Y như cũ, y như những cơn mưa Sài Gòn mùa hè xa xưa. Đến nhanh, ào ạt, hối hả, rồi đi nhanh, rồi bay đi nơi khác. Bay về Phú Lâm, Bà Om, Bà Điểm, bay qua Lái Thiêu, Thủ Đức, Giồng Ông Tố, bay lui đến vùng Cát Lái, Nhà Bè, bay xuống Chợ Thiết, Chợ Đệm, bay dài dài đến Bình Điền, Bình Chánh… Ông thả hồn bay theo cơn mưa loanh quanh thăm viếng những ngoại ô quen thuộc, thân yêu, của những ngày cũ. Hay chẳng bay đi đâu cả, hết mưa thì tạnh, có gì đâu mà bay bay mãi cho khổ cái thân!
Ông lẩm bẩm một mình và nước mắt lại muốn trào ra. Trời đất vẫn thế, vẫn vô tình, vẫn nắng mưa như cũ, sau bao nhiêu năm đã trôi qua, sau bao nhiêu biến cố “long trời lở đất”. Không! Trời không long, đất cũng không lở, chỉ có tóc mình không còn xanh, mắt không còn sáng, tim không còn sôi sục máu nóng. Chỉ có con người là dâu biển.
Sau cơn mưa, Sài Gòn dịu lại. Bầu trời sáng lên một chút, và một chút nắng chiếu nghiêng nghiêng trên mặt đường ướt át. Bụi bặm chưa kịp khô, chưa nhẹ để đủ sức bay lên đuổi theo những bánh xe quay nhanh. Rác rến, giấy rách, theo dòng nước mưa tấp nhiều hai bên đường. Vài cơn gió còn sót thổi nhẹ tới, nước mưa đọng trên cây rơi xuống lác đác. Vài ngọn lá vàng rơi theo. Ông nhìn trời. Bầu trời phía tây phơn phớt hồng, nhạt, và trong.
Ông nhớ lời chỉ dẫn của cô gái: qua khỏi đường Vĩnh Viễn, qua khỏi đường Hoà Hảo, rồi đi thêm một khúc ngắn “chút xíu” thôi là đến đường Nguyễn Chí Thanh. Ô, vậy có thể là mình đang đi về phía Ngã Sáu Chợ Lớn, về phía Đại Học Xá Minh Mạng của một thời. Những ngày lưu học “ở lậu” tại đó khi Miền Nam bừng bừng sức sống! Ông nhớ vào thời gian ấy, khá nhiều học sinh vừa tốt nghiệp trung học từ miền Trung vào Sài Gòn không có nơi cư trú, được mách nước rằng cứ việc mang hành lý tới ở tại Đại Học Xá vừa xây cất xong. Gọi là “ở lậu”. Giấy tờ hợp lệ tính sau. Chính quyền, viện Đại Học, luôn luôn “thông cảm” đối với đám sinh viên nghèo.
Ông nhìn đồng hồ tay. Ông chép miệng, mình phải bỏ cái tật chốc chốc lại nhìn đồng hồ, làm như lúc nào cũng phải chạy đua với thời gian.
Hãy cứ thong thả đi nào, hãy để cho Sài Gòn thấm vào hồn vào tim với biết bao thương nhớ, với biết bao nuối tiếc, nghe buổi chiều đang trôi trên dòng sông, trên bến cảng, trên những cao ốc, nghe lá me xanh reo lao xao trong những hàng cây hai bên đường Lê Thánh Tôn, đường Gia Long, đường Nguyễn Du, nghe những chiếc hoa vàng cánh cứng như móng tay của những cây sao cao ngất bay cuống quýt trong không gian rồi cắm nhanh xuống mặt đường Nguyễn Kim, xuống sân Vận Động Cộng Hoà, xuống đường Minh Mạng… khi những quán cà phê, hủ tíu khói bốc thơm lừng cả vùng Chợ Cũ những ngày thanh bình ngắn ngủi, khi những quán phở Pasteur của người Bắc di cư rộn rịp xe đến, xe đậu, xe đi, khi những xâu mía ghim, những gánh đu đủ, những trái dừa xiêm, những ly đá bào, làm mát cả cổ họng, cả lòng, cả dạ, khi mây lang thang trên bầu trời xa, khi nắng vu vơ trên vỉa hè gần, khi cơn gió vô tình in nổi lên những nét cong của em và vén cao tà áo lụa mỏng khiến cho bước chân em ngại ngùng, bàn tay bỡ ngỡ, tình yêu thẹn thùng trong đôi mắt thơ ngây, trong mái tóc vương vấn, trong nụ hôn bâng khuâng.
Phải chăng mình đang sống trong giấc mộng! Phải chăng, phải không Thủy, mình hãy cứ như ngày nào cùng mùa hè qua nhiều lần Sài Gòn vẫn còn đó, chúng mình vẫn có nhau, buổi chiều vẫn êm đềm trở về sau cơn mưa bay nhiều nơi trong thành phố, rồi ra ngoại ô, rồi hẹn hò tái ngộ. Để mọi chuyện lại tái diễn, để dòng nước cũ lại bắt đầu trôi dưới cầu, để Bến Tranh… để Thủy lại quay ngoắt người đi một lèo xuống nhà dưới, ba gọi mãi cũng không chịu lên, trong khi ngoài sân con chó xù lông vàng nằm kê mỏ lên bậc thềm nghe ngóng, đôi mắt lim dim.
Bảng chỉ tên đường Nguyễn Chí Thanh hiện lên đằng xa kéo ông trở về với thực tại. Ông tần ngần đứng lại tại một ngã ba bên góc phố đông người. Bàn ăn, lò nướng, đồ nhậu khói lên nghi ngút, mùi thơm ngào ngạt, ghế đẩu, dù to bảng cắm che mưa nắng, bày tràn ra lề đường choán cả lối đi, và trên mặt đất, rác rưởi la liệt. Những thực khách nhanh chân đã đến chiếm dần dần hết tất cả các ghế trống. Nhiều người lái xe gắn máy đèo thêm người đằng sau chạy uà tới, ngó dáo dác, thấy không còn chỗ, lại phóng xe đi nơi khác.
