điện một mình về Koganei, chỉ có vậy thôi.
Một tuần sau, tập thơ của cô đã được gửi đến qua bưu điện. Thành thật mà nói, tôi thực sự không nghĩ là cô sẽ giữ lời mà gửi cho tôi. Tôi đoán là cô quên hẳn tôi khi cô trở về nhà ở Koganei (hoặc có lẽ cô đã gắng quên tôi càng sớm càng tốt), tôi không hề nghĩ rằng cô sẽ mất công bỏ một bản cuốn thơ ấy vào phong bì, viết họ tên và địa chỉ của tôi, dán tem rồi cho vào hộp thư, thậm chí có thể phải đến tận bưu điện, theo lệ thường. Vì vậy, một buổi sáng, khi tôi dòm thấy gói quà đó qua khe hộp thư của mình trong căn hộ, tôi đã rất bất ngờ.
Nhan đề của tập thơ là Trên gối đá. Tác giả được ghi là Chiho. Không rõ là tên thật hay bút danh của cô. Ở nhà hàng, tôi hẳn đã nghe tên cô nhiều lần rồi, nhưng tôi không nhớ ra được. Tuy nhiên, không ai gọi cô là Chiho cả, theo như tôi biết. Tập thơ nằm trong một phong bì loại dùng cho công việc, màu nâu trơn, không ghi tên hoặc địa chỉ người gửi, mà cũng không có thiệp hay thư kèm theo. Chỉ có một tập thơ mỏng, được đóng lại bằng dây nhợ thả diều màu trắng, nằm im lặng bên trong. Không phải là một bản in thạch bản rẻ tiền, mà được in đẹp trên giấy dày, phẩm chất cao. Tôi đoán là tác giả đã sắp xếp các trang theo thứ tự, dán bìa các-tông và cẩn thận đóng từng bản bằng tay dùng kim và dây nhợ để tiết kiệm chi phí đóng sách. Tôi đã cố tưởng tượng cô làm công việc đó, nhưng không sao hình dung ra được. Con số 28 được đóng dấu trên trang đầu tiên. Chắc hẳn là cuốn thứ hai mươi tám trong một phiên bản giới hạn. Tổng cộng có bao nhiêu cuốn nhỉ? Không thấy giá bán ghi ở đâu cả. Có lẽ đã không hề có giá bán.
Tôi không mở xem tập thơ ngay. Tôi chỉ để trên bàn làm việc, thỉnh thoảng liếc nhìn bìa sách. Chẳng phải là tôi không hứng thú gì, mà chỉ vì tôi cảm thấy việc đọc một tập thơ do ai đó làm ra – đặc biệt là của một người tuần trước đây đã khỏa thân trong vòng tay tôi – thì cần phải có một chút chuẩn bị về mặt tinh thần. Một cử chỉ tôn trọng đấy, tôi nghĩ thế.
Cuối cùng, vào buổi tối cuối tuần đó, tôi đã mở cuốn sách ra xem. Đứng tựa lưng vào bức tường cạnh cửa sổ, tôi đọc cuốn sách trong ánh hoàng hôn mùa đông. Có bốn mươi hai bài thơ trong tập ấy. Mỗi trang một bài tanka. Chẳng phải là một con số đặc biệt lớn. Không có lời tựa, không có lời bạt, thậm chí không ghi ngày xuất bản nữa. Chỉ in “tanka” bằng chữ màu đen thông thường trên các trang giấy trắng lề rộng.
Tôi chắc chắn đã không mong đợi một tác phẩm văn học đồ sộ hay bất cứ thứ gì như thế. Như tôi đã nói, tôi chỉ tò mò thôi. Một người phụ nữ hét lớn tên một anh chàng nào đó vào tai tôi khi cô cắn chặt chiếc khăn, thì viết ra loại thơ nào nhỉ? Điều tôi nhận ra khi đọc trọn tập thơ, là một số bài trong đó thực sự đã khiến tôi xúc động.
