Trang chính » Sáng Tác, Tiểu thuyết Email bài này

lưu đày và quê nhà (kỳ 9)

Little Saigon

V

Ông đi lui đi tới tại một cửa hàng lớn bán đủ mọi thứ mà ta có thể cần đến hay không cần đến, thì đừng mua, coi thôi, coi giá cho biết để không bao giờ nhớ đến những bảng giá đó, vì không cần thiết, vì ông sắp sửa mua thứ khác ở một nơi khác theo lời Thi dặn, ghé lại đây chẳng qua để thấy cái gì hay hay cũng có thể tự ý mua làm quà cho cô gái, đàn bà con gái nào mà lại không thích quà, thì cứ tò mò nhìn kỹ các bảng giá làm gì khiến cho người bán hàng đi vội tới săn đón, giải thích, mời mọc một cách quá khẩn thiết đến nổi không ai có thể nói lời từ chối được, cô bán hàng có bộ ngực lộ liễu và nụ cười đẹp, cho nên ông muốn nhảy lẹ một bước vào cái thang máy cuốn kêu rè rè nho nhỏ đưa những đoàn người từ tầng ông đứng lên tầng trên, thế là thoát nợ, khỏi phải tìm cách nói quanh, nhưng ông không muốn làm cô ấy thất vọng, cô ấy đây là người bán hàng mà cũng có thể là cô gái đang ở nhà chờ ông về ăn món bún riêu đặc biệt do chính cô nấu, buổi sáng sớm khi ông đi làm thuận đường đưa cô đi học, cô đã dặn ông chiều nay nhớ ghé chợ Việt Nam mua rau kinh giới không có trong vườn mình, cà chua cũng mua vì cà chua ngoài vườn trái còn nhỏ và xanh quá, và một hũ mắm tôm, nhưng ông lại nghĩ rằng ông cũng phải mua thêm một món quà đắt tiền ở cửa hàng sang trọng và rộng mênh mông này, món hàng mà ông không biết chắc rằng Thi sẽ thích hay không, nếu không thích thì ngày hôm sau ông sẽ mang nó đi trả có sao đâu, ở đất Mỹ này tha hồ mang hàng đã mua trả lại cho cửa hàng, có thế người ta mới mạnh tay mua, có khi mua lỡ rồi lại lười mang trả, thì họ cũng bán được một món hàng mà người mua không thích, thì cứ mua rồi mang trả lại khi không có mặt cô bán hàng săn đón này, thế thì cũng mất đi thì giờ qúy báu đấy, nhưng cũng đành phải để mất, vì nhờ thế mà ông đã làm vừa lòng cả hai người đàn bà.

Nhưng ông nghĩ vậy thôi, vì ông cũng không biết mua cái gì, không phải vì ông tiếc tiền, mà vì ông bỗng nảy ra cái ý nghĩ rằng mình không việc gì phải có bổn phận chiều ý cô đứng bán hàng, mình chẳng qua đến gian hàng này là vì Thi chứ đâu phải vì người nào khác, tuy thế ông lại nghĩ tiếp hay tốt hơn hết là nhờ cô bán hàng chọn giùm một món quà, phái nữ vẫn hiểu sở thích của nhau hơn, cuối cùng cô bán hàng chọn cho ông cái nịt vú, buồn cười, thế ra cô ta đã đoán rằng mình mua quà cho bồ bịch, mà Thi có phải là bạn gái hay người yêu của mình đâu, trong khi đó năm bảy người đàn bà con gái khác cũng đang lui lui tới tới những dãy hàng này chọn lựa, trầm trồ bàn bạc, có người tò mò nhìn ông, ủa gả đàn ông này đến đây làm gì, chỗ bán đồ đàn bà mà, những con mắt đã nói lên như vậy, có điều cỡ nào thì vừa hả cô hàng, này, đại khái phải nhỏ hơn của cô chút ít mới được, ông vừa nói vừa đưa ngón tay chỉ trỏ vào ngực người bán hàng, ô, cái ông này đang làm gì đó, bộ không có miệng để nói à, mà nói bậy cũng mang tội sách nhiễu tình dục như thường, huống là, muốn ở tù hả, muốn bồi thường thiệt hại hả, mà mình nghĩ đi nghĩ lại có thiệt hại gì đâu, nó cũng không mòn đi chút nào, không sứt mẻ một sợi lông, đó là chưa kể trưng bày ra mà người ta không thèm ngắm tức là của ấy là của ôi, nhưng thôi, mình cứ nói xin lỗi đi, rằng đó là do vô tình mà làm vậy thôi, chứ không có “tà ý”, vậy thì cứ lựa cho tôi một hai cái nịt vú đi, cỡ nào cũng được, ông thầm nghĩ, vì ngày mai mình lại mang hàng đến trả, thế mà cô bán hàng cũng đọc được ý nghĩ ấy của ông, quay ngoắt người bỏ đi, cái ngực lớn không kín đáo nhưng hấp dẫn rung rung theo bước chân, ông nhìn theo và thử áng chừng sự khoái cảm của mình sẽ như thế nào nếu được gần gũi cô này so với những người đàn bà “đã đi qua đời tôi”, này này, toàn là những ý nghĩ đen tối, rối nùi, xấu xa, bỉ ổi, hạ cấp, nham nhở, mà mọi người bình thường trong xã hội đều lên án.

Nhưng đối với Thi, ông luôn luôn đóng vai người lớn nghiêm nghị, đứng đắn, và đau khổ nữa, có một chút đau khổ mới có nét hấp dẫn, thỉnh thoảng giả vờ đôi chút nhưng cũng có khi đau khổ thật, bứt rứt, khốn đốn thật, vì cũng như cái trống “Của em bưng bít vẫn bùi ngùi“, đó là nói về phần đàn bà con gái, đúng thế, cái trống bọc da bưng bít vẫn bùi ngùi sợ và mong sẽ có ngày bị hay được chọc thủng bởi chiếc dùi nặng tay, Nó thủng vì chưng kẻ nặng dùi, Hồ Xuân Hương nói ít khi sai, cho nên ông luôn luôn giấu giếm sự thèm thuồng đến quá bất chợt ông không thể ngờ tới, và ông biết Thi nó cũng biết thế, đàn bà tinh lắm, hai lỗ tai cũng là hai con mắt, cái gáy cũng là con mắt, tóc, vai, cánh tay, lưng, mông, cặp chân thảy thảy cũng đều là những con mắt, từ đó họ thấy được mình nhìn họ từ bất cứ phía nào, rồi giả vờ như không biết gì, nét mặt ngây thơ giết người, hoặc làm duyên, chớp chớp cặp mắt, hoặc nhìn xa mơ màng, hoặc khép hai cái đùi lại một cách rất gợi tình, hoặc lập nghiêm, khuôn mặt biến thành bức tượng cẩm thạch trong bảo tàng viện, hoặc chau mày, cắn môi, quắc mắt, nhưng ít khi giận dữ thật sự, hỡi mấy người đàn bà mình đã lê qua đời họ.

Những đêm cô gái nói mê sảng, ông đứng thập thò như kẻ gian nơi cánh cửa, dùng dằng đi chẳng dứt, độ này cô mê sảng nhiều hơn trước, có đêm cô thét to, ông vội chạy qua, đến tận bên giường để cho mùi thơm ấm áp, nồng nàn của nước hoa và của da thịt thấm vào mọi giác quan của ông, Thi, Thi, chuyện gì vậy, tỉnh lại đi cháu, cô mở mắt nhìn ông nói thì thầm như trong mơ, ông nghe tiếng được tiếng mất, ánh đèn đêm ngoài vườn chiếu vào khuôn mặt giống khuôn mặt của Thủy như khuôn tạc, ông giật mình bàng hoàng, Thủy hả em, âu yếm hay trách móc, mừng rỡ hay oán hờn, chuyện gì vậy hả chú, cháu la to lắm hả, rồi cô gái từ từ nhắm đôi mắt lại ngủ tiếp như trẻ thơ, những giọt mồ hôi đọng trên trán, trên hàng mi, hay là nước mắt, nhưng Thi có khóc đâu, và bộ ngực dưới lớp chăn mỏng phập phồng như sóng trôi, ông lần từng bước trở về phòng lên giường nằm trằn trọc cho đến sáng.