Ông đưa mắt nhìn quanh một lượt, rồi gở kính lấy khăn tay lau mặt, lau tròng kính mắt. Mình sắp gặp đứa con gái của Thủy rồi, chỉ vài phút nữa thôi. Mong sao nó giống mẹ nó. Mong sao nó đừng giống tên hải tặc một chút nào cả. Mà tên hải tặc hung ác đó mặt mũi ra làm sao, gốc gác ở đâu, quốc tịch gì? Hải tặc Thái Lan chứ còn ai vào đấy nữa. Những người trốn chạy trên biển xuất phát từ những vùng như Hà Tiên, Rạch Giá, Minh Lương, Cà Mau đổ ra vịnh Thái Lan rất thường xuyên bị bọn hải tặc Thái Lan tấn công, cướp bóc, hãm hiếp. Ông bần thần nghĩ đến Thủy.
Bỗng có tiếng nói khàn khàn vang lên sát bên tai của ông, như tiếng ra lệnh — đẹp lắm, trẻ lắm, 15, 16 tuổi thôi. 14 cũng có. Còn trinh cũng có. Sẵn xe đây, nhảy lên mau anh ơi! Nghĩ đến cô bé vừa chia tay ở đường Sư Vạn Hạnh, lại nghĩ đến đêm Hồ Tây ở Hà Nội, ông thở dài ngao ngán, và chán nản xua tay, chứ không lên giọng dọa gọi cảnh sát như trước nữa. Vậy mà vẫn bị nghe tiếng chửi thề tục tĩu.
Đèn đường bật lên mờ mờ, tỏ tỏ. Cuộc sống ban đêm khởi sự, rộn rịp, náo nhiệt, hỗn loạn. Xe cộ, hầu hết là xe gắn máy hai bánh, tuá ra như ong vỡ tổ, như thác nước cuồn cuộn.
Sài Gòn ngổn ngang trăm mối.
Tôi thích nghe hát. Tôi cũng thích hát. Hát hay hay dở là chuyện khác. Thế thì tiện nhất là tôi hãy hát cho tôi nghe, một công hai việc. Do đó tôi thường hát lảm nhảm một mình một câu hát tình cờ nào đó, nhất là vào những lúc không có ai đứng cạnh, ngồi cạnh, hát lui hát tới nhiều lần, không để ý đến điệu nhạc, không để ý đến lời ca. Gọi là hát lảm nhảm là vì tôi không để tâm đến việc tôi làm, còn hơi thì hát, như con dế ban đêm nó gáy, con ve muà hè nó kêu.
Tôi hát theo bản năng, như hít, như thở. Thế thì, nói cho đúng ra, hát thì có hát đó, nhưng không hát cho người khác nghe. Vậy có phải hát cho chính mình nghe hay không? Thường là không. Vậy mà cũng có lúc điệu hát, lời ca bỗng đập vào sự chú ý của tôi thật bất ngờ — ô, sao giai điệu nó nhạt nhẽo đến thế, sao lời vô vị đến thế; hoặc ngược lại, khúc hát quả thật đã làm rung chuyển cả tâm hồn tôi.
Suối ơi! Ôi nguồn yêu mến – Còn ghi khi bóng ai tìm đến. Hát đi hát lại câu đó nhiều lần, nhạc và lời ấy bỗng hiện lên rực rỡ trong tôi. Suối mơ! Tôi bàng hoàng. Thế ra tôi đang nhớ em quay quắt. Tôi không có suối, nhưng tôi có mơ, ai cấm được tôi mơ. Người ta nói giấc mơ nào rồi cũng có hồi kết thúc, nhưng giấc mơ của em và anh sẽ kéo dài một ngàn năm em nhé. Đời sống chỉ có năm bảy chục năm sao người ta cứ ưa nói chuyện ngàn năm? Ngàn năm mây trắng, Thương hoài ngàn năm, Ru mãi ngàn năm! Ừ thì ngàn năm càng tốt chứ sao, trăm năm ngắn quá!
Tôi lại tìm thấy trong một bài hát khác, cũng của Văn Cao, Chàng ngày nào tìm đến. Nhạc sĩ này coi bộ có nhiều xúc động vì “những tìm đến” ấy. Tôi đổi chữ chàng thành chữ em cho hợp với hoàn cảnh của tôi nhé, xin lỗi tác giả, em ngày nào tìm đến. Và như nói trên, còn ghi khi bóng ai tìm đến.
Vâng, em đã tìm đến tôi mấy lần. Thời trẻ dại ngu ngơ, nghĩ lại có khi ngượng đến đỏ mặt, nhưng quên thì không bao giờ quên.
Một lần em tìm đến nơi tôi trọ học, mùa hè, mồ hôi âm ẩm trên trán em, mồ hôi ướt thấm ra ngoài chiếc áo dài mỏng, căn phòng ở chung với năm anh em khác, không có chỗ tiếp khách, tôi nhường em ngồi trên chiếc ghế của tôi, tôi ngồi trên mép đi-văng dùng làm chỗ ngủ, em tới đột ngột không cho tôi hay trước, bảo rằng em tiện thể có việc đi ngang qua đây nên mua cho anh cuốn sách anh thích em tình cờ thấy bán ngoài tiệm, em nói dối nghe dễ thương quá, và… em phải đi ngay có việc gấp anh nhé, chắc là em thấy chỗ ở của tôi bê bối sợ tôi ngượng, chật quá, em và tôi cách nhau không đầy một cánh tay với, tôi hồi hộp nghe ngóng không biết bọn qủy sứ ở các phòng bên cạnh có đang rình rập để giở trò gì hay không, em như linh cảm có chuyện không hay, vội chấm dứt câu nói nửa chừng, đứng dậy đi, tôi tiễn em ra cửa, em ngạc nhiên ngỡ ngàng vì tôi không ôm hôn em, những tiếng la ó đập bàn đập ghế liền vang lên vì chúng nó thất vọng không được thấy những “pha cụp lạc”, em đi nhanh run lẩy bẩy, tôi muốn đấm vào mặt chúng nó, ơ hay, đã có phòng tiếp tân ngoài kia sao không chịu sử dụng cho đúng nội quy Đại Học Xá mà bây giờ còn lộn xộn, tôi chỉ còn biết, chờ em đi xa khỏi tầm nghe chúng nó, văng tục vài tiếng cho hả giận. Từ đó em không bao giờ trở lại nơi tôi trọ học.