Tanka về cơ bản đã là một bí ẩn đối với tôi (và ngay cả bây giờ vẫn thế.) Vì vậy, tôi chắc chắn không dám mạo muội đưa ra ý kiến chủ quan gì về việc bài tanka nào đáng được coi là tuyệt vời, hay bài nào không đáng. Nhưng ngoài bất cứ đánh giá nào về giá trị văn học, thì một số tanka mà cô làm – chính xác là tám bài – đã khiến tôi xúc động sâu sắc. Ví dụ như bài này:
Khoảnh khắc hiện tại
nếu đó là khoảnh khắc hiện tại,
chỉ có thể được xem
là hiện tại không thể nào tránh được.
Trong gió núi
một cái đầu bị chặt đứt
không một lời.
Nước tháng sáu đọng lại
nơi gốc bụi cẩm tú cầu.
Thật kỳ lạ, khi tôi mở những trang thơ ấy, dõi mắt theo những chữ in cỡ lớn màu đen và đọc to lên, thì hình ảnh thân thể cô gái mà tôi đã thấy đêm đó lại hiển hiện trong trí tôi, thật chính xác như tôi đã nhìn thấy ngay trước mắt.
Không phải là hình ảnh thiếu ấn tượng mà tôi thấy trong ánh nắng buổi sáng hôm sau, mà là thân thể cô lúc tôi đang ôm trong vòng tay, được bao bọc bởi làn da mịn màng, trong đêm trăng sáng đó. Bộ ngực tròn đầy, núm vú nhỏ cứng, âm mao thưa mềm, âm hộ trơn ướt. Khi đạt đến cực khoái, cô đã nhắm mắt lại, cắn chặt chiếc khăn và gọi tên một người đàn ông khác vào tai tôi, liên tục. Tên của một người đàn ông ở đâu đó, một cái tên tầm thường mà tôi thậm chí không thể nhớ ra.
Khi em nghĩ
chúng ta sẽ không còn gặp lại nhau lần nữa,
Em cũng nghĩ rằng
không có lý do gì mà chúng ta không thể.
Có còn gặp lại nhau
hay sẽ chỉ kết thúc như thế này,
bị cuốn theo ánh sáng
bị bóng tối dẫm đạp.
Tất nhiên, tôi không biết liệu cô có còn viết tanka hay không. Như tôi đã nói, tôi thậm chí không biết tên thật của cô, và hầu như không nhớ mặt cô nữa. Tôi chỉ nhớ được cái tên “Chiho” trên bìa tập thơ, và làn da mềm mại, dâng hiến của cô dưới ánh trăng mùa đông nhợt nhạt chiếu qua cửa sổ, và chòm sao hai nốt ruồi nhỏ bên cạnh mũi cô.
Có lẽ cô thậm chí không còn tồn tại nữa cũng nên. Đôi lúc tôi nghĩ thế. Tôi không khỏi cảm thấy rằng có lẽ một lúc nào đó cô đã tự tử. Tôi nói thế là vì hầu hết các bài tanka của cô – hoặc ít nhất là hầu hết các bài trong tập thơ đó – đều mô tả hình ảnh cái chết. Và vì lý do nào đó, các bài ấy liên quan đến việc chặt đầu bằng lưỡi kiếm. Có thể đối với cô, đó là phong cách cô muốn chết.
Lạc vào cơn mưa
xối xả không ngừng
suốt cả buổi chiều,
chiếc rìu vô danh
chặt đầu hoàng hôn.
Nhưng trong một góc trái tim, tôi vẫn mong ước cô còn sống ở đâu đó trên thế giới này. Đôi khi, tôi đột nhiên bắt gặp mình hy vọng rằng cô sống sót, và vẫn đang sáng tác thơ. Tại sao nhỉ? Tại sao tôi lại mất công nghĩ đến điều như thế chứ? Đâu có điều gì kết nối cuộc đời của tôi và của cô. Kể cả khi, giả sử chúng tôi đi ngang qua nhau trên phố, hoặc tình cờ ngồi ở bàn cạnh nhau trong một nhà hàng, tôi thực sự vẫn nghi ngờ rằng không hẳn chúng tôi còn có thể nhận ra nhau. Giống như hai đường thẳng tình cờ giao nhau, chúng tôi chỉ gặp nhau trong giây lát tại một điểm nhất định, rồi mỗi người đi mỗi ngả.