Ngày hôm sau không ai chịu ngỏ lời trước nhắc lại chuyện hồi đêm, nhìn nhau như không có chuyện gì xảy ra, nhưng từ đó tiếng thét trong đêm khuya thỉnh thoảng lặp đi lặp lại như đe dọa, như nhắn nhe, như giục giã, như kêu gọi, vang đến phòng ông, ông vừa ngại, ông vừa chờ mong, có lẽ phải đưa cô gái hay chính mình đi bác sĩ thần kinh, phân tâm, đến những chuyên viên giải đáp tâm lý, khuyến nhủ, dự những counseling sessions, ô, nhưng bé Thi nó giả vờ đấy mà, để gọi mình qua phòng nó, nó biết mình thích thế và nó chiều mình, còn chính bản thân nó, nó có thích mình qua đó hay không, tuổi trăng đang tròn, hoa đương độ, những đòi hỏi về sinh lý bức xúc, mình thì dễ, giải quyết ở đâu mà chả được, nhưng con gái thì có hơi khó, nhất là đứa con gái đang muốn lột xác từ bụi đời để trở thành kín cổng cao tường, phải cố mà giữ mình chứ, bằng không sẽ “tan tác như hoa giữa đường” sao, dạo này mình thuộc thêm một số câu trong Truyện Kiều, nhưng dù sao cô bé cũng đã từng quen bước đi nhiều bước trên con đường tình ái, tình dục, thì cứ tìm một thằng bồ cùng trang lứa trong những lớp ESL, trong college, ai mà biết được nơi một góc trời nào đó có hai người đàn ông đàn bà đang làm gì với nhau ở cái xứ tự do này, vâng, những khách sạn ông từng tới ở, ông nhìn theo những cặp thanh niên nam nữ, có những đứa to xác mà mặt còn non choẹt, vị thành niên, vừa đi vừa quấn vào nhau như hai con lươn trong thau nước cạn, trước mắt ông, trên những dãy hành lang dài thật dài, thì Thi gọi mình làm gì, hay Thủy đã nhập hồn vào cô bé để cùng mình đi cho trọn con đường dở dang, tức tưởi, tiếc nuối, phải không Thủy, phải không Thi, sao không thấy tiếng trả lời nào cả trong vũng tối âm u và tịch liêu này.

Nhưng cũng có hôm, tỉnh lại sau cơn mê, hai người cùng tỉnh, cô gái thủ thỉ chú ơi, ban ngày thì không sao cả, nhưng ban đêm, những đêm khuya thức giấc, nhiều khi Thi nhớ mẹ quá, lại có khi nhớ cả cái đảo địa ngục trần gian, lạ quá hả chú, hễ đã sống qua dù cực khổ đến mấy cũng muốn trở về sống lại thử coi, và nhớ Sài Gòn nữa, căn phòng chật chội không kiếm đâu cho ra một chỗ để làm bàn thờ mẹ, và có khi cũng nhớ luôn Bến Tranh, những lúc ấy cháu muốn nằm yên một mình để nhớ, chứ cháu không muốn chú chạy qua đâu, chú nói sao, đúng thế, sau khi chú trở về Mỹ, nhớ lời chú dặn thử tìm về quê, Thi tìm về Bến Tranh nhiều lần, nhiều lần như thấy mẹ ở đó, lởn vởn trên ngọn cây trong vườn mận, trên mái nhà cũ, mái ngói đỏ lẫn trong đám cây xanh, trên những con đường mòn hai bên cỏ mọc cao, trên sông trên lạch, trong những đêm trăng, mẹ cháu sống lại, có cả chú bên mẹ, cháu nói thiệt đó, và cũng nhớ, rõ ràng hơn cả, cái nhà lá trên bãi biển dơ dáy, mấy ông đánh cá những ngày biển động không ra khơi được, ở nhà uống rượu, đập chai, đập lộn, chửi bới, đặc biệt là những cặp mắt đỏ như than hồng, xách cháu lên rồi ném qua ném lại như ném trái banh, hà hơi rượu vào mặt cháu, nghe nồng nặc và tanh đến ói mửa, nhưng thôi, thôi chú nhé, chú về phòng ngay đi, ngủ cho khỏe mai còn phải đi làm sớm, nhưng cũng còn điều này nữa chú ơi, khi nào chú về thăm Việt Nam cho cháu đi theo với, cháu muốn nhìn lại Bến Tranh một lần nữa, ở đây với chú cháu vui lắm, yên tâm nữa, đi đâu xa cũng có chú, thế mà cũng có lúc cháu sợ đến lạnh cả người, sau chuyến đi Grand Canyon về, khi nghĩ rằng lỡ một ngày nào không có chú, cháu một mình, ở cái xứ cái gì cũng to lớn, đường thì dài, núi thì cao, sông thì rộng, thung lũng thì lớn, cái gì cũng quá khổ và lạ lùng, thử tưởng tượng cháu một mình bị lạc vào trong đó, trong vực thẳm, vách đá, hang động, trong khe nứt của mặt đất, trơ khất, hay bị lạc lạc vào trong những vườn cây xanh lè, ma quái, ngay hàng thẳng lối như những dãy thánh giá vừa được dựng lên, dưới trời nắng bao la không một bóng người, trông không khác gì cái nghĩa trang mênh mông, hay bị lạc vào trong những thành phố đông đúc, lạnh tanh, người ta chen nhau trên lề đường như những đàn kiến, xe cộ lượn vòng trên những cầu xa lộ trông như những con dòi, con sâu, đang bò quanh, thử tưởng tượng một ngày nào đó chú không còn bên cạnh, bỏ một mình cháu trên đất nước xa lạ này …

Hai câu thơ luẩn quẩn trở lại:

Việc nhà đã tạm thong dong

Tinh kỳ giục giã, đã mong độ về…

Khi thì nó mang nghĩa này, lúc thì mang nghĩa khác, tùy theo cái cảm thức rất chủ quan của ông vào mỗi thời điểm khác nhau. Hai câu thơ ấy bây giờ nghe không còn reo vui như trước nữa. Nó chênh vênh, lơ lửng và gợi lên những ý nghĩ buồn bã, chia ly, chết chóc. Túc từ, chủ từ mơ hồ, ngôn ngữ mông lung, đa nghĩa. “Thong dong”? Vâng, việc nhà của nàng Kiều đã tạm thong dong, tạm thôi, cơn gia biến đã qua, nhưng liệu bố mẹ và hai em có thể tiếp tục lại cuộc sống phong lưu trướng rủ màn che như cũ hay không, nhất là về mặt tinh thần, khi người chị cả phải hy sinh bán mình cho một người lạ ở phương xa?

Quê nhà vừa mới coi như tạm ổn, thong dong, thì “tinh kỳ giục giã” — sao đêm đã mọc thúc hối nàng lên đường — lại ném nàng vào chốn lưu đày! Cho nên ý nghĩa của bốn chữ kế tiếp, “đã mong độ về“, thật là hàm hỗn. Trước hết là ý niệm “về”. Sao lại về, mà về đâu? Câu trả lời là về chốn vô định. Và ai mong? Kiều và gia đình Kiều chắc chắn không mong chuyện ấy rồi. Có chăng, đó là định mệnh ngang trái đang đứng chờ Kiều qua hình ảnh của Mã Giám Sinh và Tú Bà.

Ông lại nghĩ đến Thủy cũng đã ra đi, và không những chỉ về chốn lưu đày mà là đã đi về cõi chết. Ông nhớ những dòng thơ buồn não nuột tiếp theo hai câu trên. Ông hình dung nàng Kiều ràn rụa nước mắt khi phải thổ lộ cho người khác nghe những điều nàng chỉ muốn giữ kín mãi trong lòng. Tuy thế, nàng cũng phải nói ra, vì nàng xem đó là lời trăng trối của người sắp chết.