Một lần, trời đã nhá nhem tối, em tìm đến một cổng trường vắng vẻ, tôi bồn chồn chờ em từ lâu trước giờ hẹn, thập thò như tên ăn trộm, hai đứa đứng bên nhau quấn quýt cuống cuồng, đúng là trò trên bộc trong dâu mà người xưa thường coi rẻ, anh nói gì em không hiểu, đèn đường đã lên từ lâu, mỗi lần ánh đèn pha xe hơi quét qua, thấy mắt em long lanh say đắm, môi em rung, thôi anh, thôi anh, em lạy anh, thì em để xe em ở đây khóa lại không sao đâu, anh chở em đi nghe, đi đâu anh, không, em sợ, giọng em lạc, hoảng hốt, không anh, anh chiều em nghe, những đợt sóng trong lòng dâng lên hạ xuống nhiều cơn, đứng bên nhau cho mãi đến khuya không thấy mỏi chân, không nói chuyện gì với nhau nhiều, không nghe nhau, chỉ nghe côn trùng nỉ non dai dẳng, nghe lá âm u chốc chốc rụng xuống chạm mặt đường kêu khẽ, nghe sương xuống ướt đẫm hai mái tóc, hai vai, nghe yêu thương dạt dào trong lòng.
Còn anh thì đã tìm đến em biết bao nhiêu lần rồi hả Thủy? Nhiều quá, cả em lẫn anh đều không nhớ nổi. Và có với nhau biết bao nhiêu kỷ niệm làm sao quên được.
Thế mà cuối cùng anh lại bỏ em anh đi, cơn mưa phiền muộn, u uất, phố phường xao xác, bàng hoàng.
Từ đó em có bao giờ trở lại chưa? Từ đó anh có bao giờ gặp lại em?
Có chứ, em đã trở lại nhiều lần. Áo quần xốc xếch, đầu bù tóc rối, mắt thất thần, trán móp, môi dập, ngực trần nhầu nát, hai cánh tay bị bẻ quặt ra đằng sau, miệng gào không ra tiếng. Trong những giấc mơ dữ dội của anh. Ôi, những khổ nạn của em biết lấy gì đo lường nổi! Thức dậy mồ hôi vã ra như tắm, mắt cay, má ướt nhòe. Lại cố gắng ép giấc ngủ trở lại. Để mong được tiếp tục giấc mộng dữ. Để gặp lại em như thế đó.
Thi lại nhí nhảnh mở lời:
“Cho cháu kêu chú bằng chú nhé. Được không? Không lẽ gọi là dượng, quê lắm. Đúng ra gọi là bác. Mà bác thì già quá, trong khi chú trông còn trẻ măng!”
Ông bỡ ngỡ nhìn cô gái, rồi nhìn quanh. Căn phòng quá hẹp, một bàn phấn nhỏ, cũ kỹ, nằm bên dưới chiếc gương ố màu hình bầu dục dựa sát tường. Cạnh bàn là một chiếc ghế gỗ có tựa lưng và một chiếc ghế đẩu. Sau chiếc ghế gỗ là bức màn ny lông đục nhờ nhờ treo lưng chừng căn phòng và rủ xuống gần sát đất, hẳn là để che kín cái giường ngủ bên trong cùng. Cạnh tường, bên lối ra vào dựng một chiếc xe Honda hai bánh choán cả lối đi.
Ông ngẫm nghĩ thế thì nhà bếp, phòng ăn, nhà vệ sinh, nằm nơi nào. Nhưng ông lại hỏi:
“Cháu ăn uống ra sao đây?”
“Chú muốn hỏi cháu có nhà bếp không hả? Sức mấy mà có! Cháu ghét nấu nướng lắm. Với lại cháu bận đi làm cả ngày cho nên ăn uống qua quýt hàng chợ cho xong bữa. Còn hôm nào nhớ cơm thì bắc lò ở ngoài hàng hiên nấu. Nói thế chứ khi cần cháu nấu ăn cũng được lắm đó.”
“Thế còn …”
“Còn gì nữa hả chú? Chắc chú muốn hỏi thế còn giặt giũ, tắm rửa, nhà cầu? Thì được dùng chung với chủ nhà. Mọi thứ đều có tính trong tiền thuê nhà đâu vào đấy không thiếu một đồng xu teng.”
Ông nhủ thầm cô bé này lanh đáo để, mình chưa kịp nói nó đã đoán hết ý. Ông được nhường chiếc ghế có dựa lưng, cô gái thì dùng ghế đẩu. Ông nhớ ngày xưa ông cũng nhường cho mẹ cô gái cái ghế dựa, còn ông thì ngồi trên mép chiếc đi văng, lần đầu tiên khi hai người gặp nhau nơi ông trọ học ở Đại Học Xá Minh Mạng.
Trước mặt hai người là hai ly đá lạnh đặt trên cái bàn phấn trên đó có một bình hoa giả đủ màu bụi bám đầy. Hai ly đá lạnh ấy cô vừa mua ngoài vỉa hè mang vào. Ông đứng dậy bảo cô gái đổi chỗ ngồi.
“Không, chú là người lớn phải ngồi ghế ‘xa lông’ mới được.”
Thi nhường luôn cái quạt giấy, ông cầm lấy. Căn phòng nóng bức, thỉnh thoảng ông quạt cho cả hai người.
Ông thật không ngờ, và sung sướng thấy nó có rất nhiều nét giống mẹ. Cũng khuôn mặt thanh tú, cũng “mắt phượng mày ngài”, cũng chiếc mũi thon, cũng miệng cười thật tươi làm nổi lên lúm đồng tiền mơ hồ thoáng hiện thoáng mất. Và đặc biệt là cũng tiếng cười trong trẻo, âm vang, xôn xao. Tiếng cười hết nhưng âm thanh của nó cứ lưu lại trong không gian, trong lòng người nghe. Và cũng dáng người cao cao, gầy gầy.
Thế bố của nó có góp phần nào trong việc hình thành ra nó hay không? Mái tóc chăng, hơi xoắn xoắn? Nhưng tóc quăn cũng có thể do uốn. Ông thầm nghĩ phải có tình yêu thì đứa con mới là sự kết hợp của bố và mẹ về tâm hồn cũng như thể xác. Ông mong như thế.
