![]()
Đinh Từ Bích Thúy và các em, Mùa Thu 1975
Hôm nay là thứ Ba, và cũng như thứ Hai và thứ Năm trong tuần, Mai phải về nhà ngay sau giờ học để giúp mẹ. Bà Thiên, mẹ của Mai, vừa phải trông Darren, bé trai một tuổi của bà Morrissey, vừa phải chăm sóc đứa em trai mười lăm tháng của Mai. Từ lúc bố Mai được việc làm full-time tại một nhà máy gần nhà, bà Thiên phải ở nhà một mình cả ngày, trông nom hai thằng bé con và lo trăm ngàn việc linh tinh khác trước khi bố Mai về nhà từ sở làm.
Gia đình Mai mới định cư ở Rosemont được sáu tháng kể từ khi rời trại tị nạn Pendleton, và mặc dù tiếng Anh của Mai không khá hơn mẹ bao nhiêu, nhưng là con gái lớn trong nhà, con bé đương nhiên trở thành phụ tá của bà Thiên trong mọi khía cạnh của đời sống mới.
Bà Thiên đang cho Darren ăn khi Mai về đến nhà. Thằng bé Mỹ mũm mĩm, với mái tóc màu ngô, làn da trắng sữa, đôi mắt bi xanh và má phính táo đỏ. Hôm nay Darren diện bộ đồ thủy thủ với áo thun sọc ngang và quần đùi bleu marine. Như thường lệ, thằng bé đi đôi giày da cao cổ, rịn chặt ống chân mập mạp. Mẹ nó, bà Kelly Morrissey, nhân viên cho một công ty du lịch địa phương, cao thanh như người mẫu trong áo măng tô màu cát, trả cho bà Thiên 2 đô la một giờ, 30 giờ một tuần để chăm sóc Darren. Sáng sớm đầu tiên mang Darren đến gửi, bà Morrissey căn dặn bà Thiên là không được cởi giày của Darren trong bất kỳ trường hợp nào, ngay cả khi tắm hoặc lúc bỏ nó vào cái võng máy để ngủ trưa. Ông Minh, bố Mai, cảm thấy khó hiểu trước lời dặn dò của bà Morrissey. Người Mỹ quả là một giống người kỳ lạ! Ông Minh nói Darren hẳn phải là một thằng nhóc yêu tinh với đôi chân quỷ, họa chăng chân nó có tật nên mới phải đi giày luôn như thế, hay là mình thử cởi giày nó xem sao, nhưng bà Thiên gạt phắt, nói anh không được đùa như vậy, tôi tôn trọng lời yêu cầu của Kelly vì cô ta là mẹ thằng nhỏ thì phải biết nó hơn ai hết. Ông Minh là một người viết có tiếng hồi còn ở Việt Nam, nhưng bà Thiên thường phàn nàn bà không biết khi nào chồng mình nghiêm túc và khi nào đùa nhả.
Mai mơ ước được trở thành một nhà văn giống như bố nó. Có thể vài ba tháng nữa nó sẽ viết và nói tiếng Anh trôi chảy hơn, để rồi trong tương lai nó sẽ xuất bản tiểu thuyết bằng tiếng Anh, cho người Mỹ đọc, và chắc chắn nó cũng sẽ thành công như bố nó đã thành công với tiếng Việt. Nhưng nó không chia sẻ giấc mơ này với ai cả. Thư viện ở trường chính là giáo đường của Mai, và nó thường cảm thấy bực bội khi phải chạy vội vàng về nhà sau giờ học để phụ giúp mẹ. Nó vừa khám phá ra một kệ sách trong thư viện nhà trường có đề mục “Việt Nam / Đông Nam Á,” với những tựa sách như Fire in the Lake, The Quiet American, The Ugly American, Where is Vietnam: American Poets Respond to the War. Có quá nhiều thứ để học và đọc, quá nhiều điều mà hiện nay nó rất mù mờ: lý do gia đình nó phải bay sang Mỹ tị nạn, và lịch sử can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam và các quốc gia khác. Ở lứa tuổi 13, Mai bồn chồn muốn kết hợp quá khứ, hiện tại và tương lai thành một vũ trụ lấp lánh của khái niệm toàn tri. Nhưng vẫn còn quá nhiều cản trở trong hiện thực–một bế tắc như bãi lầy–mà nó bằng mọi giá phải vượt qua.
