Trang chính » Dịch Thuật, Truyện ngắn Email bài này

với ban nhạc the beatles

♦ Chuyển ngữ: 0 bình luận ♦ 27.08.2025
The Beatles


With_the_beatles.jpg

Lời người dịch: Truyện ngắn dưới đây được dịch từ nguyên tác tiếng Nhật của Murakami Haruki là truyện thứ 4 “With the Beatles” trong tuyển tập “Ichininsho Tansu – Nhân xưng thứ nhất đơn lẻ” từ nhà xuất bản “Bungei Shunju – Văn nghệ Xuân thu” tái bản lần thứ ba tháng 9 năm 2020, và đã đăng lần đầu trên tạp chí “Bungakkai – Văn học giới” số tháng 8 năm 2019.

*

Điều tôi lấy làm lạ khi già đi chẳng phải là chuyện mình già đi. Chẳng phải là chuyện tôi trẻ trung trong quá khứ nay đã già mất rồi mà không hề nhận ra. Điều khiến tôi bất ngờ là những người cùng thế hệ với tôi đã già đi, tất cả những cô gái xinh đẹp, sống động mà tôi từng biết, giờ đây đã đủ tuổi để có một vài đứa cháu nội cháu ngoại rồi. Thật là kỳ lạ thậm chí buồn rầu. Mặc dù tôi chưa bao giờ cảm thấy buồn rầu về thực tế là chính tôi cũng đã già đi như vậy.

Tôi nghĩ điều khiến tôi cảm thấy buồn về những cô gái tôi từng biết đã già đi, là vì điều đó buộc tôi, lại một lần nữa, phải thừa nhận rằng những giấc mơ thời trai trẻ của mình đã mãi mãi không còn nữa. Cái chết của một giấc mơ, theo cách nào đó, có thể còn buồn hơn cái chết của một sinh vật nữa.

Có một cô gái —nay là một phụ nữ đã từng là thiếu nữ— tôi nhớ được rất rõ. Mặc dù, tôi không biết tên cô ấy. Và tất nhiên, tôi không biết cô ấy nay ở đâu hoặc đang làm gì. Tôi chỉ biết rằng cô ấy đã học cùng trường trung học với tôi, và cùng năm (vì huy hiệu trên áo cô cùng màu với tôi), và cô thực sự yêu thích ban nhạc The Beatles.

Lúc đó là năm 1964, thời kỳ tuyệt đỉnh của Beatlemania – phong trào Cuồng Beatles. Khoảng ấy đầu mùa thu. Học kỳ mới, và mọi thứ bắt đầu vào nề nếp bình thường trở lại. Cô ấy đã vội vã bước đi trên hành lang dài, mờ tối của tòa nhà cũ kỹ, gấu váy tung tăng. Tôi là người duy nhất nhìn thấy. Cô ôm chặt một chiếc đĩa hát cỡ LP vào ngực như thể một thứ gì đó quý giá vô cùng. Đĩa LP “With the Beatles—Với ban nhạc The Beatles“. Đĩa có bức ảnh đen trắng nổi bật của bốn thành viên Beatles trong bóng mờ. Vì lý do nào đó tôi không chắc mấy, tôi lại nhớ rõ đấy là phiên bản gốc Anh Quốc của album ấy, chứ không phải phiên bản Mỹ hay Nhật.

Cô ấy thật xinh đẹp. Ít nhất thì với tôi lúc đó, cô ấy trông thật kiều diễm. Cô không cao lắm, nhưng mái tóc đen dài, đôi chân thon thả, và thoảng mùi hương thơm ngát (Có thể là một ký ức sai lầm, tôi không chắc. Có thể đã không có mùi hương nào từ cô. Nhưng tôi nhớ như thế khi cô ấy đi ngang qua, một mùi hương quyến rủ, mê hoặc đã thoảng đến tôi.) Cô ấy đã mê hoặc tôi, cô gái xinh đẹp vô danh ôm chặt đĩa “With the Beatles” vào ngực.

Tim tôi bắt đầu đập thình thịch, tôi thở hổn hển, như thể mọi âm thanh đã ngưng lại, như thể tôi đã chìm xuống đáy hồ bơi. Tất cả những gì tôi có thể nghe được chỉ là tiếng chuông yếu ớt, lắng sâu trong tai tôi. Như thể ai đó đang tuyệt vọng cố sức gửi đến tôi một thông điệp sinh tử. Tất cả xảy ra chỉ trong mười, mười lăm giây. Mọi chuyện đã kết thúc trước khi tôi nhận biết, mà thông điệp quan trọng chứa đựng ở đó, giống như cốt lõi của mọi giấc mơ, đã biến đi đâu mất.

Hành lang mờ tối trong một trường trung học, một thiếu nữ xinh đẹp, gấu váy của cô tung tăng, và đĩa nhạc “With the Beatles”.

Đó là lần duy nhất tôi nhìn thấy cô ấy. Trong hai năm kể từ đó cho đến khi tôi tốt nghiệp, chúng tôi không bao giờ gặp lại nhau nữa. Ngẫm ra là điều kỳ lạ quá. Trường trung học mà tôi theo học là một trường công lập khá lớn nằm trên đỉnh đồi ở Kobe, có khoảng sáu trăm năm mươi học sinh ở mỗi cấp học. (Chúng tôi thuộc thế hệ được gọi là baby-boomer—bùng nổ dân số, nên rất đông người.) Không phải ai cũng biết nhau. Thực tế là tôi không biết tên mà cũng chẳng nhận ra được phần lớn học sinh khác trong trường. Dù vậy, vì tôi đến trường hầu như mỗi ngày và thường xuyên dùng hành lang đó, nên tôi cảm thấy thật phi lý rằng tôi không bao giờ còn thấy cô gái xinh đẹp đó nữa. Tôi đã tìm kiếm cô ấy mỗi khi tôi đi qua hành lang đó.

Cô ấy đã biến mất như khói sương rồi chăng? Hay vào buổi chiều đầu thu đó, tôi đã nhìn thấy một ảo ảnh nào đấy chứ không phải người thật? Hay tôi đã lý-tưởng-hóa cô ấy trong tâm trí mình ngay lúc chúng tôi đi ngang qua nhau, đến mức ngay cả khi tôi thực sự gặp lại cô ấy, tôi cũng không nhận ra cô ấy nữa? (Tôi nghĩ đây là khả-năng-tính cao nhất trong 3 giả-thuyết nêu trên.)

Sau đó, tôi đã làm quen và đi chơi với vài phụ nữ. Và mỗi lần tôi gặp một phụ nữ mới, tôi lại cảm thấy như thể trong vô thức, càng khao khát được sống lại khoảnh khắc rực rỡ mà tôi đã trải qua trong hành lang trường học mờ tối vào mùa thu năm 1964. Rung động thầm lặng mà dai dẳng trong tim tôi, cảm giác nghẹt thở trong lồng ngực, tiếng chuông reo nhẹ nhàng bên tai.

Đôi khi tôi có thể lấy lại cảm giác ấy, khi khác thì không. Và có khi tôi cố gắng nắm bắt được, để rồi vuột mất khỏi tầm tay. Trong mọi trường hợp, cảm xúc dâng trào được đến mức nào đã trở thành một loại thước đo mà tôi dùng để lượng định cường độ khao khát của mình.

Khi không thể có được cảm giác đó trong thế giới hiện thực, tôi lắng đọng thầm lặng để ký ức về những cảm xúc đó hồi sinh trong lòng mình. Theo cách này, ký ức trở thành một tài sản về cảm xúc quý trọng nhất của tôi, mà cũng là một phương tiện để sinh tồn. Như một con mèo con ấm áp, cuộn tròn mềm mại, say ngủ bên trong chiếc túi áo khoác quá khổ của mình.

Xin tiếp tục nói về Beatles.

Một năm trước khi tôi nhìn thấy cô gái đó là khi ban nhạc The Beatles lần đầu tiên trở nên cực kỳ nổi tiếng. Đến tháng 4 năm 1964, The Beatles đã thường trực độc chiếm năm vị trí hàng đầu trên bảng xếp hạng đĩa đơn của Mỹ. Nhạc pop chưa từng chứng kiến hiện tượng gì giống như vậy cả. Đây là 5 bài hát “top hit—ăn khách nhất“:

(1) “Can’t Buy Me Love”;

(2) “Twist and Shout”;

(3) “She Loves You”;

(4) “I Want to Hold Your Hand”;

(5) “Please Please Me”.

Riêng đĩa đơn “Can’t Buy Me Love” đã có hai triệu mốt đơn đặt hàng trước, đạt mức “double platinum—đĩa bạch kim đôi” ngay cả trước khi đĩa thu âm thực tế được bán ra.

Tất nhiên, Beatles cũng đã rất nổi tiếng ở Nhật Bản. Bật radio lên là hầu như lúc nào cũng nghe được ngay một trong những bài hát của họ. Chính tôi cũng thích các bài hát của họ và nhớ được tất cả các bản nổi tiếng. Yêu cầu tôi hát các bài đó là tôi có thể hát lên ngay được. Ở nhà khi đang học (hoặc giả vờ học), hầu hết thời gian tôi đều bật radio hết cỡ. Thế nhưng, sự thật thì tôi chưa bao giờ là một người hâm mộ cuồng nhiệt của ban Beatles. Tôi chưa bao giờ chủ động tìm kiếm các bài hát của họ. Đối với tôi, chỉ là cách nghe thụ động, để nhạc pop đang thịnh hành phát ra từ hai chiếc loa nhỏ xíu của radio bán dẫn Panasonic, lọt vào một tai, lướt nhẹ qua ý thức rồi ra tai kia. Loại nhạc nền cho tuổi thanh xuân của tôi đấy. Có lẽ gọi được là tranh dán tường bằng âm nhạc.