Nhiều năm đã trôi qua kể từ đấy. Thật kỳ lạ (mà có lẽ cũng không kỳ lạ gì lắm), con người già đi như chỉ trong chớp mắt. Mỗi khoảnh khắc trôi qua, thân thể chúng ta lại nhích thêm một bước trên hành trình một chiều đến suy yếu và sụp đổ, mà không làm sao quay ngược thời gian. Tôi nhắm mắt lại, rồi mở mắt ra, chỉ để nhận thực rằng trong khoảng thời gian đó, rất nhiều thứ đã biến mất đi rồi. Bị những cơn gió nửa đêm mãnh liệt thổi qua, những thứ ấy – một số có tên, số khác thì không – đã biến mất không còn dấu vết. Ngay cả ký ức cũng khó có thể tin cậy được. Có ai có thể đoan chắc điều gì thực sự đã xảy ra với chúng ta vào thời điểm quá khứ đó không nào?
Nhưng dù vậy, nếu chúng ta được ban phước thì một vài từ ngữ vẫn có thể còn lưu lại với chúng ta. Chúng trèo lên đỉnh đồi trong đêm tối, chui vào những cái hố nhỏ đào vừa vặn với hình dáng cơ thể chúng, đứng lặng yên chịu đựng những cơn gió bão của thời gian thổi qua. Cho đến cuối cùng khi bình minh ló dạng, giông gió lắng xuống, những từ ngữ còn sống sót lại lặng lẽ nhô lên mặt đất. Phần lớn tiếng nói của chúng đều nhỏ nhoi, chúng nhút nhát và chỉ có những cách diễn đạt mơ hồ. Mặc dù vậy, chúng vẫn sẵn sàng làm chứng. Những chứng nhân trung thực và công bằng.
Nhưng để tạo ra được những từ ngữ bền bỉ, nhẫn nại mà đau khổ đó, chứ không phải để tìm thấy chúng mà rồi bỏ quên chúng lại phía sau, thì chúng ta phải hy sinh vô điều kiện chính thân thể của mình, chính trái tim của mình. Chúng ta phải nằm xuống gối đầu lên một chiếc gối đá lạnh lẽo được vầng trăng mùa đông chiếu sáng.
Ngoài tôi ra, có lẽ không có một người nào khác trên thế giới này nhớ đến những bài thơ của cô gái đó, chứ đừng nói người có thể đọc thuộc lòng chúng. Ngoại trừ cuốn đánh số 28, tất cả phiên bản tuyển tập thơ mỏng tự xuất bản đó, được buộc lại bằng dây nhợ thả diều, giờ đây đã bị lãng quên, bị phân tán, bị cuốn hút vào đâu đó trong bóng tối u ám giữa Sao Mộc và Sao Thổ mà biến mất mãi mãi rồi. Có lẽ bản thân cô (giả sử cô vẫn còn sống) cũng chẳng còn nhớ một chút gì về những bài thơ tanka cô đã viết khi còn trẻ. Có lẽ lý do duy nhất khiến tôi còn nhớ một số bài thơ của cô ngay cả bây giờ đây, là vì chúng kết nối với ký ức về dấu răng của cô cắn chặt vào chiếc khăn đêm đó. Có lẽ chỉ có vậy thôi. Tôi cũng chẳng biết có được bao nhiêu ý nghĩa hay giá trị trong chuyện tôi vẫn nhớ mãi tất cả những điều đó, hay thỉnh thoảng vẫn còn lấy tập thơ đã phai màu ấy từ ngăn kéo ra mà đọc lại. Thành thật mà nói, tôi thực sự không biết.
Thế nhưng, dù sao đi nữa, những thứ đó vẫn còn lưu lại. Trong khi những từ ngữ, những ký ức khác đã thành bụi trần mà biến mất đi rồi.
Dù ai cắt đứt đi
hay bị ai cắt đứt,
nếu kê cổ lên gối đá,
thì đấy!
thành bụi trần mất thôi.
Phạm Vũ Thịnh dịch
Sydney 22 October 2025