Bà Thiên nói với Mai bồn rửa bát trong bếp bị nghẽn nước, và Mai cần gọi thợ sửa ống nước ngay lập tức vì sắp đến giờ làm cơm tối và sau đó Mai cũng phải dùng bồn để rửa bát. Vừa mới về nhà nhưng đầu óc Mai đã căng thẳng. Nó tra cứu quyển từ điển Việt-Anh Lê Bá Kông với bìa hồng xác pháo đã tơi tả, gần như sắp long ra khỏi gáy sách. Thợ sửa ống nước là plumber trong tiếng Anh. Mai mở quyển Yellow Pages, tìm được công ty J.R. Plumbers và quay số điện thoại. Nhưng khi một giọng nữ trả lời ở đầu dây bên kia thì Mai hoảng sợ. Nó không có đủ từ ngữ tiếng Anh để giải thích vấn đề, “Làm ơn … thợ sửa ống nước mau đến, bồn rửa chén không hoạt động.” Một dòng tiếng Anh dồn dập tấn công từ đầu dây bên kia, gì đó gì đó bận rộn gì đó gì đó sáng mai. Mai khẩn khoản lập lại từng chữ, “Không, không, hôm nay, hôm nay phải đến.” Nhưng trước khi nó có thể nói tiếp, người phụ nữ ở đầu giây bên kia đã cúp máy.
Bà Thiên ngước lên từ bàn ăn, nhìn Mai với ánh mắt nửa hy vọng, nửa dò xét. Darren đã ăn xong, nhưng bây giờ mặt mũi, hai bên tai và tóc thằng bé nhoe nhoét đầy vệt thức ăn nhuyễn từ lọ thức ăn “Harvest Turkey and Peas” của hãng Gerber dành cho em bé Mỹ dưới hai tuổi. Bà Morrissey dặn cứ để Darren tự ăn lấy mỗi bữa, vì đó là cách bà muốn con mình tự lập. Tuy bà Thiên tôn trọng chuyện bà Morrissey không cho cởi giày của Darren, bà lo thằng bé sẽ thiếu ăn nếu để mặc nó tự túc, nên bà kiên nhẫn đút món ăn nhuyễn cho nó từng bữa, cho đến lúc nó bắt đầu lắc lư cựa quậy vì chán món ăn, rồi thổi bong bóng phì phì, vung, trét mọi thứ từ miệng lên người. Sau mỗi bữa ăn bà Thiên đều cẩn thận tắm cho Darren bằng sữa tắm em bé mùi dâu hiệu Johnson’s, trong lúc vẫn giữ nguyên đôi giày nó trên chân. Em trai của Mai là Toàn, chưa biết nói nhưng có đủ răng để nhai cơm Việt Nam giống như mọi người trong gia đình Mai, thường nhìn Darren chằm chằm, với ngón tay cái trong khóe miệng. Bên cạnh Darren trắng trẻo và tươm tất, Toàn trông đúng là một bé Mít da vàng tiêu biểu, ghen tị nhưng nhẫn nhục vì nó không hiểu sao thằng bé da trắng khổng lồ này lại chen vào gia đình nó và chiếm gần hết sự chăm sóc của mẹ. Dấu hiệu căng thẳng duy nhất của bé Toàn là cách nó mút chùn chụt ngón tay cái đỏ hoe gần thành chai.
Mai không biết nói gì với mẹ về cú phôn với J.R. Plumbers vừa rồi. Cuộc sống mới của gia đình Mai ở vùng ngoại ô Virginia làm nó chợt nghĩ đến những con lươn cố chạy thoát chậu nước ngâm muối hạt có tác dụng làm lươn bị ngộp thở rồi quẫy chết — những khoảnh khắc ngo ngoe, bấp bênh, trơn trượt. Qua những show mà nó được xem trên chương trình truyền hình Mỹ hằng đêm, những tai họa kiểu Mỹ thường được diễn tả quá mức, với nhà cửa, xe cộ nổ tung hoặc mọi người la hét trước mặt nhau, hay thậm chí thì bắn giết lẫn nhau, nhưng ở đây, trong ngôi nhà này, nó trải nghiệm những hoang mang hàng ngày trong sự im lặng xốn xang. Mỗi thành viên trong gia đình nó đều cố bảo bọc lẫn nhau, không ai to tiếng với ai, không ai dám nói lên những sợ hãi hay ngờ vực của mình, như thể những bức tường trong nhà, thoang thoảng mùi cơm chín và mùi nước mắm, đang bao tỏa chính bản thân từng người cũng như biệt lập họ ra khỏi thế giới bên ngoài.