Lên trung học rồi đại học, tôi vẫn chưa mua đĩa nhạc nào của Beatles. Tôi khoái nhạc jazz và nhạc cổ điển hơn nhiều, và thường chọn nghe khi muốn tập trung vào âm nhạc. Tôi đã để dành tiền mua đĩa nhạc jazz, yêu cầu các giai điệu của Miles Davis và Thelonious Monk tại các quán bar nhạc jazz, và đến nghe các buổi hòa nhạc cổ điển.

Điều này nghe kỳ lạ, nhưng mãi đến ngoài ba mươi tuổi, tôi mới ngồi xuống nghe đĩa LP “With the Beatles” từ đầu đến cuối. Mặc dù hình ảnh cô gái ôm đĩa LP đó ở hành lang trường trung học chưa bao giờ rời khỏi tôi, nhưng trong một thời gian dài, tôi đã chẳng muốn thực sự lắng nghe đĩa ấy. Tôi chẳng đặc biệt quan tâm đến chuyện cần biết bản nhạc nào được khắc vào các đường rãnh của đĩa LP mà cô ấy đã ôm chặt vào ngực.

Khi tôi ở giữa lứa tuổi ba mươi, đã qua khỏi tuổi thơ và tuổi thiếu niên lâu rồi, ấn tượng đầu tiên của tôi về album ấy là không tuyệt vời đến thế, hoặc ít nhất cũng chẳng phải là loại nhạc khiến phải nín thở mà nghe. Trong số mười bốn ca khúc trong album ấy, có đến sáu là loại bản “cover” biến tấu các tác phẩm của những nghệ sĩ khác. Trong số đó, các bản cover cho “Please Mr. Postman” của Marvelettes và “Roll Over Beethoven” của Chuck Berry được thực hiện rất hiệu quả, cho đến ngay cả bây giờ nữa cũng còn khiến tôi thán phục, nhưng dù sao thì cũng là bản cover thôi. Còn trong số tám bài hát nguyên gốc Beatles, ngoại trừ “All My Loving” của Paul (McCarney), chẳng có bài nào đặc biệt xuất sắc cả, theo tôi nghĩ. Tinh thần thử thách quả cảm của ban Beatles trong quyết định không đưa bản đĩa đơn ăn khách nào vào cả, chỉ thu âm các bản mới mà thôi trong album LP ấy, tuy có lẽ cũng đáng khâm phục đấy, thế nhưng đối với tôi, album đầu tiên của Beatles là “Please Please Me”, được thu âm cơ bản chỉ một lần là xong, thì nghe sôi động và hấp dẫn hơn nhiều. Mặc dù vậy, có lẽ nhờ vào lòng mong muốn sôi nổi những bài hát mới của người hâm mộ Beatles mà album thứ hai này vừa ra mắt đã đạt vị trí số 1 tại Vương quốc Anh, rồi giữ được hạng quán quân đó suốt hai mươi mốt tuần. (Ở Mỹ thì nhan đề của album đã được đổi thành “Meet the Beatles—Gặp ban nhạc The Beatles” và bao gồm một số bản nhạc khác, mặc dù thiết kế bìa gần như vẫn giữ nguyên.) Cứ như là những người lữ hành vừa vượt qua sa mạc đang khao khát cốc nước tươi mát, quần chúng hâm mộ đã nhiệt liệt mong đợi tác phẩm mới của ban Beatles, cùng ấn tượng tuyệt vời từ hình ảnh đen trắng của bốn siêu sao Beatles trong bóng mờ trên bìa album tráng lệ, đã là những yếu tố quyết định cho thành công rực rỡ đó.

Điều thu hút tôi là hình ảnh cô ấy ôm chặt album như thể nó là một thứ gì vô-giá. Nếu không có bức ảnh trên bìa album thì cảnh tượng đó có thể đã chẳng làm tôi mê mẩn đến như thế. Chắc chắn là nhờ có âm nhạc trong đấy nữa chứ. Thế nhưng vẫn còn phải có thêm một thứ gì khác, một thứ gì đấy lớn lao hơn nhiều kia. Và, ngay lập tức, bức tranh ngày đó đã khắc sâu vào trái tim tôi—một loại cảnh-quan tâm-linh chỉ có thể tìm thấy ở chốn đó, ở một độ tuổi nhất định, ở một địa điểm nhất định và một thời điểm nhất định.

Đối với tôi, sự kiện lớn nhất của năm sau đấy, 1965, không phải là việc Tổng thống Johnson ra lệnh ném bom Bắc Việt Nam và leo thang chiến tranh, hay việc phát hiện ra một loài mèo rừng mới trên đảo Iriomote, mà là sự kiện tôi đã có bạn gái. Cô ấy học cùng lớp với tôi vào năm thứ nhất, nhưng mãi đến năm thứ hai, chúng tôi mới bắt đầu hẹn hò từ một dịp tình cờ.

Để tránh mọi hiểu lầm, tôi muốn nói trước rằng tôi không đẹp trai gì mấy, chưa bao giờ là một ngôi sao thể thao, và thành tích học tập không có gì nổi bật. Mà khả năng ca hát của tôi còn cần nhiều cố gắng trau dồi thêm, và tôi lại không có khiếu ăn nói. Khi còn đi học, rồi những năm sau đó nữa, tôi chưa bao giờ có được nhiều cô gái hâm mộ. Chẳng phải tự hào gì, chứ đó là một trong số ít điều tôi có thể nói quả quyết được trong cuộc đời chẳng có gì chắc chắn này. Tuy vậy, dường như vẫn luôn có một cô gái ở đâu đấy, vì lý do nào đó chẳng hiểu, quan tâm đến tôi mà tìm đến. Trong trường học thì cùng lớp thế nào cũng có một cô bạn như thế. Thành thật mà nói thì tôi chẳng biết các cô ấy có hứng thú gì hay thích gì ở tôi. Thế nhưng tôi vẫn đã có thể tận hưởng những khoảng thời gian thân mật, vui thú với các cô ấy. Tôi đã trở thành bạn tốt của vài người trong số họ, và đôi khi đưa được mối quan hệ lên một tầm cao mới. Cô gái mà tôi đang nói đến ở đây là một trong các cô gái như thế, cô gái đầu tiên mà tôi có mối quan hệ thực sự thân thiết.

Cô bạn gái đầu tiên này của tôi nhỏ nhắn dễ thương. Mùa hè năm đó, tôi đã hẹn hò với cô ấy một lần mỗi tuần. Buổi chiều nọ, tôi đã hôn lên đôi môi chưa đủ đầy đặn và chạm vào đôi vú cô ấy qua nịt ngực. Cô mặc một chiếc áo đầm trắng cộc tay, tóc cô thoảng mùi chanh dầu gội đầu.

Cô ấy hầu như không quan tâm đến ban Beatles. Mà cũng chẳng thích nhạc jazz. Cô chỉ thích nghe loại nhạc êm dịu hơn kia, được gọi là nhạc của giai cấp trung lưu — Mantovani Orchestra, Percy Faith, Roger Williams, Andy Williams, Nat King Cole, v.v. (Vào thời đó, “trung lưu” không phải là một thuật ngữ xúc phạm chút nào.) Nhà cô có rất nhiều đĩa nhạc như vậy, ngày nay thì được phân loại là nhạc “easy listening – dễ nghe.”

Buổi chiều ấy, cô đã đặt một đĩa nhạc lên máy quay đĩa trong phòng khách nhà cô, nơi có một giàn âm thanh nổi thật hoành tráng. Và chúng tôi ngồi trên chiếc ghế sofa lớn, thoải mái mà hôn nhau. Người nhà cô ấy đã đi đâu cả rồi, chỉ còn hai đứa chúng tôi. Nói cho thành thật thì, trong tình huống như vậy, tôi không thực sự quan tâm đến chuyện loại nhạc nào đang được chơi.

Những gì tôi còn nhớ rõ về mùa hè năm 1965 ấy là chiếc áo đầm trắng, mùi hương chanh dầu gội đầu của cô, cảm giác kiên cố của chiếc nịt ngực có gọng kim loại (vào thời đó, nịt ngực giống như một pháo đài hơn là một món đồ lót), và màn trình diễn tao nhã của giàn nhạc Percy Faith Orchestra diễn tấu bản “Nhạc chủ đề phim ‘A Summer Place'” của Max Steiner. Ngay cả bây giờ, mỗi khi nghe bản “Nhạc chủ đề phim ‘A Summer Place'”, chiếc ghế sofa ngày ấy lại hiển hiện trong tâm trí tôi.

Tình cờ, vài năm sau đó —năm 1968, như tôi nhớ, cùng thời điểm Robert Kennedy bị ám sát— thầy giáo chỉ đạo lớp chúng tôi đã treo cổ tự tử từ sà ngang trên bệ cửa sổ nhà mình. Ông đã dạy môn công dân giáo dục. Nghe nói bế tắc ý thức hệ gì đấy là nguyên nhân khiến ông tự tử.

Bế tắc ý thức hệ kia à? Nhưng đúng thế đấy, vào cuối những năm sáu mươi, đôi khi người ta tự tử vì đã va phải bức tường ý thức hệ. Tuy không thường xuyên cho lắm.

Tôi có cảm giác thực sự kỳ lạ khi nghĩ: đúng vào buổi chiều hôm đó, lúc tôi và cô bạn gái đang vụng về âu yếm nhau trên ghế sofa, trong nhạc nền du dương của giàn nhạc Percy Faith, thì thầy giáo công dân giáo dục đang tiến từng bước một tới tuyệt vọng chí tử về mặt tư tưởng, hay nói cụ thể hơn, tới nút thắt âm thầm mà chặt chẽ của sợi dây thừng. Đôi khi tôi còn cảm thấy có lỗi nữa kia. Trong tất cả các giáo viên mà tôi biết, ông đã là một người thầy giỏi bậc nhất. Ông có là người thành công hay không lại là một chuyện khác, nhưng ông luôn luôn cố gắng đối xử công bằng với học sinh của mình. Tôi chưa bao giờ nói chuyện với ông ngoài lớp học, nhưng tôi nhớ về ông như thế.