Hồi hai người xa nhau, Thủy có lẽ cũng cùng tuổi với cô bé này. Hơn một phần tư thế kỷ đã trôi qua. Gặp cháu đôi lúc thảng thốt tưởng gặp mẹ cháu. Nhưng con nhỏ này trông láu cá quá. Phải chi nó dịu dàng thêm một chút, thì… thì nó giống mẹ nó như khuôn, như tạc.
“Chú ơi, sao chú không chịu nói gì cả vậy? Hay chú giận cháu rồi? Chú không muốn cháu gọi chú là chú chứ gì?”
“Cháu muốn gọi gì cũng được. Gọi chú là chú nghe cũng hay hay! Làm cho chú thấy trẻ ra. Thế là được rồi. Bây giờ chuyện khác nhé! Chú đến đột ngột cháu không ngạc nhiên hay sao? Cháu có vẻ tỉnh bơ! Hay cháu biết chú tới nên đã chuẩn bị sẵn cả?”
“Cháu chuẩn bị cái gì đâu nào? Chú giàu tưởng tượng quá! Hay chú muốn nói mỉa?”
“Chuẩn bị tinh thần.”
“Thế hả? Thế thì đúng. Thật ra cháu đã biết từ khuya rồi. Bà dì của cháu ở Vàm Láng gởi thơ cho cháu báo trước mọi chuyện. Bà còn nói cho cháu biết nhiều điều về chú nữa đó.”
“Thế à. Bà ở Vàm Láng, chú có nghe nói. Bà dọn về Vàm Láng đã lâu chưa? Tại sao không ở Bến Tranh nữa?”
“Tại sao? Làm sao cháu biết được mà chú hỏi. Bà dọn về Vàm Láng lúc nào, cháu cũng mù tịt.”
“Nhưng mẹ cháu là con một, vậy dì đó là dì họ của cháu chứ gì, tức là chị họ hoặc em họ của mẹ cháu phải không?”
“Không phải! Cháu có bao giờ nói là dì đâu. Cháu bảo bà dì mà. Bà dì khác dì. Đúng không? Được không? Bà là người vợ kế của ông ngoại cháu, sau khi bà ngoại ruột của cháu qua đời. Mẹ cháu nói như thế, cháu nhớ lõm bõm, vì lúc đó cháu còn nhỏ lắm. Và mẹ cháu cũng có nói nhiều về cái quận, hay cái làng Bến Tranh gì gì đó bên sông Cửu Long.”
Ông chăm chú lắng nghe từng lời của cô gái. Cô có vẻ hài lòng, liếc mắt nhìn ông, nhanh nhẩu nói thêm:
“Thỉnh thoảng mẹ cháu có nhắc đến chú.”
Ông chồm người tới hỏi hối hả:
“Thật không cháu?”
“Thật chứ sao không thật!”
“Mà nhắc như thế nào?”
Cô gái ôm mặt cười:
“Thế nào à? Thì nhắc đến chú như tình nhân nhắc tới tình nhân. Giọng nghẹn ngào vì yêu, vì thương, vì tiếc, vì đau đớn, chớ chú còn đòi như thế nào nữa!”
Ông thở dài nhìn kỹ cô gái, ngẫm nghĩ. Con bé này không phải tay vừa. Biết có nên tin nó hay không. Tính tình nó khác mẹ nó quá. Có lẽ giống cha. Ông đành phải nói khó:
“Cháu nói thật nhé, khi mẹ cháu nhắc đến chú, thì… thì mẹ cháu có trách móc chú lắm không?”
Cô gái lại nghiêng nghiêng khuôn mặt, liếc mắt nhìn ông, cô ít khi nhìn thẳng, hé miệng, răng cắn nhẹ vào đầu lưỡi, chau mày, đăm chiêu ra chiều suy nghĩ, rồi nhỏ nhẹ trả lời:
“Bộ cháu hay nói láo lắm hay sao, chưa chi đã cảnh cáo nói thật nhé, nói thật nhé. Nhưng thôi, bỏ qua, cháu nói thiệt đây. Mẹ cháu không chê trách gì cả. Mẹ nói rằng mẹ không thể nào quên được chú, cho đến khi sắp sửa từ giã cõi đời, vẫn cứ nhớ. Nhớ dai lắm. Nhớ hoài. Được không?”
Ông nghĩ thầm, dáng điệu thì có vẻ thật, mà lời nói thì có vẻ đùa cợt, và xấc xược. Lại cái lối nói “chớ chú còn đòi như thế nào nữa”, “đúng không”, “được không”. Con bé hỗn láo! Nhưng nghĩ lại, nó một thân một mình không ai chỉ bảo, dạy dỗ, cho nên không biết giữ gìn lời ăn, tiếng nói. Ông đành lắc đầu, nói khéo:
“Chú qúy mẹ cháu lắm, chú cũng qúy cháu lắm. Chú chỉ muốn biết một chút sự thật thôi. Chú biết chắc chắn rằng mẹ cháu oán trách chú vô cùng. Nhưng… sở dĩ… chú biết nói thế nào cho cháu hiểu.”
“Thì chú cứ nói đại đi, coi thử cháu có hiểu không nào. Cháu không ngu như người ta tưởng đâu. Như chú tưởng đâu.”
Ông cố dịu giọng:
“Vâng, vâng, cho chú hỏi thêm một chút thôi… Trước khi mẹ cháu mất, mẹ cháu có nói gì, có dặn gì, liên quan đến… đến chú không? Và cháu có nhớ …” Ông lại ngập ngừng.
Cô gái chau mày. Ông không hiểu đó là biểu lộ sự khó chịu hay chỉ là thói quen. Cô gái vội vã tiếp lời:
“Chú không chịu nói mà cứ ngập ngừng hoài, cháu sốt ruột rồi đó. Hồi đó cháu còn nhỏ quá mà chú cứ bắt cháu nhớ, nhớ, nhớ. Nhớ cái gì vậy? Cháu chả nhớ cái gì cả …”
Ông sa sầm nét mặt, im lặng nhìn xuống đất, một tay ôm trán. Cô gái dường như có chút cảm động, nói khẽ:
“… ngoài cái chuyện… chuyện …”
“Chú đang nghe đây,” ông ngẩng đầu lên, chồm người tới, nói gần như van lơn. “Chuyện gì hả cháu? Cháu nhớ gì hả cháu?”
“… khi nào nhắc tới chú, mẹ khóc. Khóc mùi khóc mẫn.”