Nhưng đó là chuyện nàng Kiều trong tiểu thuyết, còn Thủy thì sao? Trước khi trút hơi thở cuối cùng, Thủy có kịp dặn dò điều gì với đứa con gái còn bé bỏng của mình hay không?

Ngày xuân em hãy còn dài

Xót tình máu mủ thay lời nước non …

Và Thi sẽ xót tình máu mủ để thay lời mẹ?

Ôi, mình nghĩ quẫn rồi. Chỉ muốn vơ vào những chuyện chỉ có trong tưởng tượng bệnh hoạn.

Ông nhớ lời cô gái nói khi gặp gỡ lần đầu tại Sài Gòn: “Lúc lâm chung, mẹ nhắc đến tên chú nhiều lần.” Cô gái tinh quái đó nói đùa hay nói thật, ông không thể biết được. Cho rằng cô nói thật đi nữa, nhưng lúc đó Thi còn bé quá, làm gì có chuyện con hãy thay lời mẹ như Kiều cậy Vân thay mình kết duyên với người yêu của mình! Câu chuyện vô lý như thế nhưng ông vẫn liên tưởng như thường. Bởi vì bây giờ Thi đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp gần như em ngày xưa, lại đang sống với anh qua những ngày tháng đầy bứt rứt xen lẫn những giờ phút thật êm đềm. Những đêm khuya mê sảng, những tiếng thét bàng hoàng.

Một buổi chiều ở nhà một mình, Thi đi học chưa về, ông ngồi trước tấm gương to nhìn vào khuôn mặt mình trong gương. Cái mặt trông thật đáng ghét, nham nhở, bần tiện. Cặp mắt khờ khạo, thất thần.

Ông liên tưởng đến một võ sĩ quyền Anh bị đối thủ đánh tới tấp sắp bị đo ván thì được tiếng chuông cuối hiệp cứu nguy. Anh chàng võ sĩ đó lảo đảo đi đến chiếc ghế đẩu nơi góc của mình ngồi phịch xuống thiếu đường mốn ngã quay xuống sàn gỗ. Các săn sóc viên hối hả đến, tay lia lịa cầm khăn lông quạt quạt, rồi phun nước lên đầu, rồi tát tát vào hai bên má, rồi trét thuốc vào mấy vết thương trên mặt, trên trán, rồi thét to vào tai: “Tỉnh dậy đi! tỉnh dậy đi! Mày sắp thắng rồi. Cố gắng thêm một chút nữa thôi. Chỉ một hiệp nữa chắc chắn mày sẽ đánh gục nó. Tỉnh dậy! tỉnh dậy đi!” Anh võ sĩ có khả năng cho những lời khích lệ ấy lọt vào tai hay không, có tỉnh dậy được chút nào hay không, chỉ có trời biết. Chỉ biết rằng khi tiếng chuông bắt đầu hiệp mới vừa dóng lên, anh lại lừ lừ tiến ra giữa võ đài tâm trí hôn mê, cặp mắt dại khờ, để tiếp tục nhận lãnh những cú đấm vào mặt, vào hàm. Và ngã gục.

Thường thường là thế. Nhưng cũng có thể xẩy ra trường hợp tuy rất hiếm hoi, đấy là có người tỉnh dậy được, lấy lại sức dần dần, rồi thận trọng bước ra võ đài chuyển bại thành thắng.

Ông thử tự đánh giá. Ông không phải là một võ sĩ đánh đấm trên võ đài, nhưng có khi ông đánh thứ khác: Đánh bạc. Phải nói ngay rằng ông đánh bạc để gọi là tiêu khiển chứ không phải cốt ăn tiền. Lẽ dĩ nhiên đánh ăn cũng tốt hơn là thua, nhưng nếu thua, ông không cay cú, không thèm gỡ gạc, nhờ thế chưa bao giờ ông thua đậm. Hơn nữa ông tự cho rằng ông biết chơi vài ngón cờ bạc, Black Jack chẳng hạn, biết tính toán theo xác suất, biết khi nào nên lấy thêm bài, khi nào thì split, khi nào thì double down, khi nào đến chu kỳ đen thì đặt ít tiền để phá bài, khi nào thì nên đặt tiền nhồi vào cho nhiều, ăn cho lớn. Cho nên kết cục, ông không bao giờ thua đậm, mà nếu ăn, ông có thể ăn nhiều. Có thể nói, tổng kết lại, ông được nhiều hơn thua.

Nhưng có một lần, cách đây hơn một năm, lúc Thi chưa qua, ông thua nặng, tại Las Vegas. Ông nhớ lần thua đậm đó đã khởi đầu như thế này. Sau khi thua liên tiếp bốn ván, ông đặt tiền gấp đôi. Lại thua tiếp, ông đặt tiền gấp bốn, định bụng rằng dù ăn hay thua ông cũng thôi đánh để đúng hẹn đi gặp một người bạn học cũ vừa mở tiệm phở cách khu sòng bạc không xa lắm. Thì may cho ông, bài lên tốt tối đa. Ông chờ người chia bài chung tiền. Nhưng cuối cùng nhà cái, người chia bài, cũng lên bài tốt tối đa — thế là hòa. Đã thế, ông lại nhồi tiền gấp đôi. Kết quả ông thua trọn.

Ông nổi cáu. A! canh bạc này muốn giỡn mặt với mình hả, đã thế mình phải thử lửa xem sao. Ông đổ nhiều tiền vào. Cũng có ván ông được nhưng không thể gỡ nổi những lần thua trước. Ông bực mình đi qua bàn khác, cũng thua. Càng nóng nảy, càng thua nhanh. Mỗi lần bài lên xấu, ông rủa thầm. Lại đổi bàn, lại nóng gở, lại thua dài dài. Tai đỏ lên, tay run, cặp đùi rung lên một cách lố bịch, mặt mày cau có không giống ai.

Những con bạc cùng bàn kín đáo nhìn ông, ông cũng mặc xác họ. Có lúc ông gầm gừ trong họng nghe như tiếng heo, tiếng chó. Mấy người da trắng vốn hơi khó tính đứng dậy bỏ đi qua bàn khác. Vài người Á châu da vàng cười hô hố. Người chia bài vốn rất chiều khách, nhưng trước sự hục hặc vô lối của ông, cũng tỏ vẻ khó chịu cho đến nỗi có lần phải nói:

“Thưa ông, tôi chỉ đứng đây để chia bài cho ông chơi. Ông thắng hay bại tôi cũng chỉ hưởng chừng ấy lương. Ông thắng tôi còn được ông cho tip. Thấy ông thua quá, tôi cũng mong ông thắng ít ván, nhưng sao bài của ông xấu quá! Ông không nên nổi cáu với tôi.”

Biết rồi, khổ lắm! Càng nghe giải thích ông càng bực tức thêm. Ông lẩm bẩm chửi thề. Người chia bài không nhịn đuợc nữa, hỏi ông chửi ai. Những người ngồi quanh bàn cũng có vẻ đứng về phe người chia bài nhìn ông lạnh lùng. Ông bỡ ngỡ.

Ô hay, mình đang làm gì đây? Đầu óc sao quá mê muội, ngu xuẩn đến thế? Như đang bị ma đưa lối, quỷ đem đường? Mình ngồi vào sòng bạc đâu phải vì mục đích kiếm tiền, thì việc gì phải cay cú vì chuyện ăn thua. Mình lỡ đã thua đậm nhưng đó không phải là vấn đề sống chết, không nên tự đưa mình vào thế tuột dốc không phương cứu chữa. Ông trấn an rồi dần dần bình tĩnh trở lại. Từ giây phút đó, ông đánh thắng nhiều hơn thua. Cuối cùng, tuy vẫn còn thua nhiều, ông quyết định rời sòng bạc đến gặp người bạn. Trễ gần hai tiếng!