Giống như 1964, năm 1965 cũng là năm của The Beatles. Họ phát hành đĩa “Eight Days a Week” vào tháng 2, “Ticket to Ride” tháng 4, “Help!” tháng 7, và “Yesterday” vào tháng 9, tất cả đều đứng đầu bảng xếp hạng ở Mỹ. Có vẻ như chúng tôi nghe nhạc của Beatles hầu như mọi lúc, khắp mọi nơi bao quanh chúng tôi, cứ như là giấy dán tường được dán kín từng phân vuông trên tường vậy.

Còn khi nhạc của Beatles không được chơi, thì đã có “(I Can’t Get No) Satisfaction” của Rolling Stones, hay “Mr. Tambourine Man” của Byrds, hay “My Girl” của Temptations, hay “You’ve Lost That Lovin’ Feelin'” của Righteous Brothers, hay “Help Me, Rhonda” của Beach Boys. Cả Diana Ross và ban Supremes cũng có vài bản hit nối tiếp nhau. Liên tục một chuỗi những bản thuộc loại nhạc tuyệt vời, vui tươi này được lọc qua chiếc radio bán dẫn hiệu Panasonic nhỏ bé của tôi. Thật là một năm huy hoàng đáng kinh ngạc của nhạc pop.

Tôi nghe nói rằng thời kỳ hạnh phúc nhất trong đời người là giai đoạn mà các bản nhạc pop thực sự có ý nghĩa, dần dần tự nhiên mà thẩm thấu đến mức sâu đậm nhất vào trong lòng chúng ta. Có thể đúng thế thật. Hoặc có thể không. Rốt cuộc, chỉ là các bản nhạc pop thôi, chẳng là gì khác cả. Và có thể cuộc đời của chúng ta rốt cuộc cũng chỉ là những món đồ trang trí, dùng một lần rồi thôi.

Nhà bạn gái tôi ở gần đài phát thanh Kobe mà tôi luôn luôn bật lên nghe. Tôi nghĩ cha cô ấy đã nhập khẩu, hoặc xuất khẩu, các thiết bị y tế. Tôi không rõ chi tiết. Dù sao đi nữa, ông ấy cũng đã có công ty riêng có vẻ đang làm ăn phát đạt. Nhà họ nằm trong một rừng thông gần biển. Tôi nghe nói nơi đó từng là biệt thự mùa hè của một doanh nhân nào đấy mà gia đình cô ấy đã mua và tân trang lại. Có hàng thông xào xạc trong gió biển. Nơi hoàn hảo để nghe “Nhạc chủ đề phim ‘A Summer Place'”

Nhiều năm sau, tôi tình cờ xem một chương trình phát sóng giờ khuya trên TV về phim năm 1959 “A Summer Place”. Một phim Hollywood điển hình về tình yêu tuổi trẻ, nhưng dù vậy vẫn đã thành công bền bĩ lâu dài. Trong phim có rừng thông bên bờ biển, xao động trong gió mùa hè theo nhịp kèn của giàn nhạc Percy Faith. Cảnh những cây thông xao động trong gió như một ẩn dụ khiến tôi liên tưởng đến ham muốn tình dục mãnh liệt của tuổi trẻ. Nhưng đó có thể chỉ là quan điểm của riêng tôi, góc nhìn thiên vị của tôi thôi.

Trong phim ấy, Troy Donahue và Sandra Dee bị cuốn hút vào cơn bão tình dục mãnh liệt đó và vì thế, họ đã gặp phải đủ loại vấn đề trong thế giới thực tại. Rồi những hiểu lầm được tiếp nối bằng sự hòa giải, những chướng ngại được xóa bỏ như sương mù tan đi, và cuối cùng hai người trở lại với nhau và kết hôn.

Với Hollywood vào những năm 50, kết thúc có hậu luôn luôn liên quan đến hôn nhân, tạo ra một môi trường cho những người yêu nhau có thể quan hệ tình dục hợp pháp. Tất nhiên, bạn gái tôi và tôi thì đã không kết hôn. Chúng tôi còn đang học trung học, và tất cả những gì chúng tôi làm chỉ là vụng về sờ mó và hôn nhau trên ghế sofa trong nền “Nhạc chủ đề phim ‘A Summer Place'”

“Anh biết không?” cô ấy nói với tôi trên ghế sofa, giọng nhỏ như thể đang thú nhận. “Em là mẫu người thực sự hay ghen đấy.”

“Thật thế sao?” Tôi hỏi.

“Em muốn chắc chắn rằng anh biết điều đó.”

“Được thôi.”

“Đôi khi ghen tuông như vậy thì khổ não lắm đấy.”

Tôi lặng lẽ vuốt tóc cô ấy. Lúc đó, tôi không thể tưởng tượng ra được cảm giác ghen tuông cháy bỏng như thế nào, nguyên nhân là gì, và dẫn đến chuyện gì. Tôi đang quá bận tâm với cảm xúc ngay lúc đó của chính mình.

Chuyện bên lề là, Troy Donahue, ngôi sao trẻ tuổi đẹp trai đó, sau này đã sa đọa vì rượu và ma túy, ngừng đóng phim, thậm chí thành vô gia cư trong một thời gian. Cả Sandra Dee cũng đã vật lộn với chứng nghiện rượu. Và Donahue đã kết hôn với nữ diễn viên nổi tiếng Suzanne Pleshette vào năm 1964, nhưng họ đã ly dị tám tháng sau đó. Sandra Dee kết hôn với ca sĩ Bobby Darin vào năm 1960, nhưng rồi ly hôn năm 1967. Rõ ràng là những chuyện này hoàn toàn không liên quan đến cốt chuyện của phim “A Summer Place”. Và cũng không liên quan gì đến số phận của tôi và cô bạn gái ấy.

Bạn gái tôi có một người anh và một em gái. Em gái đang học năm thứ hai trung học cơ sở nhưng cao hơn chị mình khoảng nửa tấc. Tuy không đặc biệt xinh đẹp. Thêm vào đấy lại đeo kính cận dày. Nhưng bạn gái tôi rất thương em gái của mình. “Thành tích của em ở trường thực tốt”, cô nói với tôi. Còn thành tích của bạn gái tôi thì tôi nghĩ chỉ ở mức trung bình. Cũng cỡ như tôi thôi.

Một lần, cô em ấy đã đi theo xem phim cùng chúng tôi. Có lý do nào đấy khiến chúng tôi phải cho cô em đi theo. Phim đó là “The Sound of Music”. Rạp chiếu phim chật kín, vì vậy chúng tôi đã phải ngồi ngay phía trước, và tôi nhớ việc xem phim màn ảnh rộng 70 ly đó ở khoảng cách quá gần khiến mắt tôi đau nhức vào khoảng cuối phim. Thế nhưng, bạn gái tôi lại như phát cuồng vì các bản nhạc trong phim. Sau đó cô đã mua đĩa nhạc phim ấy nghe đi nghe lại không chán. Còn tôi lại thích “My Favorite Things” qua phiên bản kỳ diệu của John Coltrane hơn nhiều, nhưng tôi nghĩ nói lên điều đó với cô ấy là vô ích, nên đã chẳng bao giờ nhắc đến.

Em gái của cô có vẻ không thích tôi lắm. Mỗi khi gặp nhau, cô em đều nhìn tôi bằng đôi mắt lạ lẫm, hoàn toàn không có cảm xúc, như thể cô đang đánh giá xem khúc cá khô trong góc tủ lạnh còn ăn được hay không. Mà vì lý do gì đấy, ánh mắt đó luôn luôn khiến tôi cảm thấy tội lỗi. Khi cô em ấy nhìn tôi, cô như phớt lờ vẻ bề ngoài (tuy quả thật chẳng có gì đáng nhìn) mà nhìn thấu suốt đến tận đáy lòng tôi. Có thể tôi đã cảm thấy như thế vì tôi thực sự cảm thấy xấu hổ và tội lỗi trong lòng.

Người anh thì lớn hơn cô bạn tôi bốn tuổi, hồi đó anh ấy ít nhất cũng đã hai mươi tuổi rồi. Cô ấy không giới thiệu anh với tôi và hầu như không bao giờ nhắc đến anh. Nếu anh ấy tình cờ xuất hiện trong câu chuyện của chúng tôi, cô ấy liền khéo léo thay đổi đề tài. Bây giờ tôi thì có thể thấy rằng thái độ của cô ấy có phần mất tự nhiên. Tuy chẳng phải là tôi suy nghĩ gì nhiều về điều đó. Tôi không quan tâm mấy đến gia đình cô ấy. Điều thu hút tôi đến với cô ấy là một động lực cấp bách hơn nhiều.

Lần đầu tiên tôi gặp và nói chuyện với anh cô ấy là vào cuối mùa thu năm 1965. Chủ Nhật đó, tôi đến nhà để đón cô ấy. Tôi bấm chuông liên tục nhưng không ai trả lời. Tôi dừng lại một lúc, rồi lại bấm chuông liên tục, cho đến khi cuối cùng tôi nghe có ai đó tiến về phía cửa. Đó là anh của bạn gái tôi.

Anh ấy cao hơn tôi một chút và hơi to con. Không phải là mập nhão mà giống như một thể-tháo-gia hơn, tuy vì lý do nào đó, không được tập thể dục trong một thời gian nên đã tăng thêm vài cân, chỉ là mỡ tạm thời. Anh có bờ vai rộng nhưng cần cổ gầy khá dài. Tóc anh rối bù, chĩa ra khắp hướng, như thể vừa mới thức dậy. Tóc trông cứng và thô, có vẻ đã quá hạn cắt tóc hai tuần rồi. Anh mặc một chiếc áo len cổ tròn màu xanh biển, cổ áo rộng, và quần nỉ màu xám rộng thùng thình quanh đầu gối. Ngoại hình của anh hoàn toàn trái ngược với bạn gái tôi, cô ấy luôn luôn gọn gàng, sạch sẽ và tề chỉnh.