Ông ngồi xuống ghế trở về vị thế cũ. Ông biết là chưa thể hỏi han thêm gì được nữa. Cô gái mỉm cười, nụ cười âm thầm:
“… và lúc mẹ gần chết, người ta dùng chữ gì hay lắm. Lúc sắp qua đời, à lúc lâm chung phải không hả chú, đúng rồi, mẹ nhắc đến nhiều tên. Tên ông bà ngoại, tên cháu, lẽ dĩ nhiên, tên làng tên xã gì gì đó. Bến Tranh và con sông Cửu Long, phải không chú? Và, và, và cũng không quên nhắc tên chú, đến mấy lần, anh, anh Khê, anh Khê, chứ không ít đâu.”
Đầu năm 1975, miền Nam lên cơn sốt trước những đợt tấn công dữ dội của Cộng quân. Quân đồng minh Mỹ thì đã “đem con bỏ chợ” rút ra khỏi miền Nam từ mấy năm trước, chỉ để lại một ít cố vấn ở hậu phương. Vũ khí, đạn dược, tài chánh, bị cắt giảm quá nhiều. Chiến cụ hư hỏng không được thay thế, rất nhiều đơn vị có súng mà hết đạn, máy bay không đủ nhiên liệu để cất cánh bay xa. Trong khi đó Bắc quân được khối Liên Xô và Trung Cộng tiếp tục gia tăng viện trợ gấp bội.
Tuyệt đại đa số thanh niên miền Nam đều ở trong quân ngũ. Hầu như không có gia đình nào không có người thân hoặc thuộc đơn vị tác chiến cầm súng chống xâm lăng, hoặc thuộc hậu cần yểm trợ cho chiến trường. Số tử trận, số thương vong càng ngày càng nhiều. Những quân y viện và những bệnh viện dân sự không đủ chỗ tiếp nhận thương bệnh binh.
Riêng anh, anh vẫn đứng bên lề cuộc chiến. Anh là đứa con độc nhất trong gia đình nên được miễn nhiệm vụ quân dịch, khỏi phải vào Trường Bộ Binh Thủ Đức như bạn bè cùng trang lứa.
Để tâm hồn được thanh thản, anh tự nhủ, anh tự trấn an, anh có cuộc sống của riêng anh, hay nói cho đúng hơn, anh và Thủy từ khi yêu nhau đã có một cuộc sống riêng tư mà anh không muốn để bất kỳ một thế lực nào, hoàn cảnh nào, hoặc cá nhân nào được phép chen vào chi phối, cho dù người đó là người cha kính yêu của Thủy đi nữa. Thủy có lẽ không đồng ý với anh lắm, nhưng vì yêu anh, Thủy vui vẻ chấp nhận tất cả những cái “kỳ khôi” nơi anh, anh biết thế. Tuy nhiên, những ngày sôi động từ đầu năm 1975 đã không để anh yên. Cái thế giới riêng biệt của hai người yêu nhau đắm đuối đó đã bị xâm nhập, xáo trộn. Anh không thể làm ngơ trước những tin tức thời sự nóng bỏng trên báo chí, trên các đài phát thanh, truyền hình, nhất là đài BBC.
Ngày 10 tháng 3 năm 1975 Cộng quân tấn công Ban Mê Thuột, ngày hôm sau thành phố cao nguyên trọng yếu này thất thủ.
Ngày 17 tháng 3, Vùng Hai Chiến Thuật bỏ ngỏ, toàn bộ Quân Cán Chính rút về duyên hải, dân chúng nheo nhóc chạy theo hàng vạn người, trúng đạn đại pháo của địch mà chết, xéo lên nhau mà chết. Xác chết nằm la liệt trên đèo An Khê, quốc lộ 19.
Ngày 20 tháng 3, cố đô Huế thất thủ, đèo Hải Vân tràn ngập dân chạy giặc đổ xô vào Đà Nẵng.
Cuối tháng 3, Đà Nẵng cũng mất, Quân Đoàn I tan rã. Quốc Hội Mỹ bác bỏ viện trợ khẩn cấp cho miền Nam.
Đầu tháng Tư Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm từ chức. Một vài đơn vị trưởng trong quân đội bỏ hàng ngũ trốn ra nước ngoài.
Giữa tháng Tư Cộng quân tiến sâu vào miền Nam, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu bị áp lực phải từ chức, cùng gia đình bay qua Đài Loan trên một chuyến máy bay đặc biệt do CIA thuê bao. Phó Tổng Thống Trần văn Hương lên thay thế chức vụ Tổng Thống để mấy ngày sau lại buộc phải trao quyền cho Đại Tướng Dương văn Minh, với hy vọng dàn xếp được một thỏa hiệp nào đó với phe Cộng.
Lại thêm một số tư lệnh quân đội với sự tiếp tay của cố vấn Mỹ bỏ hàng ngũ chạy thoát thân. Quân miền Nam như rắn không đầu.
Ngày 30 tháng 4, Tổng Thống Dương văn Minh tuyên bố đầu hàng! Nhiều tướng lãnh, sỹ quan, binh sĩ, tự sát. Trong ngành Cảnh Sát và Dân Sự cũng có những gương tử tiết lẫm liệt. Phe thắng trận vội vàng tìm đủ mọi cách ém nhẹm hoặc xuyên tạc, hoặc bôi bẩn những hành động đó.
Tiến vào Sài Gòn, Cộng quân đã làm một việc đầu tiên rất thất sách và buồn cười là cho xe tăng ủi sập một cánh cổng của Dinh Độc Lập đã mở toang, không một người lính đứng gác. Cái bản chất tàn bạo, ưa phá phách, hủy diệt thế là đã biểu lộ ngay khi chân ướt chân ráo tiến vào thủ đô miền Nam.
30 tháng Tư năm 1975! Buổi trưa Sài Gòn trời đang trong sáng bỗng tối sầm. Mây đen lũ lượt kéo đến. Sấm sét nổ rền. Những lằn chớp vạch dọc vạch ngang như những nhát kiếm xé rách không gian. Mưa tuôn. Tháng sáu Sài Gòn mới bắt đầu mùa mưa, nhưng ngay hôm cuối tháng Tư đó, chỉ hôm đó mà thôi, trời đất cũng không ngăn được giọt nước mắt, người miền Nam rỉ tai cho nhau nghe như thế.
