Trang chính » Sáng Tác, Tiểu thuyết Email bài này

lưu đày và quê nhà (kỳ 8)

Grand Canyon 2

Ngược lại, ở một đoạn khác, ngôi mộ của Đạm Tiên “Dàu dàu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” lại được dựng lên làm án ngữ một quang cảnh đầy tình tứ, thơ mộng, và đẹp như cảnh thần tiên trong cuộc hạnh ngộ lần đầu giữa Kiều và Kim sau đó không lâu. Đấy là một điềm xấu, một linh cảm, một báo trước cho mối tình tan vỡ. Toàn cả chuyện tan vỡ, ông lẩm bẩm.

Không, Thi không thay lời ai cả, Thi sẽ được mình xây dựng cho thành con người xứng đáng, một di vật vô cùng quý giá của mẹ nó. Thủy, Thủy, ông gọi thầm. Ông đứng dậy đến bên kệ sách lấy cuốn Truyện Kiều giở ra đọc lại đoạn Kiều cậy Vân thay Kiều nối duyên với người tình của mình:

Việc nhà đã tạm thong dong

Tinh kỳ giục giã, đã mong độ về.

Một mình nàng, ngọn đèn khuya

Áo đầm giọt lệ, tóc se mái sầu.

“Chú làm gì đó? Bói Kiều hả?”

Thi đã trở lại với khay trà bưng trên hai tay sắp sửa đặt xuống bàn. Hai cánh tay trần với những sợi lông măng tơ phơi phới, dưới sức nặng của khay trà, bắp thịt ở hai cánh tay lay động mơ hồ, và cặp mắt hơi xếch chăm chú nhìn xuống khay trà làm nổi rõ hai hàng lông mi dài và cong. Buổi tối nhưng trời mùa hè còn nóng, máy lạnh chưa mở, có lẽ Thi đứng bên lò ga khá lâu, vài giọt mồ hôi rất nhỏ đọng trên vừng trán, vài sợi tóc dính trên má.

Ông ngừng đọc, thảng thốt nhìn. Ông nghĩ bụng, như nhiều lần ông đã nghĩ như thế. Quái lạ, Thi giống mẹ quá! Hình ảnh của Thủy lại hiện lên thật rõ, thật êm ái, kiều diễm. Lời ăn, tiếng nói của Thủy nghe như đang dịu dàng thủ thỉ bên tai, văng vẳng đến từ một thế giới nào. Ông thấy lòng se thắt lại. Cô gái đặt khay trà lên chiếc bàn trước mặt hai người, nhanh nhẩu tiếp:

“Chú tập cho cháu toàn những chuyện hư hỏng không à. Trước kia cháu chỉ cần uống một hớp trà sau bữa ăn tối là y như rằng cháu thức trắng đêm, tim đập loạn lên. Bây giờ hết tách thứ nhất qua tách thứ nhì cho kịp chú, vẫn không sao cả.”

“Vẫn không sao cả nghĩa là cái gì?”

“Nghĩa là đêm nay cháu cũng sẽ ngủ say như chết cho đến sáng. Mấy ly trà cũng chẳng ăn thua gì. Cháu ghiền những thứ chú ghiền rồi.”

“Thế Thi có dám ghiền xì ke không?”

“Dám chứ sao không dám. Chú cứ, cứ gì đó, cứ phi xè ke là cháu phi theo ngay. Nhưng này, chú bói chuyện gì mà bói hoài vậy? Bộ hồi chiều gặp cô nào làm chú tơ tưởng, bói một phát xem có dính không hả?”

Ông ngạc nhiên:

“Chú có bói gì đâu?”

Thi nhí nhảnh:

“Thế chú cầm cuốn Truyện Kiều trên tay làm gì?”

“Chú vẫn chưa hiểu.”

Thi giảng giải:

“Cầm cuốn Truyện Kiều trên tay mà cứ ngập ngừng như chú là chỉ để bói mà thôi. Hồi ở đảo bọn cháu ăn cắp được một cuốn Truyện Kiều. Bậy quá, hồi đó làm nhiều chuyện thất đức, kể cả ăn cắp…”

Ông ngạc nhiên ngắt lời:

“Trên đảo mà cũng có nhà bán sách hay thư viện hả Thi?”