Anh ta nheo mắt nhìn tôi một lúc, giống như một con thú lôi thôi lếch thếch sau một thời gian dài đông miên, vừa mới bò ra ánh sáng mặt trời.

“Tôi đoán cậu là… bạn của Sayoko?”

Anh ta hỏi trước khi tôi kịp nói gì. Rồi đằng hắng. Giọng anh ngái ngủ, nhưng tôi có thể cảm nhận được một chút tò mò trong đó.

“Đúng vậy,” tôi nói và tự giới thiệu. “Tôi được nhắn đến đây lúc mười một giờ.”

“Sayoko không có ở đây lúc này,” anh ấy nói.

“Không có ở đây ạ?” tôi nói, lặp lại lời anh ấy.

“Cô ấy đi đâu đó rồi. Không có ở nhà.”

“Nhưng hôm nay tôi phải đến đón cô ấy lúc mười một giờ mà.”

“Thế sao?” anh cô nói. Anh liếc nhìn bức tường bên cạnh, như thể tìm xem đồng hồ.

Nhưng ở đó không có đồng hồ, chỉ có một bức tường thạch cao trắng. Anh miễn cưỡng quay lại nhìn tôi. “Có thể là vậy, nhưng thực tế là cô ấy không ở nhà.”

Tôi không biết mình nên làm gì cho phải. Và có vẻ anh cô ấy cũng thế. Anh ngáp rõ dài và gãi gãi sau đầu. Mọi hành động của anh đều chậm rãi và chừng mực.

“Có vẻ chả có ai ở nhà bây giờ,” anh nói. “Khi tôi thức dậy cách đây một lúc thì đã không có ai ở đây. Họ hẳn đã ra ngoài cả rồi, nhưng tôi không biết đi đâu.”

Tôi im lặng.

“Có lẽ bố tôi đi chơi golf. Các em tôi hẳn đã ra ngoài đi chơi rồi. Cả mẹ tôi cũng ra ngoài, là điều hơi lạ. Chuyện không thường xảy ra đấy.”

Tôi kiềm chế để không suy đoán gì. Đâu phải là chuyện gia đình của tôi.

“Nhưng, nếu Sayoko đã hứa sẽ ở đây, thì tôi chắc chắn là cô ấy sẽ sớm quay lại thôi,” anh trai cô ấy nói. “Sao cậu không vào trong nhà mà đợi?”

“Tôi không muốn làm phiền anh. Tôi chỉ đi chơi đâu đó một lúc rồi quay lại thôi,” tôi nói.

“Không, có gì phiền đâu,” anh ấy nói, quả quyết. “Sẽ phiền hơn nhiều khi phải nghe tiếng chuông reo lần nữa và lại phải ra mở cửa trước. Vậy cậu nên vào đi.”

Không còn lựa chọn nào khác, nên tôi bước vào trong, và anh ấy đưa tôi đến phòng khách. Phòng khách có chiếc ghế sofa mà cô ấy và tôi đã âu yếm nhau vào mùa hè. Tôi ngồi xuống đó, và anh của bạn gái tôi ngồi xuống chiếc ghế bành đối diện. Và một lần nữa anh lại ngáp rõ dài.

“Cậu là bạn của Sayoko đấy nhỉ?” anh ấy hỏi lại, cho chắc một lần nữa.

“Đúng vậy,” tôi nói, trả lời như trước.

“Không phải bạn của Yuko chứ?”

Tôi lắc đầu. Yuko là cô em cao hơn cô ấy.

“Đi chơi với Sayoko có thú vị không nào?” anh ấy hỏi, ánh mắt tò mò.

Tôi không biết phải trả lời thế nào, nên im lặng. Anh ngồi đó, chờ tôi trả lời.

“Vui thích, đúng thế,” tôi nói, cuối cùng cũng tìm được lời đáp hy vọng là đúng.

“Vui thì có vui, nhưng không thú vị chứ gì?”

“Không, ý tôi đâu phải vậy…” Lời lẽ của tôi dần cạn.

“Chả sao cả,” anh nói. “Thú vị hay vui thích, tôi cho là cũng chả có gì khác biệt. Này, cậu đã ăn sáng chưa nào?”

“Tôi đã ăn sáng rồi, anh ạ.”

“Tôi định nướng bánh mì đây. Chắc chắn là cậu không muốn ăn chứ?”

“Không đâu,” tôi trả lời.

“Cà phê thì sao nào?”

“Không, cảm ơn anh.”

Thật ra thì có thể uống một ít cà phê, nhưng tôi ngần ngại chuyện tham gia quá nhiều vào gia đình bạn gái, nhất là khi cô ấy không ở nhà.

Anh cô ấy đứng dậy, không nói lời nào mà rời khỏi phòng. Một lúc sau, tôi nghe thấy tiếng bát đĩa cốc chén va nhau. Tôi nán lại một mình trên ghế sofa, lễ độ ngồi thẳng lưng, hai tay đặt trên đùi, chờ cô ấy quay lại từ bất cứ nơi nào cô ấy đang có mặt. Đồng hồ lúc này chỉ mười một giờ mười lăm.

Tôi lục lại trí nhớ xem chúng tôi có thực sự đã hẹn nhau rằng tôi phải đến đây lúc mười một giờ không. Nhưng, dù có nghĩ đi nghĩ lại bao nhiêu lần, tôi vẫn chắc chắn rằng mình đã nhớ đúng ngày giờ hẹn. Chúng tôi đã nói chuyện qua điện thoại vào đêm hôm trước và đã xác nhận giờ hẹn đó. Cô ấy không phải là mẫu người hay quên hoặc thất hứa. Và thật kỳ lạ quá, chuyện cả cô ấy và gia đình cùng nhau đi đâu vào sáng Chủ Nhật mà để anh cô ấy ở nhà một mình.

Bối rối về tất cả những điều đó, tôi kiên nhẫn ngồi chờ. Thời gian trôi qua thật chậm chạp. Thỉnh thoảng tôi nghe tiếng động từ nhà bếp: tiếng vòi nước mở, tiếng thìa trộn thứ gì đó, tiếng tủ đóng mở. Anh này có vẻ là mẫu người thích gây ồn ào, bất kể đang làm gì. Nhưng chỉ có vậy thôi, nếu kể về âm thanh. Không có gió thổi bên ngoài, không có tiếng chó sủa. Giống như lớp bùn vô hình, sự im lặng lì lợm len lỏi vào tai tôi bịt kín lại. Tôi phải nuốt nước bọt vài lần để thông tai.

Giá lúc này mà có được âm nhạc thì tuyệt vời. “Nhạc chủ đề từ phim ‘A Summer Place'”, “Edelweiss”, “Moon River”,… bất cứ thứ gì cũng được. Tôi chả kén chọn. Chỉ cần tiếng nhạc. Nhưng tôi không thể bật lên giàn âm thanh nổi trong nhà người ta mà không xin phép. Tôi nhìn xung quanh tìm thứ gì đó để đọc nhưng chẳng thấy bất kỳ tờ báo hay tạp chí nào. Tôi kiểm những thứ bên trong xách đeo vai của mình. Tôi hầu như luôn luôn có trong xách một cuốn sách bìa mềm đang đọc dở dang, nhưng ngay hôm đó thì lại không có.

Khi chúng tôi hẹn hò, bạn gái và tôi thường giả vờ rằng chúng tôi sẽ đến thư viện để học chung, và tôi để những thứ liên quan đến trường học vào túi xách làm nghi trang. Giống như một tên tội phạm không-chuyên bịa ra bằng chứng ngoại-phạm mong manh. Cuốn sách duy nhất tôi đã mang theo trong túi xách ngày hôm đó chỉ là một cuốn sách giáo khoa bổ sung cho môn “Ngôn ngữ và Văn học Nhật Bản”. Tôi miễn cưỡng rút cuốn đó ra, bắt đầu lật từng trang. Tôi không phải là mẫu người đáng gọi là “độc giả” thực thụ, những người đọc sách chăm chú một cách có hệ thống; mà đúng hơn, chỉ là mẫu người khó có thể giết thời gian nếu không có thứ gì đó để đọc. Tôi chẳng bao giờ có thể im lặng ngồi yên được. Tôi luôn phải lật từng trang sách hoặc nghe nhạc, một trong hai cách đó thôi. Khi không có sách xung quanh mình, tôi sẽ nắm lấy bất cứ thứ gì được in ra. Tôi đọc cả niên giám điện thoại, cẩm nang sử dụng bàn là hơi nước,… So với những loại tư liệu chữ in đó, một cuốn sách giáo khoa bổ sung cho môn “Ngôn ngữ và Văn học Nhật Bản” còn tốt hơn nhiều lắm.

Tôi tùy hứng mà đọc lướt qua các tác phẩm hư cấu và tiểu luận trong sách ấy. Một số là của các tác giả nước ngoài, nhưng hầu hết là của các nhà văn Nhật Bản hiện đại nổi tiếng—Akutagawa Ryunosuke, Tanizaki Jun-ichiro, Abe Kobo,… Kèm theo mỗi tác phẩm —tất cả là các đoạn trích, ngoại trừ một số ít truyện thật ngắn— còn có một số câu hỏi. Hầu hết các câu hỏi này hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì. Với những câu hỏi vô nghĩa ấy, thật khó (hoặc không thể) xác định một cách hợp lý rằng liệu các câu trả lời có đúng hay không. Tôi nghi ngờ liệu ngay cả người soạn ra các câu hỏi đó có thể quyết đoán câu trả lời đúng hay sai được không. Những câu hỏi như “Trò có thể thu thập được gì từ đoạn văn này về lập trường của tác giả đối với chiến tranh?” hoặc “Khi tác giả mô tả hiện tượng tròn rồi khuyết của mặt trăng, loại hiệu ứng tượng trưng nào được tạo ra?” Người đọc có thể đưa ra hầu như bất kỳ câu trả lời nào. Ngay cả nói rằng mô tả chuyện tròn khuyết của mặt trăng chỉ đơn giản là mô tả chuyện tròn khuyết thế thôi, chẳng tạo ra hiệu ứng tượng trưng nào ráo, thì cũng không ai có thể chắc chắn được rằng câu trả lời ấy là sai. Tất nhiên là cũng có đôi câu trả lời tương đối hợp lý, thế nhưng tôi không thực sự nghĩ rằng việc đưa ra một câu trả lời “tương đối” hợp lý là mục tiêu của việc nghiên cứu văn học.