Từ ngày Thi đến, trừ mấy tháng đầu tiên, ông hiếm khi có những thời gian thanh thản. Ông không đến nổi bẳn gắt, rủa thầm, hục hặc vô lối, như trong một canh bạc thua liểng xiểng mà ông đã một lần trải qua, lẽ dĩ nhiên, nhưng ông thường cảm thấy ray rứt, bồn chồn, đứng ngồi không yên. Như đang bị đánh bại. Như đứng trước đám cháy đang lan dần đến nhà mình. Như một thợ săn đang rình con thú, bỗng thấy mình biến thành con thú bị săn đuổi. Như lỡ bước sa vào bãi cát lầy, càng vùng vẫy càng lún sâu nhanh. Như con bạc xui xẻo càng cố gở càng thua đậm.

Ông cố trấn an. Không, mình đánh bạc để tiêu khiển chứ đâu cốt ăn thua, mà lỡ thua cũng không phải là vấn đề sống chết. Cuộc sống đâu phải là canh bạc như người ta thường nói. Trong một canh bạc, người ta có thể muốn tiếp tục hay chấm dứt lúc nào tùy ý. Cuộc đời của con người khác. Rủi mà có thua tận mạng đi nữa, cũng phải sống lây lất cho đến hơi thở cuối cùng.

Trong một cơn mê sảng mới đây thôi, vâng, không phải chỉ cô gái mới mê sảng, mà chính ông cũng mê sảng, mê sảng thật, ông bỗng như nghe thấy Thi thấp thoáng chạy qua phòng mình. Chú, chú, chú ơi, chú có sao không, chú tỉnh dậy đi chú. Rồi ông thấy Thi nằm trong vòng tay của ông. Ông có chủ ý điều gì hay không? Có chút giằng co giữa hai người chăng? Cố chút kháng cự nào chăng? Nhiều cái mơ hồ trong cơn mê quá, làm sao nhận ra hết.

Rồi Thi biến thành Thủy, biến thành cô gái điếm Mỹ, Đại Hàn, Mễ, ái ân say đắm, nồng nàn. Thủy và Thi hai người lẫn lộn nhau, rồi lẫn lộn với cô láng giềng mặc bikini thường nằm phơi mình cạnh hồ bơi. Rồi Thủy bỗng vội rời khỏi vòng tay mình, êm như cơn gió thoảng, nhẹ như làn khói. Ông muốn níu lại nhưng cánh tay ông chỉ nhấc lên nửa vời rồi buông thỏng. Hình như ông không có chủ ý níu kéo ai lại cả. Đến hay đi là chuyện ngoài tầm tay.

Cái mùi thơm con gái thoang thoảng xa dần. Cái dáng thanh thanh, nhẹ nhàng, uyển chuyển mà ông vô tình hay cố ý nhìn thấy bấy lâu nay, nó vật vờ như chiếc bóng, thoắt một cái đã biến mất, khiến ông lại muốn kêu lên một tiếng giữ lại. Tiếng kêu bị tắt nghẹn. Ông cảm thấy như có một khối đá đè nặng lên ngực không cho lời nói thoát ra khỏi cửa miệng. Ông cảm thấy không còn hơi sức nào để đẩy khối đá ấy đi nơi khác. Rồi ông thiếp đi.

Bỗng ông nghe tiếng gào thét thất thanh kéo thành chuỗi dài như tiếng kêu cấp cứu. Thôi chết rồi, Thủy đang bị bức tử. Tiếng nói của ông vang dội trong đầu ông, và ông giật mình tỉnh dậy hẳn.

Qua khung kính cửa sổ nhìn lên, ông thấy bầu trời còn tối, một vầng trăng khuyết và nhạt treo lơ lửng. Tiếng động cơ và tiếng còi hụ của xe cảnh sát nghe rít lên, xa dần rồi tắt lịm.

Ông cố ngồi nhổm dậy. Trời nóng hâm hấp, máy lạnh quên bật lên, ông thấy mình đang đánh trần mồ hôi nhễ nhại, chiếc gối đã rơi xuống sàn nhà nằm nghiêng dưới chân giường. Ông nhìn ra ngoài. Đằng xa, trên con đường vắng, sau chòm cây thưa, những màu xanh vàng đỏ của trụ đèn lưu thông lặng lẽ thay nhau tắt, sáng.

Bỗng không biết từ đâu một chiếc xe màu xám lướt nhanh qua như trốn chạy. Ông nghĩ ngay đến hình ảnh ông thỉnh thoảng nhìn thấy trên máy truyền hình. Một chiếc xe chạy cuống quýt, lúc thì trên freeway, lúc thì quanh quẩn trong các đường nhỏ, như kiến bò miệng chén, bám sát đằng sau là cả chục xe cảnh sát rượt nà, trên trời trực thăng bay theo. Thủy và Thi ơi, mình đang đuổi nhau, đã bắt được nhau chưa? Ai đuổi ai đây? Ông và Thủy hoặc Thi cùng chạy, chạy cuống quýt quanh một cái hồ tròn, cách nhau một nửa hồ. Ai đuổi ai? Ông cảm thấy cái phi lý của cuộc sống hiện tại. Và giấc ngủ chập chờn đến và đi.

Sáng hôm sau ông không nghe tiếng đồng hồ báo thức, may có Thi chạy qua gọi ông dậy ăn sáng cho kịp đi làm. Đầu óc ông còn đờ đẫn có lẽ vì tác dụng của mấy viên thuốc ngủ, tay chân muốn buông xuôi như để hưởng cái thú nằm lười vào những buổi sáng cuối tuần. Ông lờ mờ nhớ lại chuyện đêm qua — a, vì không thể nào dỗ được giấc ngủ, mình trút vào mồm mấy viên thuốc ngủ cùng một lúc. Thế mà hình như vẫn không ngủ yên giấc thì phải. Dường như mình rơi vào những cơn mê loạn lạ lùng. Mê có thể xem như chết hay không, hay vẫn có đủ các giác quan cần thiết để hưởng một vài cái thú của thân xác con người. Liều lượng thuốc ngủ cứ tăng dần như thế này chắc chắn sẽ có hại, ông nghĩ thầm.

Sau cái đêm rối rắm lạ lùng đó, sáng dậy ông nhìn Thi ngờ ngợ. Cô gái dường như cúi mặt tránh cái nhìn của ông. Và khi cô không đừng được ngước mắt nhìn lên, thì ông đã quay đầu đi nơi khác.

Đời người là canh bạc như người ta thường ví, ông trở lại với câu nói đó. Nhưng ông không ưa cái lối ví von đơn giản ấy. Không ưa mà cuối cùng phải chấp nhận, như người tuyệt vọng chấp nhận số kiếp của mình.

Vâng, canh bạc đời đỏ đen lẫn lộn. Đến hồi đen, ráng chịu nhé. Chẳng hạn Thủy ơi, anh phải chấp nhận rằng anh đã thua cuộc. Anh đã không sống được với em thì cũng đừng bắt em phải sống lại qua hình ảnh của con gái em. Đừng bồn chồn nữa, đừng nhìn cô gái như mình vẫn nhìn từ trước đến giờ, đừng sống trong ám ảnh. Liệu mình có đủ sáng suốt và nghị lực để đi ra khỏi cơn mê? Nhưng, ông băn khoăn, những đêm ông mê sảng Thi vẫn chạy qua? Thuốc ngủ có đủ sức làm tê liệt thần kinh mình hay không?

Ngoài vườn, cây trà mi vừa trổ ra một loạt hoa màu tím. Dưới cơn nắng cuối hè, những cánh hoa tím đổi màu qua trắng. Hoa bưởi thì đã tàn cả rồi, thay vào đó những quả nho nhỏ, tròn tròn, xanh xanh, khó thấy, nằm chen chúc trong đám lá cũng xanh cùng màu. Bầy chim sẻ kêu lách chách, nhảy nhót, rung cánh, vui đùa quanh chiếc giỏ mây đựng thức ăn chim. Ông thương bầy chim sẻ. Một con chim lạ, lớn như con chim sáo, cánh nâu thẩm, ức trắng, đuôi dài, mỏ dài, chân cao, cổ như được quấn quanh bằng chiếc khăn quàng nhỏ kết bằng hạt cườm, đậu trên hàng rào nhìn xuống bầy chim sẻ bằng một cái nhìn hờ hững.