“Không, không. Ăn cắp của thầy dạy tiếng Việt. Là thế này. Ông thầy đó có cuốn Truyện Kiều thỉnh thoảng ông lấy ra dạy. Coi bộ ông cưng cuốn sách đó lắm, thấy muốn ghét. Ông bảo khi vượt biển, ông bỏ lại tất cả, kể cả giấy tờ hộ tịch của ông và của vợ con, thế mà cũng lận mang theo người cuốn Truyện Kiều. Đã vậy, bọn cháu phải tìm cách ăn cắp, không phải để đọc, mà để cho bỏ ghét. Nhân tiện khi nào rảnh đem ra họp nhau bói. Một con trong bọn có tài bói Kiều thần tình lắm. Cả bọn bắt chước bói theo.”

Nói xong, Thi cầm lấy cuốn Truyện Kiều từ trong tay của ông, rồi vừa lim dim đôi mắt vừa giở cuốn Kiều ra nói:

“Bói Kiều là như thế này đây, chú cứ xem cháu làm nhe. Lẽ ra phải có lư trầm, có bát nhang, và bình hoa. Mình ôm cuốn Truyện Kiều áp sát vào tim, rồi đặt lên đầu, khấn vái ba hồn chín vía cô Thúy Kiều linh thiêng về chứng giám lòng thành. Xong chọn trước mấy câu tùy mình, nghĩa là từ hàng thứ mấy đến hàng thứ mấy, chẳng hạn hàng 12 đến hàng 15, tức là bốn câu. Rồi lật đại một trang ra đọc bốn câu đó. Con nhỏ trước khi giở cuốn Truyện Kiều ra còn phải tụng lên mấy câu thần chú, nhưng cháu quên mất. Rất hiệu nghiệm! Cái khó là phải biết giải đoán, biết bớt đi câu nào, chữ nào thấy không phù hợp.”

“Nghĩa là thế nào, chú vẫn chưa hiểu?”

Thi làm bộ nũng nịu:

“Thế nào là thế nào? Là thế ấy ấy. Thôi, để cháu lấy mấy câu sau đây làm ví dụ cho dễ hiểu. Chú có thuộc mấy câu Buồn trông, buồn trông không? Hồi ở đảo bọn cháu ai ai cũng thuộc lòng mấy câu đó.”

“Chú không biết, không thuộc.”

“Không sao, cháu thuộc. Cháu đọc cho nghe. Chẳng hạn đối với người vượt biên thì nếu lật cuốn Kiều ra gặp hai câu:

Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

có nghĩa rằng mình sẽ gặp ghe tắc xi đưa ra tàu lớn.

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

tức là la bàn bị rớt xuống biển, ghe mất phương hướng.

Buồn trông nội cỏ dàu dàu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

thì may quá rồi, mình thấy được đất liền, thấy được đảo.

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

là tốt nhất. Mình đến được đảo tỵ nạn, sắp hàng ngồi quanh chờ phát nước uống, đồ ăn, thuốc men. Chú thấy đúng không, vừa ăn, vừa mừng rỡ hỏi thăm nhau ai còn ai mất, chuyện trò ỏm tỏi, la lối om sòm, trong khi đó vẫn chưa được chở sâu vào trong đảo, vẫn còn nghe ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”

Ông phì cười. Cô gái sẵn đà nói tiếp:

“Còn chú thì khác. Không phải là thuyền nhân nhưng bói Kiều cũng đúng. Nhà cao cửa rộng của chú như thế này mà cứ mồ côi vợ hoài thì chán quá. Cháu đoán biết chú đang tơ tưởng một cô nào đó chú gặp hồi chiều. Chú lấy Kiều ra bói coi xem thử hên hay xui. Chúc chú giở ra câu: “Nay hoàng hôn đã lại mai hôn hoàng.”

Ông vui vẻ cười đáp:

“Cô gái tên Hoàng nào đó để hôn và được hôn thì chưa gặp, nhưng sắp sửa gặp một chàng đàn ông bảnh bao. Chú Hoạt, người bạn thân của chú từ Bay Area sắp về đây chơi. Cuối tuần này sẽ đến đây ở lại với chú một tuần lễ.”

“Bay Area là vùng nào?”

“Vùng vịnh.”

“A, dùng dịnh, chiến tranh dùng dịnh một răng, một rắc.”

“Thi nói cái gì vậy?”