Dù vậy, tôi đã giết thời gian bằng cách cố gắng nghĩ ra câu trả lời cho từng câu hỏi này. Và trong hầu hết các trường hợp, những gì nảy ra trong trí tôi —trong bộ não tôi còn đang phát triển và trưởng thành, phải đấu tranh hàng ngày để đạt được một loại độc lập về tâm lý— là những câu trả lời tương đối vô lý nhưng không nhất thiết là sai lầm. Có lẽ xu hướng đó là một trong những lý do khiến thành tích của tôi ở trường không đáng khen mấy.

Trong khi tôi còn đang loay hoay tìm kiếm những câu trả lời như thế thì anh của bạn gái tôi đã trở lại phòng khách. Tóc anh vẫn còn dựng ngược chĩa ra mọi hướng, nhưng có lẽ vì đã ăn sáng nên mắt anh không còn ngái ngủ như trước nữa. Anh cầm một cốc cà phê lớn màu trắng có in hình một chiếc máy bay hai tầng cánh của nước Đức trong Thế chiến thứ nhất, với hai khẩu súng máy ở phía trước buồng lái. Hẳn là chiếc cốc đặc biệt của riêng anh ấy. Chứ tôi không thể tưởng tượng bạn gái mình uống gì từ một chiếc cốc như vậy.

“Cậu thực sự không muốn uống cà phê sao?” anh ấy hỏi.

Tôi lắc đầu. “Không. Xin anh đừng lo. Thật mà.”

Áo len của anh ấy được trang trí bằng vụn bánh mì. Đầu gối quần nỉ của anh cũng vậy. Có lẽ anh đói lắm rồi nên đã ăn ngấu nghiến bánh mì nướng mà không để ý gì đến vụn bánh mì vương vãi khắp nơi. Tôi tưởng tượng rằng điều đó có thể làm phiền lòng bạn gái tôi, vì cô ấy luôn luôn trông rất gọn gàng tề chỉnh. Bản thân tôi cũng thích gọn gàng tề chỉnh, một phẩm chất chung đã là một phần lý do tại sao chúng tôi hòa hợp, tôi nghĩ vậy.

Anh cô ấy liếc nhìn lên tường. Bức tường này thì có treo một cái đồng hồ. Kim đồng hồ chỉ gần mười một giờ ba mươi.

“Cô ấy vẫn chưa về, phải không? Cô ấy có thể đi đâu thế chứ?”

Tôi vẫn lặng thinh.

“Cậu đang đọc gì thế?”

“Một cuốn sách đọc thêm cho sách giáo khoa tiếng Nhật đấy.”

“Hừm,” anh ấy nói, hơi nghiêng đầu. “Có thú vị gì không?”

“Không thú vị gì lắm. Chỉ vì tôi chẳng có gì khác để đọc.”

“Cho tôi xem được không?”

Tôi trao anh ấy quyển sách qua chiếc bàn thấp. Anh cầm cốc cà phê bằng tay trái, còn tay phải nắm quyển sách. Tôi lo anh sẽ làm đổ cà phê lên sách. Có vẻ như điều đó sắp xảy ra. Thế nhưng anh ấy không làm đổ cà phê. Anh đặt cốc đánh cạch xuống mặt bàn kính, cầm quyển sách bằng cả hai tay mà bắt đầu lật từng trang.

“Thế cậu đang đọc phần nào?”

“Vừa nãy tôi đang đọc truyện ‘Bánh xe răng cưa’ của Akutagawa. Chỉ có một phần của câu chuyện được trích lại trong đó thôi, không phải toàn bộ.”

Anh ấy suy nghĩ một chút rồi nói. “Bánh xe răng cưa’ là một tác phẩm tôi chưa bao giờ đọc. Mặc dù tôi đã đọc truyện ‘Hà-đồng’ của ông ấy từ rất lâu rồi. ‘Bánh xe răng cưa’ không phải là một câu chuyện khá đen tối đấy sao?”

“Đúng thế. Ông ấy đã viết nó ngay trước khi mất.” Akutagawa đã dùng thuốc quá liều khi mới ba mươi lăm tuổi. Ghi chú trong cuốn sách bổ sung của tôi có viết rằng “Bánh xe răng cưa” được xuất bản vào năm 1927 sau khi ông mất. Truyện ấy gần như là di chúc cuối cùng của ông.

“Hừm,” anh bạn gái tôi nói. “Cậu có thể đọc to lên cho tôi nghe được không?”

Tôi ngạc nhiên nhìn anh ấy. “Đọc lớn lên, ý anh là thế à?”

“Ừ. Tôi luôn luôn thích được người khác đọc cho nghe. Bản thân tôi không phải là người đọc giỏi.”

“Tôi thì không đọc lớn giỏi được.”

“Có sao đâu. Cậu không cần phải đọc giỏi. Chỉ cần đọc theo đúng thứ tự là được rồi. Chứ có vẻ như chúng ta chẳng có việc gì khác để làm cả mà.”

“Nhưng truyện ấy khá thần kinh và buồn chán đấy,” tôi nói.

“Đôi khi tôi thích nghe loại truyện như thế. Kiểu như, lấy cái ác chống lại cái ác ấy mà.”

Anh ấy trao cuốn sách lại cho tôi, rồi cầm lấy cốc cà phê có in hình máy bay hai tầng cánh và huy hiệu Thập tự sắt, nhấp một ngụm. Rồi ngả lưng vào ghế bành mà đợi buổi đọc sách bắt đầu.

Thế là rốt cuộc, ngày chủ nhật đó, tôi đã phải đọc một phần tác phẩm “Bánh xe răng cưa” của Akutagawa cho người anh lập dị của bạn gái tôi. Thoạt đầu tôi hơi miễn cưỡng, nhưng dần rồi cũng thấy thích công việc này. Cuốn sách bổ sung ấy có hai phần cuối của câu chuyện —“Ánh sáng đỏ” và “Máy bay”— nhưng tôi chỉ đọc “Máy bay” thôi. Truyện ấy dài khoảng tám trang, và kết thúc bằng câu “Không ai có đủ lòng thương xót để siết cổ tôi khi tôi ngủ hay sao?” Akutagawa đã tự tử ngay sau khi viết dòng này.

Tôi đọc xong xuôi rồi, nhưng vẫn chưa có ai trong gia đình này về tới nhà cả. Điện thoại không reo, và không có tiếng quạ kêu bên ngoài. Bốn bề xung quanh hoàn toàn tĩnh lặng. Ánh nắng mùa thu chiếu sáng phòng khách qua tấm rèm ren. Chỉ có thời gian trôi chậm rãi, đều đặn. Anh của bạn gái tôi ngồi đó, khoanh tay, nhắm mắt, như thể đang thưởng thức những dòng cuối cùng tôi đã đọc: “Tôi không còn sức để viết nữa. Thật đau đớn không lời nào diễn tả được khi phải tiếp tục sống mà cảm thấy như thế này. Không ai có đủ lòng thương xót để siết cổ tôi khi tôi ngủ hay sao?

Cho dù có thích lối viết này hay không, thì vẫn có một điều rõ ràng rằng: đây chẳng phải là câu chuyện phù hợp để đọc vào một ngày Chủ Nhật tươi sáng, quang đãng. Tôi gấp sách lại, liếc nhìn đồng hồ trên tường. Mới hơn mười hai giờ.

“Chắc là có hiểu lầm gì đó rồi”, tôi nói. “Tôi nghĩ là nên kiếu từ ở đây thôi”. Tôi dợm đứng lên khỏi ghế sofa. Mẹ tôi thường nhắc nhở tôi từ thuở nhỏ rằng không nên làm phiền nhà người ta vào giờ ăn. Dù tốt dù xấu, lời dặn này đã thấm vào người tôi mà trở thành thói quen như phản xạ.

“Cậu đã chờ lâu đến thế này rồi, sao không đợi thêm ba mươi phút nữa?” anh cô ấy nói. “Cứ đợi thêm ba mươi phút nữa, mà nếu cô ấy vẫn chưa trở lại thì cậu ra về cũng được chứ?”

Lời anh ấy nói nghe hợp lý lạ lùng, nên tôi ngồi xuống và lại đặt hai tay lên đùi.

“Cậu đọc to giỏi lắm,” anh ấy nói, giọng thành thực cảm kích. “Đã có ai nói với cậu như thế chưa?”

Tôi lắc đầu.

“Nếu cậu không thực sự nắm vững được nội dung thì không thể đọc được giỏi như vậy đâu. Nhất là phần cuối đặc biệt hay.”

“Ồ,… ” tôi trả lời mơ hồ. Tôi cảm thấy đôi má của mình ửng hồng. Lời khen có vẻ không đúng chỗ, khiến tôi cảm thấy không thoải mái. Nhưng tôi lo rằng mình sẽ phải nói chuyện thêm ba mươi phút nữa với anh ấy. Anh dường như cần có người để nói chuyện.

Anh chắp hai lòng bàn tay lại trước mặt, như thể đang cầu nguyện, rồi đột nhiên thốt lên: “Câu hỏi này nghe có vẻ kỳ lạ, nhưng có bao giờ cậu bị mất trí nhớ chưa?”

“Mất trí nhớ à?”

“Như là, từ thời điểm này đến thời điểm khác, cậu không thể nào nhớ là mình đã ở đâu hoặc đang làm gì.”