“Chú ơi, chú làm gì mà ngồi hoài trên cái ghế đó vậy hả chú?”

Thi đã đứng sau lưng ông từ bao giờ. Ông quay người lại nhìn Thi, thảng thốt. Cô gái vừa tắm xong, tóc chưa khô rũ xuống một bên vai làm ướt chiếc áo cánh mỏng hiện rõ đôi vú đầy và hồng chưa kịp mang nịt vú. Hai cánh tay trần vẫn như hai cành non lôi cuốn. Cô nghiêng người một tay vịn thành ghế, dáng xiêu xiêu như cây liễu trong gió, nhìn ông mơ màng. Ông vội chuyển cái nhìn đi nơi khác, và đứng dậy đi đến chiếc cửa lưới trông ra ngoài vườn.

“Chú ơi, có chuyện gì mà chú ngồi yên một chỗ lâu dữ vậy?” Cô nhỏ nhẹ lặp lại câu hỏi. “Cháu cũng có chuyện muốn nói cho chú nghe đây.”

“Thi nói gì, chú không nghe rõ.”

“Cháu nói cháu có chuyện này lạ lắm.”

“Thế à.”

Nói xong ông trở lại bàn ngồi lại chỗ cũ và chỉ tay bảo Thi ngồi xuống ghế đối diện. Làm như thế ông nghe mới được đầy đủ, ông nói. Thi vội tới và nhanh nhẩu kể:

“Hôm nọ cháu nằm mơ. Mơ thấy mẹ cháu, rõ như ngày cháu còn bé sống với mẹ. Mơ thấy cả chú nữa. Mà không phải chỉ có thế, lạ lắm.”

Ông ngắt lời:

“Mơ là chuyện thường, có gì mà lạ.”

“Thế chú cũng thường nằm mơ thấy cháu và mẹ cháu sao?”

“Vâng, chú cũng có nằm mơ.” Bỗng dưng ông trở chứng muốn pha trò. “Mơ thấy chú Hoạt và cháu đi Las Vegas đánh bạc thua, hai người nổi giận rút súng ra chỉa vào chú, thế mới lạ chưa? Chú chạy quýnh quáng bị xe cảnh sát hú còi đuổi bắt. Thì chú tỉnh giấc. Thế Thi nằm mơ cái gì mà bảo là lạ?”

Rồi dường như mất tập trung, dạo này ông thường bị đãng trí, ông nói lan man qua chuyện khác:

“Nhưng mà… lại sáng thứ bảy rồi phải không Thi? Mình sẽ làm gì đây, đi đâu đây? Ăn sáng tại nhà, hay cháu muốn đi ăn ngoài? Hay tới khu Việt Nam mình ăn bún, phở, bánh cuốn? Hay ăn món này đặc biệt lắm, Thi biết món chi không, bánh khoái Huế.”

“Sao cũng được, ăn gì cũng được.” Cô gái hạ giọng xuống nói, và ngoảnh mặt nhìn ra ngoài vườn, có vẻ bất bình.

“Có chuyện chi vậy cháu?”

“Cháu nói kể chuyện lạ, chú không muốn nghe, đánh trống lãng, phải không? Cháu sẽ không bao giờ kể lại câu chuyện đó nữa.”

Ông tự trách sao mình vô ý quá. Mà Thi nó cũng đổi tính, hay hờn mát, không hồn nhiên như trước kia. Ông vội chống chế:

“Ô, chú nói lộn rồi. Vâng, hãy kể chuyện cho chú nghe trước rồi sau đó ta tính chuyện… chuyện gì nhỉ. A chuyện… chuyện sáng thứ bảy này. Đúng như vậy phải không cháu?”

Thi lặng lẽ:

“Thôi chú. Đừng nhắc đến chuyện đó nữa.”

Hai người không nói năng gì trong một khoảnh khắc ngắn. Cô gái cố vui vẻ trở lại:

“Để cháu xem nào… Mình đã có sẵn mấy gói bún tươi và soong cá sòng kho nước xấp xấp. Cháu sẽ ra vườn hái thêm mấy trái ớt chỉ thiên để nguyên trái cho vào soong cá, thêm chút nước mắm, tiêu, và đường đen, kho lại cho sôi lên sục sục. Thế là sẽ có một bữa ăn sáng nhà quê rồi, bún chan nước cá. Chú chịu không?”

“Chịu!”

Thi chạy vụt ra vườn. Ông nhìn theo, băn khoăn. Mấy con chim sẻ bay giạt qua khỏi cái hàng rào thấp và đậu trên bãi cỏ xanh ngoài xa, nhảy nhót, reo vui, chờ đợi. Ông biết rằng khi Thi đi vào nhà, bầy sẻ lại bay nhanh đến giỏ đựng thức ăn, chen nhau mổ mổ. Chỉ con chim lạ đậu trên hàng rào sẽ cất cánh bay xa, bay luôn, mất dạng. Vĩnh biệt.

Ông đứng dậy đi đến mở tủ lạnh loay hoay tìm soong cá, xong đem đến đặt lên lò ga. Thuận tay, ông lấy hai cái lọc cà phê, hai bộ đĩa tách, hai cái thìa, hộp sữa đặc, cho tất cả vào cái khay, và mang đến bàn ăn.

Bữa ăn sáng đơn sơ mà ngon. Từ ngày có cô gái, ông được thưởng thức nhiều món ăn “quê hương”. Không chỉ có thế, Thi đã mang trở lại rất nhiều nếp sống cũ mà ông tưởng đã bị chìm khuất hẳn vào một nơi nào trong quá khứ mù mịt. Ông nhận ra rõ hơn Sài Gòn, Hà Nội, và Huế. Ông thấy lại ngôi làng cũ của thời thơ ấu, cả những tháng năm loạn lạc, cả mối tình đau khổ.

Nhớ có lần hồi còn ở Việt Nam, cô gái trong lúc xúc động bảo rằng chú ở đâu, quê hương của cháu ở đó. Bây giờ ông nghĩ rằng tình hình có vẻ đảo ngược. Thi đã mang quê hương đến cho ông. Vậy nghĩa là gì? Hai người là quê hương của nhau, ông lẩm bẩm.

“Thi này, qua đây hơn một năm rồi, cháu có bao giờ nhớ nhà không?”

“Nhớ chứ sao không… A mà cháu có nhà đâu mà nhớ!”

“Chú muốn nói nhớ Sài Gòn, nhớ Bến Tranh. Nghĩa là nhớ quê hương.”

“Thế thì không. Thật ra ban ngày cháu không nhớ cái gì cả. Bận bịu từ sáng đến tối, có rảnh đâu để nhớ để thương. Nhưng những lúc khuya khoắt… thì khác. Với lại — Thi cười âm thầm bằng đôi mắt xa xôi, lại thêm một nét mới nơi cô gái — cháu có nói chú là quê hương của cháu mà. Quê hương của cháu ở ngay trước mặt cháu đây này. Cháu ở ngay bên chú mà chú cũng muốn hỏi cháu có nhớ chú không hả?”

Ông bật cười:

“Chú không định hỏi thế, nhưng nếu chú muốn hỏi như thế thì Thi trả lời ra sao?”

“Nhớ chứ sao không nhớ,” Thi cười ròn rã. “Cháu nói thật nhé, ở đây hơn một năm cháu vẫn nghĩ rằng nếu không có chú, cháu không thể sống một mình được. Đất Mỹ dễ sợ quá, làm người ta thấy lạc lõng. Mà về Việt Nam một mình cháu cũng không sống nổi đâu. Nhớ lại những năm tháng một mình bên đó, cháu còn thấy chán ngán muốn nổi da gà.” Cô gái thở dài, giọng rầu rầu. “Năm sáu năm như thế kể từ ngày rời đảo, rồi một mình kéo lê hết ngày này qua ngày khác trên những đường phố Sài Gòn náo nhiệt mà lạnh lùng, dửng dưng. Nếu không gặp được chú, cuộc đời của cháu sẽ ra sao? Cháu không dám nghĩ tiếp.”