Mưa gió làm cho tiếng nói của vị tổng thống cuối cùng Miền Nam trên đài phát thanh càng thêm thiểu não.
Ô! Sao có chuyện lạ đến thế, Cộng quân xuất hiện ngay giữa thủ đô Sài Gòn! Những toán lính trẻ con, ngô nghê, ngơ ngác, quân phục lôi thôi lếch thếch, ngồi trên những quân xa mang nhãn hiệu Trung Cộng được đưa đi vòng vòng các quận của đô thành Sài Gòn, sáng nơi này, trưa nơi nọ, tối nơi kia. Có tin tung ra rằng quân chính quy của miền Bắc đang nằm mai phục quanh Sài Gòn sẵn sàng rót vào những trận mưa đại pháo nếu bọn lính con nít đó, những con tốt thí, bị tiêu diệt.
Dân chúng nhốn nháo kẻ đi, người chạy, tràn xuống đường cái như những dòng nước lũ. Một số binh sĩ quốc gia chia thành từng nhóm nhỏ vài ba người vội vàng trút bỏ vũ khí, nón sắt, vứt bừa bãi trên hè phố. Có người lột cả áo quần, chỉ mặc chiếc quần xà lõn, mong địch quân không nhận ra mình là lính Cộng Hoà.
Anh đi âm thầm trên lề đường Nguyễn Thiện Thuật. Nước mưa ướt mèm đầu tóc, chảy thành dòng xuống cổ, thấm xuống ngực, xuống bụng. Anh bước lầm lũi, đạp bừa vào những vũng nước đọng trên lề đường. Cổ anh nghẹn, miệng anh đắng, mắt anh cay, lòng anh như lửa đốt. Phố phường xao xác, bàng hoàng, cơn mưa phiền muộn, u uất.
Bỗng từ góc đường Hồng Thập Tự – Nguyễn Thiện Thuật, một xe nhà binh chầm chậm tiến tới, để đèn pha chiếu sáng, còi bấm liên tục. Trên xe có khoảng bốn năm binh sĩ đứng ở khoan sau, đầu đội nón sắt, mặt xám xịt, mắt trợn trừng đảo quanh nhìn bốn phía, súng cầm tay chỉa thẳng vào đám dân chúng đang gồng gánh chạy ngược, chạy xuôi, đầy đường. Người tài xế ngồi sau tay lái bặm môi, mắt long lên sòng sọc. Bên cạnh tài xế là một sỹ quan đeo hai bông mai vàng nơi cổ áo, mặt lạnh như tiền, tay ghì súng tiểu liên. Chiếc xe rú lên từng hồi, lồng lên như con thú bị thương, nhưng không thể nào chạy nhanh trên con đường đông nghịt cả người. Một tiếng thét nổi lên, xe thắng đột ngột, những người lính ở khoan sau đồng loạt nổ súng. Viên sỹ quan thét to đừng bắn, đừng bắn.
Không có người nào bị trúng đạn, họ bắn chỉ thiên. Viên sỹ quan mở cửa xe nhảy xuống đất, đỡ một người đàn bà đang nằm sấp trên mặt đường, máu từ đầu đổ ra hoà với nước mưa lan trên mặt nhựa đen — cái gánh gạo, cơm, nồi niêu, quần áo, khá nặng của chị vướng vào bánh xe trước kéo chị ngã theo. Một người lính từ khoan sau nhanh nhẹn nhảy xuống, mang theo đồ cứu thương đến băng bó vết thương trên đầu của chị trong khi mấy người lính kia đứng tại chỗ trên khoan xe, quay người vòng vòng, tay hờm sẵn súng.
Nhiều tiếng nói chen nhau:
“Các anh ơi, đừng bắn! Mình đây cả mà.”
“Các anh đi đâu?”
“Những đơn vị bạn hiện nay ở đâu?”
“Phe mình còn nhiều không?”
“Mỹ nó có còn giúp mình không?”
“Quân tiếp viện tới chưa?”
“Không có tụi nó ở vùng này đâu, các anh yên tâm.”
“Làm sao biết được! Đề phòng như thế là phải.”
“Chỉ một xe này sao? Các xe khác nữa đâu?”
“Nhiều đơn vị đã rút về Miền Tây? Về Cần Thơ?”
“Vân vân và vân vân …”
Những tiếng bàn tán xôn xao, những cặp mắt đỏ kè. Nước mắt của anh cũng ràn rụa. Người đàn bà bị thương sau khi được băng bó vội, ngồi dậy, quần áo ướt sũng nước mưa, ngập ngừng:
“Không hề gì. Tôi vô ý để gánh vướng vào xe. Nhưng không sao đâu. Cám ơn các anh.”
Viên sĩ quan nhảy lên xe đóng mạnh cửa, người lính cứu thương cũng nhảy lên khoan sau đặt hộp cứu thương xuống sàn xe và vồ lấy cây súng của mình. Chiếc xe từ từ lăn bánh, đám đông dãn ra dần.
Anh đứng ngẩn ngơ nhìn theo chiếc xe nhà binh chạy nhanh dần, sắp đến cuối đường Nguyễn Thiện Thuật, sắp rẽ qua lối Phan Thanh Giản.
Dưới bầu trời u ám, vài tia chớp chằng chịt trên cao cùng tiếng sấm gầm xa xa làm anh thảng thốt. Anh như thể lần đầu trong đời được thấy bầu trời bị xé nát ấy, được nghe rõ tiếng sấm gầm nạt nộ ấy. Anh chợt thấy lóe lên trong đầu tất cả cái quan niệm sống ích kỷ, vô trách nhiệm, hèn hạ của chính anh từ trước đến giờ. Máu nóng trong người anh dâng lên. Xe chưa chạy nhanh lắm trên con đường đầy người, anh vùng chạy theo xe, ráng sức đuổi theo xe. Hai tay súng trên khoan xe chập lại chỉa thẳng vào anh, tiếp theo là tiếng quát lớn, “Đứng lại! Đứng lại!” Anh không nghe thấy gì cả, mặc kệ mọi chuyện, cố sức chạy. Người anh như được chắp cánh bay. Và anh theo kịp.
“Cho tôi lên xe với!” anh gào lớn.
Một người lính để súng xuống sàn xe, chồm người đưa tay bắt lấy tay anh kéo mạnh lên. Thế là anh đã gia nhập đoàn quân thất trận vào giờ chót.