Tôi lắc đầu. “Tôi không nghĩ mình từng bị như vậy.”

“Vậy là cậu nhớ rõ trình tự thời gian và chi tiết về những gì cậu đã làm?”

“Nếu đó là chuyện mới xảy ra gần đây, thì vâng, tôi nghĩ là nhớ được.”

“Hừm,” anh ấy nói và gãi sau đầu một lúc, rồi nói. “Tôi đoán thế thì là bình thường đấy.”

Tôi chờ anh nói tiếp.

“Thực ra, đã có vài lần trí nhớ của tôi đột nhiên biến mất. Ví dụ như lúc 3 giờ chiều, trí nhớ của tôi bị cắt đứt, cho đến khi tôi nhận biết là 7 giờ tối rồi, tôi không thể nhớ mình đã ở đâu, hoặc đã làm gì, trong suốt bốn giờ đó. Mà chẳng phải là đã có chuyện gì đặc biệt xảy ra cho tôi. Chẳng hạn tôi bị đánh vào đầu hoặc say xỉn hay bất cứ chuyện gì khác. Tôi chỉ đang làm những việc thường ngày, thế rồi không có gì báo trước, trí nhớ của tôi bị cắt đứt mất. Tôi không thể dự đoán được khi nào điều đó sẽ xảy ra. Và tôi hoàn toàn không biết trí nhớ của mình sẽ biến mất trong bao lâu, bao nhiêu giờ, thậm chí là bao nhiêu ngày nữa.”

“Thế kia à…” tôi lẩm bẩm, cho anh ấy biết rằng tôi đang theo dõi lời anh.

“Hãy tưởng tượng là cậu đã thu âm một bản giao hưởng của Mozart vào máy ghi âm. Mà khi phát lại, âm thanh nhảy tắt từ giữa chương thứ hai đến giữa chương thứ ba, những gì đáng lẽ phải có ở khoảng giữa đó đã biến đâu mất. Y như thế. Khi tôi nói ‘biến mất’, tôi không có ý nói rằng có một đoạn băng im lặng đâu. Chỉ biến mất đi thôi. Cậu hiểu ý tôi chứ?”

“Tôi đoán thế,” tôi nói với giọng không chắc chắn mấy.

“Nếu chỉ là âm nhạc, thì có hơi bất tiện, nhưng không thực sự gây hại gì, phải không nào? Thế nhưng, nếu xảy ra trong cuộc sống thực tế, thì khó chịu lắm đấy, tin tôi đi… Cậu hiểu ý tôi chứ?”

Tôi gật đầu.

“Cứ như là cậu ra đến phía tối sau lưng mặt trăng mà trở về tay không vậy.”

Tôi gật đầu lần nữa. Tôi không chắc mình đã hoàn toàn nắm bắt được cách so sánh tương đương này.

“Điều đó là do một thứ rối loạn di truyền gây ra, và những trường hợp rõ ràng như của tôi thì khá hiếm. Chỉ có khoảng một trong số hàng vạn người là bị mắc chứng rối loạn trí nhớ này. Và không chỉ hiếm đến thế thôi, thậm chí còn có thêm nhiều khác biệt giữa những người đó nữa. Vào năm cuối trung học cơ sở, tôi đã được một bác sĩ thần kinh tại bệnh viện đại học khám bệnh. Mẹ tôi đã đưa tôi đi.”

Anh ấy ngừng lại một chút, rồi tiếp: “Nói cách khác, đó là tình trạng mà trình tự ký ức của mình bị rối loạn. Một phần ký ức bị cất giấu trong ngăn kéo sai lầm. Và gần như không thể, hoặc thực sự không thể nào tìm lại được nữa. Đó là lối giải thích của họ đối với tôi. Không phải là loại rối loạn khủng khiếp có thể gây tử vong, hoặc khiến mất trí dần dần. Nhưng nó gây ra vấn đề trong cuộc sống hàng ngày. Họ nói với tôi danh xưng của chứng rối loạn đó và đưa cho tôi một số loại thuốc để uống, nhưng những viên thuốc đó chẳng có tác dụng gì cả. Chỉ là loại giả-dược trấn an thôi.”

Anh ấy im lặng một hồi, chăm chú nhìn xem tôi có hiểu không. Như thể anh đang đứng bên ngoài ngôi nhà nhìn tôi đăm đăm qua kính cửa sổ.

“Tôi lên cơn như vậy một hoặc hai lần mỗi năm,” cuối cùng anh ấy nói. “Không thường xuyên lắm, nhưng tần suất không phải là vấn đề. Khi lên cơn, nó gây ra những vấn đề thực sự. Ngay cả chuyện chỉ hiếm khi xảy ra đi nữa, thì mất trí nhớ như vậy mà chẳng biết khi nào sẽ xảy ra, cũng là khá khủng khiếp rồi. Cậu hiểu thế chứ?”

“Ừm…” tôi ậm ừ mơ hồ. Tôi chỉ có thể phản ứng như vậy khi theo dõi câu chuyện kỳ dị mà biến chuyển quá nhanh của anh ấy.

“Giống như trường hợp giả thử rằng đúng lúc lên cơn, trí nhớ của tôi đột nhiên mất đi, và trong khoảng thời gian đó, tôi cầm một cái búa lớn đập vỡ đầu ai đó, một người tôi không thích. Thế thì không đời nào có thể xóa hết tội lỗi chỉ bằng cách nói suông rằng, ‘Ồ, thế này thì thật khó xử cho tôi!’ Phải vậy không?”

“Có lẽ vậy.”

“Cảnh sát sẽ vào cuộc và nếu tôi nói với họ, ‘Vấn đề là trí nhớ của tôi đã bay đâu mất rồi,’ thì họ đâu có tin được, phải không nào?”

Tôi lắc đầu.

“Thực ra có một vài người tôi không thích chút nào. Những kẻ thực sự làm tôi phát cáu. Bố tôi là một trong số đó. Nhưng khi tỉnh táo, tôi đâu muốn đập đầu ông bằng búa, đúng không? Tôi có thể kiềm chế được chứ. Thế nhưng khi trí nhớ mất đi thì tôi không còn biết mình sắp làm gì nữa.”

Tôi nghiêng đầu một tí, không đưa ra bất kỳ ý kiến gì.

“Bác sĩ bảo rằng không có nguy cơ điều như thế xảy ra cho tôi đâu. Không phải như, khi trí nhớ của tôi mất đi, kẻ nào đó sẽ chiếm đoạt cả tính cách của tôi nữa. Giống như chuyện Bác sĩ Jekyll và Ông Hyde đấy. Bởi tôi luôn luôn là chính mình mà. Chỉ có chuyện phần ghi âm đó nhảy vọt từ giữa chương thứ hai sang giữa chương thứ ba mà thôi. Chứ tôi luôn luôn kiểm soát được mình và hành xử bình thường trong hầu hết thời gian. Như Mozart không đột nhiên biến thành Stravinsky. Mozart vẫn là Mozart, chỉ có một phần ký ức biến mất vào ngăn kéo nào đó thôi.”

Đến đây, anh im lặng và nhấp một ngụm từ tách cà phê có in hình máy bay hai tầng cánh của anh. Tôi chợt ước gì mình cũng có cà phê để uống lúc này.

“Ít nhất thì đấy là những gì bác sĩ bảo tôi. Nhưng làm sao tin được tất cả những lời bác sĩ nói? Khi tôi còn học trung học, tôi đã sợ phát khiếp khi nghĩ rằng có thể ngày nào đó, tự mình không biết mình đang làm gì, mà đập vỡ đầu một đứa bạn cùng lớp bằng búa. Chứ khi còn học trung học, mình vẫn chưa biết mình là ai, phải thế không nào? Thêm nỗi đau mất trí nhớ vào đó nữa thì làm thế nào mà chịu đựng cho được.”

Tôi im lặng gật đầu. Có thể anh ấy nói đúng.

“Tôi gần như đã ngừng tới trường học vì tất cả những điều đó,” anh nói tiếp. “Càng nghĩ về chúng, tôi càng khiếp đảm, đến nỗi không thể tự mình lết đến trường. Mẹ tôi đã giải thích tình hình với giáo viên của tôi, và mặc dù tôi đã nghỉ học quá nhiều lần, họ vẫn gắng tạo ra một ngoại lệ mà cho tôi tốt nghiệp. Tôi hình dung rằng nhà trường muốn loại ra ngoài một học sinh có vấn đề như tôi càng sớm càng tốt. Nhưng rồi tôi đã không vào đại học.

Điểm của tôi không tệ đến vậy, và tôi có thể vào một trường đại học nào đó, nhưng tôi không đủ tự tín để ra khỏi nhà. Kể từ đó, tôi thích quanh quẩn ở trong nhà thôi. Tôi dắt chó đi dạo, nhưng ngoài ra hầu như không hề ra khỏi nhà. Những ngày này, tôi không cảm thấy hoảng loạn hay gì cả. Nếu mọi thứ lắng xuống một chút nữa, tôi nghĩ có thể tôi sẽ bắt đầu đi học đại học.”

Rồi anh ấy im lặng, và tôi cũng vậy. Tôi không biết phải nói gì. Bây giờ thì tôi đã hiểu tại sao bạn gái tôi không bao giờ muốn nói về anh cô ấy.

“Cảm ơn cậu đã đọc truyện đó cho tôi nghe,” anh ấy nói. “‘Bánh xe răng cưa’ khá hay đấy. Một câu chuyện đen tối, hẳn thế, nhưng một số đoạn thực sự khiến tôi xúc động. Cậu chắc chắn không muốn uống cà phê chứ? Chỉ mất một phút thôi mà.”

“Không, anh đừng bận tâm, thật đấy. Tôi rời ngay đây thôi.”

Anh lại liếc nhìn đồng hồ trên tường. “Sao cậu không đợi đến một giờ, và nếu không có ai quay lại thì hẵng đi cũng được. Tôi sẽ ở trong phòng mình trên lầu, để cậu tự do, lúc nào đi cũng được. Không cần phải lo về tôi.”