“Cháu nói thế chứ… Cháu còn trẻ, cháu còn cả tương lai dài trước mắt. Chỉ có chú là sắp hết thời rồi.”

“Chú nói sao nghe nản dữ vậy? Chú làm như chú đã già rồi.”

“Đúng thế, chú đã già nếu so với cháu.”

Thi cười:

“Sai, sai. Cháu nghĩ khác. Chú không nhớ câu chuyện ông đạo diễn ở Việt Nam đi với mẹ vợ hay sao? Thi mới già đó chú.” Cô cười hồn nhiên. “Mà Thi nói gì chú có thèm nhớ đâu.”

“Vậy hả?”

“Để cháu nhắc lại xem chú có nhớ hay không. Hồi đó cháu chở chú đi Thanh Đa ăn cháo vịt ngon lắm phải không?”

“Thi lộn rồi,” ông ngắt lời. “Mình đâu có ăn cháo vịt.”

“Giỏi. Cháu hỏi thử. Thế là chú có nhớ chuyện đó. Rồi cháu chở chú đi những nơi khác, nhiều nơi, để kéo dài thời gian… Để chú ngồi đằng sau tha hồ nhìn tóc cháu, nhìn lưng cháu!”

“Nhìn phong cảnh Sài Gòn ban đêm chứ!”

Thi nhượng bộ:

“Thôi được, nhìn cả hai.”

Hai người cùng cười. Thi mơ màng:

“Khi nào có dịp, mình cùng về Việt Nam nghe chú. Sẽ không bỏ qua món cháo vịt Thanh Đa tưởng đã được ăn, sẽ không bỏ qua những con mắt nhìn hau háu. Rồi chú đem cháu ra Trung thăm quê cũ của chú. Huế phải không chú. Cháu nghe nói Huế còn sót lại những nét cổ xưa và huyền bí lắm. Rồi đi ra Bắc nữa, Hà Nội, Hà Giang, Hà Tây, Hà Đông, Hà Nam. Hà nào cũng tới thăm cho biết. Phải bỏ ra ít nhất ba tháng để đi thăm mọi nơi.”

“Muốn đi lâu như thế phải đợi lúc chú về hưu.”

“Mấy tuổi chú về hưu?”

“Sáu mươi lăm tuổi.”

“Thế thì còn lâu quá chú ơi. Mười mấy năm nữa. Chú phải làm việc để nuôi cháu chứ!”

“Đó là điều chú mong ước nhưng không biết có được hay không…”

Thi đổi sắc mặt một cách đột ngột. Cô ngập ngừng:

“Thế ra chú không… không…”

“Để chú nói ngay nhé, cháu khỏi hiểu lầm chú. Chú muốn nói rằng chú và Thi có lẽ chỉ sống bên nhau được vài ba năm nữa thôi, rồi thế nào Thi cũng đi lấy chồng. Lúc đó chú đâu còn được quyền chăm sóc cháu nữa. Chú lại phải xoay xở sống một mình như trước kia.”

“Không, không, không phải như thế!”

Nói xong Thi cười ròn rã, cúi gập người xuống mà cười. Ông nghiệm ra rằng mỗi khi gặp vấn đề gì khó xử, cô gái lại cười khỏa lấp rồi mới từ từ tìm cách gở rối.

“Không,” cô gái tiếp lời, “chuyện chồng con còn lâu. Thật ra cháu không bao giờ nghĩ đến chuyện lấy chồng. Cháu còn trẻ mà, đi đâu mà vội. Phải ở với chú để được chú dạy dỗ nhiều điều nữa chứ. Rồi sau đó mọi chuyện tự nó giải quyết lấy. Đố chú ai hay nói câu đó?”

“Câu gì?”

“Rồi mọi chuyện tự nó giải quyết lấy.”

Ông ngẫm nghĩ. Hình như mình thường nói câu đó. Như thế nghĩa là gì, nghĩa là mình đã mất hết ý chí phấn đấu? Mình có xu hướng buông xuôi để mọi chuyện xẩy ra thế nào cũng mặc? Ông đáp giả lả:

“À, chẳng qua là câu nói đầu môi chót lưỡi nói cho xong chuyện, cháu để tâm làm gì.”

Ông lái xe, Thi ngồi bên cạnh, chạy qua nhiều con đường của khu Sài Gòn Nhỏ, nằm trong các thị trấn Westminster, Garden Grove, Santa Ana, thuộc Quận Cam, Nam Cali, nơi có nhiều người Việt Nam trú ngụ nhất tại hải ngoại. Rồi ông lái qua những thành phố lân cận như Fountain Valley, Huntington Beach, chạy trên các con đường Newland, Magnolia, Brookhurst, Edinger, Harbor, Warner, Mac Arthur…

Từ ngày có Thi, những lúc rảnh rỗi, ông thường lái xe chạy quanh quẩn đưa cô ta xem các phố phường. Thi thích thú vô cùng.

“Đố Thi dọc theo những bức tường dài hai bên đường người ta thường trồng hoa gì?”

Thi gỡ kính đen ra, nhìn ra:

“Để cháu xem nào. Hoa gì cũng có cả, nhiều thứ hoa quá. Nhiều loại cháu không biết tên.”

“Không phải. Chú muốn nói loại cây bò từ bên trong vườn của người ta và ló ra ngoài tường. Chắc chắn Thi biết.”

“Làm sao chú biết được là cháu biết?”

“Là vì ở Việt Nam cũng có nhiều loại hoa đó. Sài Gòn, Mỹ Tho, Vũng Tàu, miền Tây, miền Trung, đâu đâu cũng có. Lá thì xanh nhưng hoa thì màu đỏ, trắng, tím, da cam, thôi thì đủ màu.”

“Chú muốn nói cây hoa ngũ sắc?”

“Không phải, đoán tiếp đi.”

“Thì hoa hồng, hồng trắng, hồng vàng, hồng cam, hồng đỏ, hồng hồng, muốn hồng gì cũng có.”

“Nhưng đây là loại cây bò qua tường mà.”

“Khó quá, cháu chịu thua. À cây bông giấy!”

“Đúng rồi. Giỏi lắm. Hồi mới qua đây, gặp lại cây bông giấy, chú nhớ nhà đến quay quắt.”

Cô gái quay lại nhìn ông tỏ vẻ ngạc nhiên:

“Hình như cây bông giấy không phải là, gì gì nhỉ, biểu tượng hay tượng trưng, cho quê cũ của mình. Người ta nói cây tre mới đúng.”

“Đồng ý. Nhưng từ khi ở Mỹ, chú chưa thấy tre. Trúc thì có. Trúc xinh, thân màu xanh, vàng, nâu, đen, hoặc lốm đốm, mọc bên trong những hàng rào thấp của những khu vườn nhỏ. Tre khác. Những lũy tre cao ngất đu đưa trong gió, ngày đêm cựa mình kẽo kẹt, bao quanh xóm làng, vườn tược, và là nơi trú ẩn của nhiều loại chim gần gũi với con người. Đó là vào mùa nắng. Vào mùa mưa bão, tre xơ xác, quằn quại, nhưng không gãy đổ hoặc chết đứng. Cho nên xa quê hương, có lúc chú cũng nhớ những bụi tre trong khu vườn sau nhà Từ Đường, những lũy tre bao quanh xóm làng. Nay, đây không có tre, tạm thời lấy bông giấy thay thế.”

“Cháu khác. Không có gì khiến cháu nhớ cả. Đảo, thì cháu muốn quên đi hết. Ở Sài Gòn 6, 7 năm gì đó, cuộc sống cũng tối tăm quá, cháu cũng không thèm nhớ cái gì cả.”