Tiếng gõ cửa vang lên. Bà Thiên vỗ tay nói chắc người thợ sửa ống nước tới nơi rồi. Mai do dự. Con bé tiến đến cửa và mở ra he hé. Một người đàn ông lớn tuổi đội mũ phớt, trong bộ vest xám đang đứng trên bậc thềm trước nhà, bên tay phải là một cái va li da bò, có vẻ nặng. Ông mỉm cười và nghiêng đầu chào Mai. Với Darren nặng trĩu trên hông, bà Thiên tiến nhanh đến cửa, kéo rộng ra, nói tiếng Việt rằng bà rất biết ơn vì ông thợ sửa ống nước đến kịp lúc. Người đàn ông dường như bối rối nhưng vẫn giữ nụ cười khi bước vào nhà. Ông cẩn thận đặt mũ lên ghế sofa bọc nhựa, để va li xuống nền thảm lông xù, nhìn từ bà Thiên rồi đến Mai. Sau một lúc, ông chìa tay về phía bà Thiên, “Tôi tên là Paul. Rất hân hạnh gặp bà.” Bà Thiên bắt tay Paul nhưng nhìn sang Mai. Đứa con gái cảm thấy mình không còn lựa chọn nào khác ngoài việc diễn xuất theo kịch bản không đạo diễn, nói tiếng Anh như nó vẫn giúp mẹ thường ngày, theo kiểu một tài xế gà mờ lái xe sang số làm xe bị ngắc ngư, bập dập, “Bồn rửa bát đằng kia bếp, ông sửa? Nước không thoát.”
Mặt người đàn ông xưng là Paul hơi ngây ra một chút nhưng rất nhanh chóng ông đáp lại, “Tất nhiên. Bồn rửa bát. Chúng ta hãy cùng xem nào.” Ông ta xoa tay rồi sốt sắng theo Mai vào bếp. Đằng sau bà Thiên cất tiếng hỏi bằng tiếng Việt tại sao người đàn ông không mang theo cái vali đựng đồ của mình để sửa bồn, nhưng Mai phớt lờ mẹ. Có quá nhiều chuyện đang diễn ra khiến nó cảm thấy ngộp thở.
Paul mở vòi nước bồn rửa bát, nước đọng lại thành một vũng bé trong bồn. Ông bảo Mai đun sôi nước, rồi hỏi nó nhà có giấm và bột nở hay không. Ông nhìn quanh quất, nhanh trí lấy cái bát sứ để đựng bột nở, đổ giấm gần đầy vào bát, rồi dùng đũa tre hòa tan bột nở trong giấm và đổ hỗn hợp này xuống ống nước. Sau khoảng năm phút ông bảo Mai dội thẳng nước đang sôi từ ấm trên bếp xuống ống. Vài phút sau nữa, ông bật vòi nước. Tiếng nước chảy ồ ạt xuống ống nước chứng tỏ Paul đã giải quyết xong vấn đề. Ông lau tay, vui vẻ bước ra phòng khách, cầm mũ và va li, nghiêng đầu chào tạm biệt mẹ con Thiên. Bà Thiên ra dấu muốn trả tiền cho Paul nhưng ông ta xua tay, vừa ra khỏi cửa vừa ngoái lại, “Pay it forward!” Hai mẹ con không hiểu ông nói gì.
Sau khi Paul đi rồi, bà Thiên tấm tắc khen ông thợ sửa ống nước quý phái và tốt bụng, nói nếu người Mỹ nào cũng cư xử ân cần, quảng đại và hòa nhã như Paul thì đúng nước Mỹ là thiên đường cho dân tị nạn. Bây giờ Mai mới dám nói cho mẹ biết chuyện nó nghi Paul là một thương nhân bán hàng lưu động đã tình cờ xuất hiện đúng lúc hai mẹ con cần thợ sửa ống nước. Nhưng nếu vậy thì Mai cũng không biết Paul bán hàng hóa gì trong cái va li coi bộ nặng chịch của ông ta.
Tự điển Anh-Việt Lê Bá Kông xộc xệch bìa hồng —bùa hộ mệnh của Mai ở Mỹ sau mùa xuân gia đình nó phải hối hả rời Sàigòn—không có từ ngữ “Pay it forward.” Về sau Mai đoán lời nói của Paul có thể được hiểu là “Gieo hạt thiện tâm,” hoặc “Cho đi để nhận lại.” Đây có phải là triết lý sống của ông ta, hay lời khuyên xã giao để mẹ con Thiên khỏi áy náy về chuyện ông bất đắc dĩ phải đóng vai thợ sửa ống nước?
Khi Mai đọc kịch bản Death of a Salesman của Arthur Miller cho môn văn chương Mỹ lớp mười một, con bé đan kết Paul của đời thật với thương nhân Willy Loman trong thảm kịch kinh điển, nghĩ rằng nếu Willy Loman đã có cơ hội gặp một gia đình tị nạn Việt Nam trong những chuyến bán hàng rong cô đơn của ông dọc bờ biển miền Đông Mỹ thì biết đâu vở kịch sẽ rất khác.
Đinh Từ Bích Thúy
Feb. 2024