Tôi gật đầu.

“Thế đi chơi với Sayoko có thú vị không?” anh ấy lại hỏi một lần nữa.

Tôi gật đầu. “Thú vị chứ.”

“Về mặt nào?”

“Có quá nhiều điều về cô ấy mà tôi chưa biết,” tôi trả lời. Một câu trả lời rất thành thực, tôi nghĩ.

“Hừm,” anh nói, suy nghĩ lung lắm. “Cậu nhắc nên tôi hiểu rồi. Cô ấy là em gái tôi, có quan hệ huyết thống, cùng di truyền các thứ, và chúng tôi đã sống chung dưới một mái nhà từ khi cô ấy chào đời, thế nhưng vẫn còn rất nhiều điều tôi chưa hiểu về cô ấy. Tôi không hiểu cô ấy… Nói thế nào nhỉ? Điều gì khiến cô ấy hành xử như thế? Vì vậy, tôi thích chuyện cậu có thể hiểu những điều đó hộ tôi. Mặc dù có thể có những điều mà tốt nhất là đừng cố gắng tìm hiểu.”

Cầm tách cà phê trên tay, anh ấy đứng dậy khỏi ghế bành.

“Dù sao thì hãy cố gắng hết sức nhé”, anh nói. Rồi vẫy tay từ biệt mà rời khỏi phòng.

“Cảm ơn anh”, tôi nói.

Đến một giờ chiều, vẫn chưa thấy ai quay lại, nên tôi một mình ra cửa trước, xỏ chân vào đôi giày thể thao mà rời đi. Tôi đi qua rừng thông đến nhà ga, nhảy lên tàu điện về nhà. Buổi chiều Chủ Nhật mùa thu tĩnh mịch yên lặng lạ thường.

Tôi nhận được điện thoại từ cô bạn gái sau 2 giờ chiều. “Anh đáng lẽ sẽ đến vào Chủ Nhật tuần sau cơ mà”, cô ấy nói. Tôi không hoàn toàn đồng ý, nhưng cô nói rất xác quyết như thế nên có lẽ cô ấy đúng. Tôi thuận thảo xin lỗi vì đã đến nhà cô ấy sớm đến cả một tuần. Tôi không nhắc đến việc trong lúc chờ cô ấy về, anh cô và tôi đã nói chuyện, tuy có lẽ “nói chuyện” không phải là từ ngữ thích hợp, vì về cơ bản tôi đã chỉ lắng nghe anh ấy nói thôi. Và tôi nghĩ có lẽ tốt nhất là không nên kể lại rằng tôi đã đọc tác phẩm của Akutagawa Ryunosuke “Bánh xe răng cưa” cho anh ấy nghe, và anh đã tiết lộ với tôi rằng anh bị bệnh mất trí nhớ. Nếu anh ấy không nói với cô những điều ấy, thì không có lý do gì để tôi nói ra.

*

Mười tám năm sau, tôi gặp lại anh cô ấy. Đúng vào giữa tháng Mười. Khi đó tôi ba mươi lăm tuổi, sống ở Tokyo với vợ. Công việc khiến tôi bận rộn và tôi hầu như không bao giờ quay lại Kobe.

Một buổi chiều muộn, tôi đi bộ lên một ngọn đồi ở Shibuya để lấy chiếc đồng hồ đang được sửa chữa. Tôi đang đi dọc theo con đường, đắm chìm trong suy nghĩ, thì một người đàn ông đã vừa đi ngang qua quay lại gọi tôi.

“Xin lỗi,” anh ta nói, giọng Kansai không thể nhầm lẫn. Tôi dừng chân quay lại và nhìn thấy một người đàn ông mà tôi không nhận ra là ai. Anh ta trông già hơn tôi một chút, và cao hơn một chút. Anh mặc một chiếc áo khoác vải tuýt dày màu xám, áo len cashmere cổ tròn màu kem và quần chinos màu nâu. Tóc anh ngắn, thân hình săn chắc của một thể-tháo-gia, và làn da rám nắng (trông như của người chơi golf). Khuôn mặt hơi thô nhưng vẫn thu hút. Đẹp trai, tôi nghĩ vậy. Tôi có cảm giác rằng đây là một người đàn ông hài lòng với cuộc sống của mình. Tôi đoán anh ta con nhà gia thế.

“Tôi không nhớ tên anh, nhưng anh có phải là bạn trai của em gái tôi một thời gian đấy không?” anh ta hỏi.

Tôi lại nhìn kỹ khuôn mặt anh ta. Nhưng tôi không nhớ ra được.

“Em gái anh là…”

“Sayoko”, anh ta nói. “Tôi nghĩ hai người học cùng lớp hồi trung học đấy”.

Mắt tôi dừng lại ở một vết nhỏ nước sốt cà chua trên mặt trước áo len màu kem của anh. Anh ta ăn mặc chỉnh tề, nên vết bẩn nhỏ đó khiến tôi thấy không thích hợp. Và rồi tôi nhận ra, đây là người anh có đôi mắt ngái ngủ và chiếc áo len xanh biển cổ rộng rắc vụn bánh mì đấy mà.

“Tôi nhớ ra rồi”, tôi nói. “Anh là anh của Sayoko. Chúng ta đã gặp nhau một lần ở nhà anh, đúng không nào?”

“Đúng rồi. Anh đã đọc truyện ‘Bánh xe răng cưa’ của Akutagawa cho tôi nghe.”

Tôi cười. “Nhưng tôi ngạc nhiên là anh có thể nhận ra tôi trong đám đông thế này. Chúng ta chỉ gặp nhau có một lần, mà cũng đã lâu lắm rồi.”

“Tôi không chắc tại sao, nhưng tôi không bao giờ quên một khuôn mặt người ta. Thêm vào đó, anh có vẻ không thay đổi chút nào cả.”

“Nhưng anh đã thay đổi khá nhiều,” tôi nói. “Bây giờ anh trông khác quá.”

“Ờ… đã nhiều nước chảy qua cầu rồi,” anh nói, mỉm cười. “Như anh biết đấy, mọi thứ đã khá phức tạp với tôi trong một thời gian dài.”

“Sayoko thế nào rồi anh?” Tôi hỏi.

Anh nhìn lảng sang bên với vẻ bối rối, hít vào từ từ, rồi thở ra. Như thể đang đo lường mật độ không khí xung quanh mình.

“Thay vì đứng đây trên phố, sao chúng ta không đến một nơi nào đó để ngồi xuống mà nói chuyện nhỉ? Nếu anh không quá bận,” anh ấy nói.

“Tôi không có việc gì gấp,” tôi nói với anh ấy.

“Sayoko đã qua đời rồi,” anh ấy nói khẽ.

Chúng tôi ngồi đối diện nhau qua một chiếc bàn nhựa trong một quán cà phê gần đấy.

“Đã qua đời?”

“Cô ấy đã mất rồi. Ba năm trước đây.”

Tôi bàng hoàng không nói nên lời. Cảm thấy như lưỡi mình đang sưng phồng lên trong miệng. Tôi cố nuốt nước bọt đang dâng trào lên.

Lần cuối tôi gặp Sayoko thì cô ấy hai mươi tuổi, vừa mới lấy được bằng lái xe. Cô ấy đã lái xe đưa tôi lên đỉnh núi Rokko ở Kobe, trên chiếc xe mui cứng Toyota Crown màu trắng của cha cô. Tay lái vẫn còn hơi vụng, nhưng cô ấy trông rất phấn khởi khi lái xe. Và đúng như tôi dự đoán, đài phát thanh đang phát một bản nhạc của Beatles. Tôi nhớ rất rõ đấy là bản “Xin chào và Từ biệt.” có câu “Em nói từ biệt, khi tôi nói xin chào.” Như tôi đã nói trước đây, nhạc của Beatles tràn lan khắp nơi thời đó.

Tôi không thể nắm được sự thật rằng cô ấy đã chết và không còn tồn tại trên thế giới này nữa. Tôi không biết phải diễn đạt thế nào nữa, điều đó có vẻ siêu thực quá.

“Cô ấy… mất như thế nào?” Tôi hỏi, miệng khô khốc.

“Cô ấy đã tự tử,” anh ấy nói, như thể đang thận trọng lựa lời. “Khi cô ấy hai mươi sáu tuổi, cô kết hôn với một đồng nghiệp trong công ty bảo hiểm nơi cô ấy làm việc, sau đó có hai đứa con, rồi tự tử. Chỉ mới ba mươi hai tuổi.”

“Cô ấy mất, để lại hai đứa con?”

Anh cô bạn gái cũ của tôi gật đầu. “Đứa lớn là con trai, đứa nhỏ con gái. Chồng cô ấy đang chăm sóc chúng. Thỉnh thoảng tôi đến thăm chúng. Những đứa trẻ tuyệt vời.”

Tôi vẫn gặp khó khăn trong việc theo dõi tất cả sự kiện thực tế của câu chuyện. Bạn gái cũ của tôi đã tự tử, để lại hai đứa con nhỏ kia à?

“Tại sao cô ấy lại làm thế chứ?”

Anh lắc đầu. “Chẳng ai hiểu tại sao. Cô ấy không tỏ ra là đang gặp rắc rối hay trầm cảm gì cả. Sức khỏe của cô ấy tốt, mọi thứ có vẻ hòa thuận giữa cô và chồng cô, và cô ấy yêu thương các con mình. Mà cô cũng chẳng để lại di-thư hay thứ gì khác. Bác sĩ đã kê đơn thuốc ngủ cho cô ấy. Cô ấy đã cất trữ thuốc rồi uống hết cùng một lúc. Vì vậy, có vẻ như cô ấy đã có ý định tự tử trước rồi. Cô ấy muốn chết, và trong sáu tháng liền, đã cất giấu thuốc từng chút một. Không phảỉ là chuyện bốc đồng đột ngột.”