Vào giờ phút ấy, anh không chút bận tâm nghĩ đến Thủy. Anh cảm thấy mối tình của anh đối với Thủy vào lúc đó sao nhỏ nhoi quá. Như hạt bụi trong trần gian. Như hạt cát trên sa mạc. Như giọt mưa trong bão tố.
Nhưng những ngày kế tiếp mọi chuyện thay đổi. Anh như người mất trí trong nhiều ngày đến nỗi những đồng chí chiến hữu đã mấy lần mở lời với anh rằng họ rất thông cảm nỗi khổ của anh, rằng nếu anh muốn rời bỏ đơn vị, anh cứ việc tự nhiên.
Vì tự ái cũng có, mà tự trọng cũng có, anh nhất định ở lại tiếp tục chiến đấu với họ. Anh chăm chỉ tập luyện cách sử dụng các loại súng, lựu đạn, cách bảo trì vũ khí, cách sử dụng máy truyền tin, những bài học cơ bản về di hành, tấn công, phòng thủ, phục kích, cách đọc bản đồ, các môn địa hình, địa vật, v.v…
Một tình cờ rất an ủi cho anh, trong đoàn quân thất trận ấy anh gặp được một người anh họ xa. Trước kia họ ít giao thiệp với nhau, nhưng từ khi gặp nhau trong hoàn cảnh chiến đấu cùng quẩn ấy, họ thương yêu nhau như hai anh em ruột thịt. Những lúc buồn quá anh có nơi để tâm sự, kể lể.
Nhưng đó là những ngày đầu tiên. Với thời gian, anh dần dần cảm nhận ra được vì sao những người lính cương nghị và dãi dầu ấy nhất định không chịu buông súng trước kẻ địch mạnh gấp trăm ngàn lần, vì sao họ nhất quyết đốt lên một tia lửa nhỏ mong soi sáng đêm tối mịnh mùng đang bủa vây, và anh tự thấy hổ thẹn vì sự yếu đuối của mình. Từ đó, mỗi khi nghĩ đến câu chuyện canh cánh bên lòng, chuyện Thủy và anh, anh cắn răng chịu đựng, không còn dám thổ lộ với bất kỳ người nào.
Đơn vị của anh cùng với một số đơn vị bạn sau những lần đụng độ với địch, bị hao mòn dần mà không được bổ sung hoặc tăng viện. Cô thế, họ tìm đường trốn chạy, tránh chạm súng, cuối cùng lập được một mật khu nhỏ ở miền rừng núi giáp ranh với Cam Bốt và Lào. Đóng quân ở nơi này, họ có thể quan hệ với hai nước láng giềng ấy khi cần tìm kiếm thêm lương thực, đồng thời dễ dàng liên lạc với những nhóm người Thượng miền Tây Nguyên Trung Phần xưa nay vẫn có tinh thần chống Cộng rất cao.
Để cứu ứng cho nhau, hoặc khi thế cùng lực tận không thể yểm trợ cho nhau đi nữa thì cũng không lâm vào tình trạng bị tiêu diệt toàn bộ, họ phân tán mỏng thành năm cứ điểm, mỗi căn cứ cách căn cứ kia vài chục cây số, dù quân số không đông.
Vấn đề tối quan trọng là lương thực. Nước uống thì đã có mấy con suối. Cho nên họ nỗ lực trồng trọt, chăn nuôi với hy vọng trong một tương lai không xa họ bắt được liên lạc với các đơn vị bạn khác. Hy vọng ấy quả là mong manh, nhưng họ nhất định không chịu buông súng đầu hàng. Họ nuôi gà, chó, heo; họ gầy ao cá; họ trồng khoai, sắn, bắp. Ngoài ra, họ cố giữ quan hệ tốt với những bản Thượng, những làng hẻo lánh của hai nước láng giềng phòng khi cần sự trợ giúp nào đó.
Một hôm đi sục sạo trong rừng, anh gặp mấy đám tranh mọc cao gần đến đầu người. Anh bứng đem về căn cứ mấy gùi tranh. Mọi người bảo anh làm công việc vô bổ, anh cố thuyết phục họ. Tranh mọc nhanh lắm. Trước mắt là trồng tranh bao quanh những khu nuôi gà, những khu dành làm chỗ ngủ, nhờ lá tranh có gai nhọn, rắn rết khỏi bén mảng tới. Sau đó khi tranh mọc nhiều sẽ dùng để lợp nhà chuẩn bị cho mùa mưa sắp tới. Và cũng để thay củi khi cần nấu nướng lặt vặt. Tranh bắt lửa rất nhanh. Mọi người cười xòa tỏ vẻ không tán thành cho lắm, nhưng không ngăn cản.
Tranh, dòng suối, bến nước. Anh chọn riêng cho anh một nơi kín đáo bên dòng suối có mấy tảng đá to bảng làm chỗ ngồi, và anh gọi đó là Bến Tranh Rừng. Anh nhớ Bến Tranh bên dòng Cửu Long, quê của Thủy và cũng là quê hương thứ hai của anh.
Nhiều khi anh nhớ Thủy da diết, nhiều khi anh nhớ quay quắt những quãng thời gian êm đềm, ngắn ngủi ở Bến Tranh, cùng Thủy đi “thả bộ” dài dài trên những con đường làng ghé thăm những đám ruộng lúa xanh, những thửa vườn trồng rau, cải, đậu, sua đũa, xoài, khóm, mà ba của Thủy gọi là rẩy, hoặc chèo xuồng trên những con lạch khi thì giở cá, giở tôm, từ những cái đăng cái đó mà người nhà đặt sẵn, đem về làm bữa nhậu buổi chiều, khi thì hái mận, hái ổi, hái cam, hái quýt nhánh sà thấp xuống tới mặt nước, và một lần, một đêm trăng tròn cuối mùa hè, cùng cả gia đình của Thuỷ đi thuyền trên sông Cửu Long, nhân đó ghé chơi mấy cù lao nằm giữa dòng sông, cho mãi đến sáng hôm sau mới về.