Ông chau mày ngẫm nghĩ. Như sực tỉnh, ông khẽ đáp:

“Không có cũng phải bịa đặt ra. Mà có vẫn hơn. Coi đó như chỗ nương tựa của tình cảm, của tâm hồn. Thiếu cái thứ đó, con người sẽ thấy bơ vơ.”

Thi ngơ ngác:

“Chú muốn nói tôn giáo? Nếu thế thì cháu cũng có. Chứ cháu không phải là người vô thần đâu.”

“Không phải. Chú kể chuyện này thì Thi hiểu ngay. Chú nghĩ đến người Anh. Vào thế kỷ 19, người Anh đã đi khắp nơi trên quả đất này. Thuộc địa của họ bao trùm cả năm châu. Nhưng quê hương đất nước luôn luôn canh cánh bên lòng họ. Có dịp trở về, lúc còn lênh đênh trên biển, thoáng thấy The White Cliff of Dover, họ như những kẻ chết đi sống lại.”

The, the… gì đó là cái gì?”

“Là vách đá màu trắng vùng Dover cuả Anh nằm ngay trên giải biển hẹp giữa Anh và Pháp. Đấy, tình quê hương là thế.”

“Nghe cũng hấp dẫn hả chú. Chú kể thêm đi.”

“Một chuyện nữa thôi nhé, cũng liên quan đến nước Anh, đó là Tô Cách Lan thuộc vương quốc Anh. Người Tô Cách Lan ở nhiều nơi trên thế giới thì lại nhớ vùng Highlands miền Bắc. Thôi, câu chuyện đại khái cũng như vậy. Mình đổi đề tài nhé.”

Cô gái sốt ruột:

“Cứ kể tiếp chuyện đó đi chú, cháu đang thích nghe mà. Đang tới hồi lâm ly bi đát.”

Ông cười:

“Thi nói sai rồi. Tình quê hương đâu phải là chuyện lâm ly bi đát.”

“Thì không vậy. Cũng xin chú kể tiếp.”

“Vâng, người Tô Cách Lan lúc nào cũng nhắc tới miền Highlands. Đó là vùng núi non miền bắc, miền thượng du. Nó được xem như biểu tượng cho một quê hương đã mất, chỉ còn trong hoài niệm. Một nhà thơ Tô Cách Lan, Robert Burns, viết một bài thơ, bài nhạc, rất mộc mạc và rất nổi tiếng, My Heart’s in The Highlands. Bài thơ dễ nhớ, chú thuộc mấy câu. Chú đọc nhé:

My heart‘s in the Highlands, my heart is not here,

My heart’s in the Highlands, a-chasing the deer;

Chasing the wild-deer, and following the roe,

My heart’s in the Highlands, wherever I go.

“Cháu chẳng hiểu gì cả. Nó nghĩa là gì?”

“Nó nói lên lòng nhớ nhà. Hay nói cho có vẻ văn chương, tình hoài hương.”

“Chú dịch đi.”

“Thơ mà dịch ra văn xuôi nghe lạt như nước nước ốc. Mà dịch ra thơ, thì chú không phải là thi sĩ. Xin chào thua.”

Cô gái năn nỉ:

“Đừng chú. Chú dịch có dở thì cũng chỉ một mình cháu nghe mà thôi. Không ai biết mà cười chú đâu, đừng sợ.”

Ông bật cười:

“Sợ chứ. Chú sợ Thi quá, nên đành phải dịch nhé:

Lòng tôi ở miền Thượng Du, lòng tôi không ở nơi đây,

Lòng tôi ở miền Thượng Du, đang săn đuổi con nai;

Săn đuổi con nai, và theo dấu con hươu

Lòng tôi ở miền Thượng Du, dù tôi đi nơi đâu.

“Nghe cũng lạ lạ đó chú. Làm cháu cảm động đấy.” Thi đưa bàn tay đè nhẹ lên ngực. “Mà lòng cháu không có vách đá trắng để về, không có miền thượng du để tới. Cũng không Sài Gòn hay Bến Tranh. Hay bông giấy, hay lũy tre. Vậy lòng của cháu sẽ đi về đâu, chú chỉ cho cháu với.”

Câu chuyện cứ thế đối đáp, như không bao giờ dứt.

Ông lái xe theo đường Beach về hướng Nam, và chạy thẳng. Bỗng Thi reo lên:

“Ô biển đông kia rồi.”

Ông nhìn Thi, cười cười:

“Biển đông? Có lẽ nói biển tây mới đúng. Nhưng cũng không ai nói đó là biển tây.”

Thi thắc mắc:

“Tại sao vậy chú?”

“Biển trước mặt mình là Thái Bình Dương, phía đông của Việt Nam nhưng tây của Mỹ. Một con đường lớn chạy dọc theo bờ biển dài lắm, từ bắc xuống nam dài hàng ngàn cây số, tên là đường Pacific Coast Highway có nghĩa là Xa Lộ ven bờ Thái Bình Dương. Nó chạy từ biên giới Canada xuống tận biên giới Mễ Tây Cơ. Quê cũ của mình và nơi đây bị ngăn cách cả một đại dương.”

“Một đại dương, ghê quá!” Thi lặp lại. “Ngày xưa bên mình cách nhau một con sông là đã xa. Chú biết không, người ta nói bắp Cái Vồn đem qua Cần Thơ ăn là hết ngon vì nó phải qua sông Hậu Giang rộng lắm. Vậy nếu mình cứ từ đây đi thẳng ra biển mãi, đi mãi, băng ngang qua đại dương này là tới Việt Nam chứ gì.”

“Để chú xem nào. Có lẽ không phải thế. Vĩ độ ở đây cao hơn Việt Nam. Mình đi hơi chếch chếch về phía tây nam thì mới gặp.”

“Thế cứ đi thẳng thì gặp nước nào?”

“Gặp nước Tàu.”

“Nước Tàu lớn quá, gặp vùng nào của nước Tàu hả chú?”

“Chú không rõ. Có lẽ vùng Hàng Châu hay Thượng Hải gì đó.”

“Chú có đi Tàu rồi?”

“Có. Mấy lần. Chú có thăm những thành phố lớn như Bắc Kinh, Thượng Hải, Hàng Châu, Tô Châu, Tây An, Trùng Khánh, v.v…”

Thi bỗng mơ màng:

“Chú sướng quá! Một ngày nào đó chú cháu mình sẽ đáp một chiếc tàu thủy đi một mạch từ đây vượt đại dương về thăm Sài Gòn nghe chú. Và thăm Bến Tranh nữa.”

“Vừa rồi cháu nói cháu thích đi thăm miền Trung, miền Bắc mà.”

“Thì thăm Bến Tranh trước khi thăm những nơi kia. Được không?”

“Ủa, Thi cũng nhớ Bến Tranh?”

“Nhớ chứ sao không nhớ. Chú nhớ gì cháu nhớ nấy. Hôm nay chú định ghé bãi nào đây? Huntington Beach hay New Port Beach?”

“Tuần này tạm nghỉ đi bộ trên các bãi biển. Chú sẽ đưa cháu đi tìm cái này. Có Thi cùng đi biết đâu sẽ tìm thấy. Không lẽ công toi hoài.”

“Cái gì mà bí mật thế hả chú?”

“Chú để Thi đoán một lần nữa, như Thi đã đoán ra cây bông giấy.”

Ông cho xe quẹo trái qua đường Pacific Coast Highway và cứ thế chạy dọc theo con đường dài ven biển hướng về phía nam.

Con đường rất đẹp. Xe chạy về hướng nam thì bên phải là đại dương bao la, bên trái rải rác các toà nhà lớn, nhỏ đủ loại, các khu chung cư sang trọng, các khu thương mãi sầm uất. Rồi đến những dãy đồi hoang. Nằm chênh vênh trên những sườn đồi, sườn núi phía sau xa để làm nền là những dinh thự núp dưới những chòm cây xanh. Có những con đường vắt ngang qua đỉnh đồi, đỉnh núi trông giống như bị nhát “tông đơ” của người thợ hớt tóc lướt trên cái đầu sắp sửa bị cạo trọc. Lác đác, những sườn núi sau cơn hoả hoạn mùa hè chỉ còn trơ đám cỏ cháy đen tận gốc.