Tôi im lặng một hồi lâu. Anh ấy cũng vậy. Mỗi người chúng tôi đắm chìm trong suy nghĩ của riêng mình.

Ngày nọ, trong một quán cà phê trên đỉnh núi Rokko, bạn gái tôi và tôi đã chia tay nhau. Tôi khoảng đó đang học đại học ở Tokyo và đã yêu một cô gái ở đấy. Tôi đã thẳng thắn thú nhận tất cả chuyện này, và cô ấy hầu như không nói một lời nào, chỉ cầm lấy túi xách, đứng dậy vội vã ra khỏi quán cà phê, thậm chí không thèm ngoảnh lại.

Tôi đã phải đi cáp treo một mình xuống núi. Cô ấy hẳn đã lái chiếc Toyota Crown màu trắng đó về nhà. Ngày đó nắng đẹp tuyệt, và tôi nhớ đã có thể nhìn thấy toàn cảnh Kobe qua cửa sổ của thuyền du ngoạn gondola. Một quang cảnh tuyệt đẹp.

Sayoko sau đó đã lên đại học, làm việc tại một công ty bảo hiểm lớn, kết hôn với một đồng nghiệp của cô, có hai đứa con, rồi để dành thuốc ngủ mà tự tử.

Sớm muộn gì thì tôi cũng sẽ chia tay với cô ấy. Nhưng dù sao, tôi vẫn có rất nhiều kỷ niệm đẹp về những năm tháng chúng tôi bên nhau. Cô ấy là bạn gái đầu tiên của tôi và tôi rất yêu cô ấy. Cô đã là người dạy tôi biết về cơ thể phụ nữ. Chúng tôi đã cùng nhau thể nghiệm đủ thứ mới mẻ, cùng nhau chia sẻ những khoảng thời gian tuyệt vời, những gì chỉ có thể có được trong tuổi thiếu niên.

Thật khó cho tôi giờ đây phải nói ra điều này, nhưng mà cô ấy thì chưa bao giờ rung lên tiếng chuông đặc biệt kia trong tai tôi. Tôi đã cố lắng nghe hết sức mình, nhưng không một lần nào nghe được. Thật đáng buồn. Cô gái tôi quen ở Tokyo mới là người đã làm được cho tôi điều đó. Đây không phải là điều mình có thể lựa chọn tự do, theo luận lý hay đạo đức. Bởi chỉ có thể hoặc xảy ra hoặc không mà thôi. Khi điều đó xảy ra thì tự động xảy ra, trong ý thức của mình hoặc ở một nơi sâu thẳm trong tâm hồn.

“Anh biết không,” anh của cô bạn gái cũ tôi nói, “tôi chưa bao giờ nghĩ, chưa một lần nào, rằng Sayoko sẽ tự tử. Tôi đã nghĩ dù cho tất cả mọi người khác trên thế giới này đều tự sát cả đi nữa, cô ấy vẫn cứ đứng vững, cứ sống và khỏe mạnh. Hóa ra là sai cả. Tôi đã không thể nào xem cô ấy là mẫu người dễ bị vỡ mộng, hay có bóng tối gì đấy ẩn giấu bên trong. Thành thật mà nói, tôi chỉ nghĩ cô ấy có hơi nông cạn. Tôi chưa bao giờ chú ý nhiều đến cô ấy, và cô ấy cũng thế đối với tôi, tôi nghĩ vậy. Có lẽ chỉ là vì chúng tôi không cùng chung tần sóng… Thực ra thì, tôi hòa thuận hơn với người em gái út kia. Nhưng giờ đây, tôi cảm thấy như thể mình đã làm điều gì đó tệ bạc đối với Sayoko, khiến tôi đau lòng. Có lẽ tôi chưa bao giờ thực sự hiểu cô ấy. Chưa bao giờ hiểu gì ráo cả về cô ấy. Có lẽ tôi đã quá bận tâm đến cuộc sống của chính mình thôi. Có lẽ một người như tôi không có đủ sức mạnh để cứu mạng cô ấy. Nhưng dù vậy đáng lẽ tôi đã phải hiểu được đôi điều về cô ấy, cho dù chẳng bao nhiêu đi nữa. Bây giờ tôi cảm thấy thật khó mà chịu đựng nổi. Tôi đã quá kiêu ngạo, quá ích kỷ mất rồi.”

Tôi chẳng thể nói gì được với anh. Có lẽ chính tôi cũng đã chẳng hiểu cô ấy chút nào. Giống như anh ấy, tôi quá bận tâm với cuộc sống của riêng mình.

Anh cô bạn gái cũ của tôi nói tiếp, “Trong truyện mà anh đọc cho tôi nghe hồi đó, ‘Bánh xe răng cưa’ của Akutagawa có một đoạn nói về việc một phi công quen hít thở không khí trên cao nên rồi không thể chịu đựng được việc hít thở không khí ở đây trên mặt đất này nữa… ‘Bệnh máy bay’, họ gọi như vậy. Tôi không biết đó có phải là một bệnh thực sự hay không, nhưng vẫn nhớ mãi những câu văn đó.”

“Thế anh đã vượt qua được tình trạng đôi khi trí nhớ của anh bay mất hay chưa?” Tôi hỏi anh ấy. Tôi muốn chuyển đề tài khỏi Sayoko.

“Ồ, đúng rồi. Chuyện đó,” anh ấy nói, nheo mắt lại một chút. “Cũng hơi kỳ lạ, nhưng nó đã tự nhiên biến mất. Đó là một chứng rối loạn di truyền càng nặng dần theo thời gian, bác sĩ nói thế, nhưng rồi đã biến mất hút, cứ như là tôi chưa từng mắc phải. Như thể một hồn ma quỷ gì đấy đã bị trục xuất đi vậy.”

“Tôi rất vui mừng khi nghe thế,” tôi nói. Và tôi thực sự vui mừng cho anh.

“Nó xảy ra không lâu sau lần tôi gặp anh đấy. Sau đó, tôi không bao giờ còn bị mất trí nhớ như vậy nữa, không một lần nào cả. Tôi đã cảm thấy bình tĩnh hơn, tôi đã có thể vào được một trường đại học kha khá, tốt nghiệp, rồi tiếp quản công việc kinh doanh của bố tôi. Mọi thứ đã đổi chiều trong vài năm sau đó, nhưng giờ thì tôi có được một cuộc sống bình thường thôi.”

“Tôi rất vui mừng khi nghe thế,” tôi nhắc lại. “Vậy là rốt cuộc anh không đập đầu ông bố bằng búa.”

“Anh cũng nhớ chuyện ngớ ngẩn kia đấy nhỉ,” anh ấy nói, và cười lớn. “Dù vậy, anh biết đấy, tôi không thường xuyên đi công tác ở Tokyo lắm đâu, thật lạ lùng là tình cờ gặp anh như thế này ở chốn đô thành rộng lớn này. Tôi không khỏi cảm thấy rằng có điều gì đó đã đưa chúng ta lại gần nhau.”

“Chắc chắn rồi,” tôi nói.

“Còn anh thì sao nào? Anh đã sống ở Tokyo suốt từ đấy đến nay sao?”

“Tôi đã kết hôn ngay sau khi tốt nghiệp đại học,” tôi nói với anh ấy, “và đã sống ở Tokyo suốt từ đó. Bây giờ tôi kiếm sống bằng nghề viết lách.”

“Một nhà văn?”

“Vâng. Theo một nghĩa nào đó.”

“Thế thì, anh thực sự rất giỏi đọc to,” anh ấy nói. “Có thể làm phiền anh khi tôi phải nói với anh điều này, nhưng tôi nghĩ Sayoko luôn luôn thích anh nhất đấy.”

Tôi không trả lời anh. Mà anh cũng không nói gì thêm nữa.

Và thế là chúng tôi từ biệt nhau. Tôi đi lấy chiếc đồng hồ đã sửa chữa xong, còn anh cô bạn gái cũ của tôi thong thả đi xuống đồi đến ga Shibuya. Dáng người mặc áo khoác bằng vải tuýt ấy bị đám đông buổi chiều nuốt chửng mất.

Tôi không bao giờ gặp lại anh ấy nữa. Cơ hội đã đưa chúng tôi đến với nhau lần thứ hai. Với khoảng cách gần hai mươi năm không gặp, hai thành phố cách nhau ba trăm dặm, chúng tôi đã ngồi đấy, cách nhau một chiếc bàn, nhâm nhi cà phê và nói chuyện về một đôi điều. Nhưng chẳng phải là những đề tài có thể tán gẫu cho vui bên tách cà phê. Hẳn phải có hàm ý gì đấy trong sự kiện xảy ra như thế, về ý nghĩa gì đấy bao hàm trong hành vi thực hiện cuộc sống của mỗi người chúng tôi. Tuy kết cuộc vẫn chỉ là một hàm ý ngẫu nhiên được kết tinh một cách tình cờ. Chẳng có yếu tố gì liên kết chúng tôi lại với nhau một cách có hệ thống hoặc hữu cơ vượt quá tính ngẫu nhiên ấy. (Thử hỏi xem liệu có những yếu tố nào trong cuộc đời của hai người đàn ông này được ngụ ý một cách tượng trưng qua hai cuộc gặp gỡ và trò chuyện ấy chăng?)

Tôi cũng không bao giờ gặp lại cô gái xinh tươi dễ thương đã ôm đĩa LP “With the Beatles” ngày xưa nữa. Không biết từ ngày đó cô ấy có còn bước vội xuống hành lang trường trung học mờ tối năm 1964 ấy, gấu váy tung tăng theo bước chân cô? Cho đến cả bây giờ, cô ấy mười sáu tuổi vẫn cầm trên tay tấm bìa album tuyệt đẹp với bức ảnh nửa sáng nửa tối của John, Paul, George và Ringo, ôm đĩa LP ấy áp chặt vào ngực mình.

Phạm Vũ Thịnh dịch

Sydney 22 August 2025

bài đã đăng của Haruki Murakami

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)