Anh âm thầm xây dựng cho anh một nơi chốn riêng biệt của mình ở giữa rừng, anh đặt tên Bến Tranh Rừng. Anh gọi chỗ này là Tân Hiệp, có nhiều cây xanh rậm rạp, đi thêm một quãng cứ cho là năm cây số rồi rẽ qua trái, rồi đi thêm vài cây số, qua một cây cầu nhỏ, cầu thì dễ, chỉ là một cây rừng chặt sát gốc cho nó ngã vắt ngang qua lạch nước, thì sẽ tạt ngang qua chợ, lấy cái gì để làm chợ đây này, những cụm lá gồi mọc gần nhau nhé trông như bạn hàng đầu đội nón lá ngồi xúm xít bày biện buôn bán, rồi đi thêm một đoạn ngắn nữa, là đến nhà em. Ngôi nhà gạch, mái ngói đỏ, rộng thênh thang, nằm giữa khu vườn có chuối, dừa và nhiều loại cây ăn trái. Rồi chùa Phước Tràng, rồi sông Cửu Long mênh mông, tại nhiều khúc không thấy được bờ bên kia. Lấy cái gì tượng trưng cho sông Cửu Long, anh nghĩ mãi không ra.
Nhớ Thủy, anh gào to tên Thủy những khi anh ngồi một mình nhìn những đám tranh theo chiều gió dợn lên dợn xuống như sóng nhấp nhô giữa dòng sông lớn. Những lúc đó, anh không muốn nói rõ tiếng người, anh hú to như loài thú, nghe tiếng vang dội lại: Thuỷ ơi Thủy ơi! Bây giờ em ở đâu?
Trốn tránh và cầm cự được tám tháng, ba trong năm cứ điểm bị tiêu diệt. Hai cứ điểm cuối cùng bị vòng vây siết chặt dần. Tại sao chuyện đó có thể xẩy ra được? Tại sao kẻ thù có thể tìm ra những căn cứ bí mật của anh và đồng bạn trong những cánh rừng hiểm trở chưa từng có bước chân người? Không ai tìm được câu trả lời nào thỏa đáng ngoài giả thuyết rằng phe địch đã cho cài người vào từ lâu, từ trước khi nhóm các anh bắt đầu thoát chạy ra khỏi Sài Gòn.
Họ nhìn nhau buồn bã, dè dặt. Họ bắt đầu nghi ngờ nhau. Phe địch vốn có “thiên tài” cài người mà! Không khí tang tóc bắt đầu bao trùm. Những người cuối cùng còn sống sót trong đó có anh liều chết phá vòng vây và tìm đường vượt qua biên giới Cam-Bốt. Rồi vượt qua Thái Lan.
Các cứ điểm biến thành bãi hoang trên đó lỗ chỗ những cái hố do đạn sơn pháo đào lên bầy nhầy xương, thịt, máu. Vỏ đạn, báng súng cháy sém, nòng súng cong queo, nón sắt thủng lỗ nằm vung vãi bên những xác chết của địch, của bạn, của mấy con heo, con chó. Xác địch thế nào cũng được mang đi chôn cất, xác bạn đồng ngũ của anh sẽ nằm phơi dưới mưa nắng để chim chóc, muông thú, côn trùng rúc rỉa. Mùi thịt cháy xông lên tanh tưởi, khét lẹt có lẽ cả tháng trời cũng chưa tan đi hết. Và tranh? Tranh bắt lửa nhanh cháy tận gốc nhưng mầm và rể nằm sâu dưới đất sẽ chờ dịp trổi dậy.
Anh biết rằng trong mấy tháng nữa khi mùa mưa tới, cỏ dại sẽ lan tràn nhanh ra khắp nơi như năm ngoái khi bọn anh vừa đặt chân tới. Rồi mọc lên cao và xanh. Rồi mùa xuân về trổ hoa. Dăm ba chiếc hoa dại cánh vàng rực rỡ và nhỏ như ngọn rau má cũng sẽ trổ ra từ nhiều nơi, kể cả từ những lỗ đạn trên nón sắt, khoe màu dưới ánh nắng ban mai giữa rừng hoang. Tranh cũng thế, sẽ mọc lên mạnh hơn xưa, tươi tốt hơn xưa, cao hơn xưa, nhờ có thêm xương, máu và thịt ngấm vào lòng đất làm phân bón. Mật khu ấy sẽ tiêu tan không còn để lại dấu vết gì. Tuy thế, Bến Tranh Rừng bên dòng suối trong rừng hoang chắc chắn vẫn còn đó. Rồi sao nữa? Suối sẽ cạn, đá sẽ mòn, tranh có còn chết đi sống lại mãi hay không? Liệu anh có bao giờ được trở về thăm Bến Tranh Rừng bên con suối nhỏ, và Bến Tranh của Thủy bên dòng sông lớn?
Sống lây lất nhiều năm ở các trại tỵ nạn, hào khí nguội dần nơi anh, nhưng lạ quá tình yêu của anh đối với Thủy càng ngày càng nung nấu. Tại sao thế? Đôi khi anh lẩn thẩn nghĩ rằng có lẽ tại vì anh đã bỏ Thủy mà đi trong tức tưởi, trong tiếc nuối, trong ân hận, trong đau đớn, cho nên anh không thể nào quên được Thủy? Và cũng có lẽ tại vì anh, anh vừa mong như thế vừa sợ sự việc đã xẩy ra như thế, tại vì anh mà Thủy đã rời bỏ người cha Thủy rất kính yêu, bỏ Bến Tranh, bỏ quê hương, đi tìm anh.
Từ ngày được biết tin Thủy gặp nạn, anh như điên như cuồng. Nếu vào ngày định mệnh ba mươi tháng tư đó anh được gặp Thủy vào giờ chót để có thể nói với nhau vài lời, để dặn dò, để hứa hẹn, để giã từ. Nếu anh có thể biết Thủy nhiều hơn chút nữa, nghĩa là nếu hai người cho nhau thêm một bước nữa, ân ái mặn nồng hơn chút nữa, thay vì cứ kéo nhau đi lang mang hết nơi này đến nơi khác, thay vì cùng đồng ý với nhau để dành tất cả cho đến ngày cưới, có lẽ nỗi khổ của anh bớt ray rức.
Hay ngược lại? Anh không biết rõ lòng anh. Cuối cùng anh định cư trên đất Mỹ.
Hơn 25 năm sau, trở về quê hương, anh đã trở thành một người đứng tuổi, với một chút mệt mỏi và rất nhiều buồn nản.
(Còn tiếp)