“Mình cứ chạy hoài như thế này cho đến Mễ Tây Cơ thì bên phải vẫn là biển, bên trái là đất, là núi. Thi thích biển hay núi?”

“Cháu ghét cả hai. Cháu chỉ thích đất liền. Thế còn chú?”

“Chú thì mỗi tuổi cái thích mỗi khác. Hồi còn trẻ, chú thấy núi ù lì và lạnh, còn biển thấy ấm áp và đầy sức lôi cuốn.”

“Đầy sức lôi cuốn nghĩa là gì, cháu chưa hiểu.”

“Là nó kêu gọi mình ra khơi, đi xa, bốn phương. Cũng như hồi còn nhỏ theo dấu con chim bay trên trời cao.”

Thi có vẻ quan tâm:

“Thế còn bây giờ ? Chú thích núi hay biển?”

“Chú không thích mà cũng không ghét. Có điều những giấc mơ của tuổi trẻ nguội lạnh đi nhiều rồi.”

Sau gần một tiếng, ông rẽ xe về phía trái, men theo con đường dốc, chạy thêm một quãng khá dài và đậu xe lại trên một khoảng đất trống dưới chân một ngọn đồi. Bốn bề vắng lặng. Buổi chiều trời còn nắng, gió thổi, thông reo vi vu.

Hai người xuống xe. Ông đi trước về phía khu rừng thưa, cô gái lẽo đẽo theo sau, không ai nói với ai một lời. Đến một tảng đá to như con trâu mộng, ông đứng lại chờ, quay người lại nhìn cô gái đang đi chầm chậm tránh những lùm cây, bụi cỏ, cành gai, một mình trên lối nhỏ của con đường vắng trong rừng.

Thi trông lạ hẳn, nhỏ bé, yếu đuối, e dè, và có vẻ sợ sệt. Trong lòng ông dậy lên những tình cảm lẫn lộn. Vâng, định mệnh của hai người, Thi và ông, đã buộc họ vào nhau trong một thời gian. Nhưng tương lai sẽ ra sao đây, ông thầm nghĩ. Ông đã đưa bàn tay ra giúp đỡ, cô bé đã đưa bàn tay ra nhận lấy. Và hân hoan, tin cậy.

Bỗng ông cảm thấy tim nhói lên một cái, chợt nhớ đến mối tình cũ và những kỷ niệm giữa ông và mẹ của cô gái. Ông nhận ra rằng giữa Thi và ông, Thủy luôn luôn có mặt. Rồi một ngày nào đó Thi sẽ ra đi, sẽ mang theo hết hình ảnh của mẹ hay không, và nếu thế ông sẽ không còn giữ lại được gì. Hay là kỷ niệm về Thủy nhờ có thời gian sống chung với Thi mà rực rỡ thêm lên. Nhưng có điều chắc chắn là ông sẽ cô đơn hơn xưa.

Thi ngoan ngoãn đi đến nơi ông đang đứng, đôi mắt mở to, trong vắt, đôi môi mím lại tỏ vẻ chăm chú, đôi chân rón rén, đôi cánh tay trông như cánh chim chấp chới trong không trung giữ thăng bằng. Ông âu yếm nhìn rồi bước tới đưa hai bàn tay cho cô gái nắm lấy. Thi nở một nụ cười rạng rỡ, cười không thành tiếng, nắm chặt lấy hai bàn tay của ông, vừa thở gấp vừa nói:

“Tự nhiên cháu thấy hồi hộp quá.”

“Hồi nãy Thi còn có vẻ hoảng hốt nữa.”

“Dạ, đúng thế. Vì cháu sợ.”

“Sợ gì? Sợ ai?”

“Cháu không biết.”

“Có lẽ vì Thi nghĩ đến những câu chuyện của ông H.O. lớp ESL?”

“Chuyện gì chú?”

“Cháu quên hả? Đưa vô rừng… rồi giết …”

Cô cười thành tiếng, trở lại vẻ tự nhiên thường ngày, cướp lời:

“Đúng, chú… chú cứ chặt cháu thành nhiều khúc rồi chôn xuống đất phi tang. Kinh khủng quá. Nhưng vô lý. Nếu chú muốn thế thì những lúc ở nhà, đêm hôm …”

Nói chưa hết câu, cô gái khựng lại, ngượng ngùng, đỏ mặt, khác hẳn Thi nghịch ngợm, chai lì thường lệ.

Ông ngẫm nghĩ rừng núi hình như tiềm tàng một ma lực nào đó. Nhưng trái với biển khơi, rừng rú lôi kéo con người, hay sinh vật nói chung thì đúng hơn, trở về nguyên thủy. Có lần ông mang con chó nuôi từ nhỏ vào rừng. Ban đầu nó cúp đuôi sợ sệt, như Thi vừa rồi, dần dần nó đánh hơi như muốn tìm tòi một cái gì đã mất, rồi quen dần, rồi vùng chạy xa.

Ông nói với Thi:

“Chú biết rồi, vừa rồi cháu có vẻ sợ sệt vì khu rừng này vắng quá phải không.”

“Vâng, có lẽ vậy. Không có người đã đành, không có cả chim, cả bướm. Khác rừng Việt Nam lắm. Tại sao vậy chú?”

“Rừng bên nhà là rừng nhiệt đới, có nhiều loại cây, loại hoa, loại trái, thì chim chóc, ong bướm mới đến hút nhụy hoặc ăn trái cây chứ. Còn cái rừng này toàn là thông xanh và các loại tùng, bách.”

“Đúng thế. Vậy mà cháu không biết. Còn chú thì cái gì cũng biết cả!” Cô ngẫm nghĩ. “Cái đất nước to lớn lạ lùng này, cháu thấy sợ sợ làm sao đấy.”

“Sống lâu ngày sẽ quen, không sao đâu Thi! Nào, Thi hết sợ chưa?”

“Hết. Có chú cháu còn sợ gì nữa. Nhưng tay chú hôm nay sao lạnh ngắt. Mọi hôm ấm lắm.”

“Thế à. Nghĩa là chú sắp vỡ nợ rồi.”

“Sao vậy?”

“Quê chú có câu tục ngữ như thế này, bàn tay ‘hơi đồng thì khó, hơi ló thì giàu.'”

“Cháu không hiểu.”

“Thì hơi đồng nghĩa là lạnh, lạnh như đồng. Hơi ló tức là hơi lúa thì ấm. Người nhà quê có nơi gọi lúa là ló.”

Thi cười ròn rã như mọi khi. Tiếng cười vang dội trong rừng vắng khiến cô gái chột dạ ngưng lại. Ông nhớ trước kia đứng sát bên Thi nhiều lúc người ông như muốn lên cơn sốt. Bây giờ ông đã bình tĩnh nhiều. Vì thế bàn tay mình lạnh, không lẽ vậy sao, ông thầm nghĩ. Cô gái đưa ông trở về thực tại:

“Hai chú cháu mình hôm nay không đi dạo trên bờ biển thì lại vô rừng chơi hả chú?”

“Không. Hôm nay chú cháu mình vào đây cũng có một chút việc đấy. Không phải chỉ đi dạo mát thôi đâu.”

“Một chút việc? Lạ nhỉ. Việc gì ở tận trong rừng? A, cháu nhớ ra rồi. Chú nói chú định đi tìm cái gì đó, phải không?”

“Đúng thế.”

“Mà đi tìm cái gì trong rừng này hả chú? Mỏ vàng chắc.”

“Thi đoán sai rồi. Đoán tiếp đi. Màu của nó không phải vàng, mà xanh. Lần này khó đoán hơn cây bông giấy đấy nhé.”

(Còn tiếp)

bài đã đăng của Ngự Thuyết

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)