“Cháu lặp lại lời chú nói đó mà. Vùng vịnh, Sài Gòn gọi là dùng dịnh. Hồi đó có hai nước đánh nhau nhiều năm, gọi là chiến tranh dùng dịnh. Rồi sau đó Mỹ đem quân qua đánh Một Rắc, cũng gọi là chiến tranh dùng dịnh.”

“Cái gì mà Một Rắc?”

Thi cười:

“Tụi con gái bọn cháu ưa nhại cán bộ lắm. I Răng họ gọi là Một Răng, I Rắc là Một Rắc. Nhưng cũng còn đỡ. Hồi 75 mới vô, họ cương tầm bậy tầm bạ lắm.”

“Thi nói lạ quá. Hồi đó cháu chưa ra đời mà.”

“Thì bà chủ nhà kể cho bọn cháu nghe, nhiều chuyện lắm, nay cháu kể lại cho chú nghe không được sao. Mà chú có thích nghe không?”

“Thích chứ.”

“Vậy cháu kể thêm một chuyện cái đã. Để dành hôm khác kể chuyện khác. Thế này chú nhé, anh công an Phường của bà chủ nhà khoe đã hoạt động bí mật tại rất nhiều thành phố miền Nam trước giải phóng, chứ không phải là người ngoài Bắc mới được điều vào đâu. Đặc biệt là Đà Lạt, anh biết rành rẽ từng góc phố, từng con đường, thậm chí từng ngôi nhà của nhân dân. Bà chủ nhà vui miệng nói tôi cũng có đi Đà Lạt nghỉ mát, thành phố đẹp lắm. Thế anh có thích Đà Lạt không? Anh ta “hồ hởi” đáp thích lắm, là vì hồi ở Đà Lạt, ngoài cảnh đẹp, ngoài chuyện được nhân dân giúp đỡ, che chở thoát khỏi mọi cuộc bố ráp của Mỹ Ngụy, chiều nào anh cũng tranh thủ đạp xe đạp ra bãi biển tắm mát.”

“Thi hôm nay nói chuyện nghe vui quá.”

“Nhưng lúc nào ông bạn của chú đến từ I Răng? Hay I Rắc?”

“Xin lỗi, chú chưa nói rõ. Không phải vùng vịnh như cháu nghĩ đâu. Bay Area tức là vùng bao quanh cái vịnh nổi tiếng ở miền bắc California, gồm có các thành phố như San Jose, Fremont, Hayward, Oakland, Berkeley, San Francisco, San Mateo v.v… chứ không phải vùng vịnh Ba Tư. Cháu thấy nên để ổng ngủ phòng nào?”

“Cứ cho ổng ngủ trên ghế xa lông ở phòng khách đi chú. Có muỗi mòng gì đâu mà sợ. Hai chú cháu mình ở trên lầu. Khỏi phải thay đổi gì cả.”

“Cũng được. Trước kia khi chưa có cháu, Hoạt có khi ngủ chung với chú, có khi ngủ tại phòng của chú bây giờ. Còn chú thì ngủ tại phòng cháu…”

Thi cười ròn, láu lỉnh tiếp:

“Không sao, không sao. Nếu chú muốn ổng ngủ phòng của chú, chú cứ qua phòng cháu mà ngủ. Chú ngủ trên giường, cháu ngủ dưới sàn.”

Thi ngừng lại ngẫm nghĩ một chốc, rồi tiếp:

“Cháu sực nhớ mấy câu thơ, không phải, mấy câu ‘nói luôn vần’, hay mấy câu hò ru em, mà chị giữ em thường hò ru cho em ngủ. Nay cháu đóng vai em, chú thì vai chị nhé:

Tập vồng vông

Chị lấy chồng

Em ở goá

Chị ăn cá

Em mút xương

Chị nằm gường

Em nằm đất

Chị ăn mật

Em liếm ve

Chị ăn chè

Em liếm bát

Chị coi hát

Em vỗ tay…

OK, chú cứ qua phòng cháu mà ngủ. Chú nằm giường, cháu nằm đất vậy.”

Ông cười khúc khích:

“Bài hò ru em nghe ngộ quá. Đọc tiếp cho hết đi Thi.”

“Không, phải để dành cho lần khác nữa chứ.”

“Thi lại làm khó? Nhưng ai lại thế, chị nằm giường, em nằm đất! Để chú nói cho rõ. Trước kia khi chưa có cháu thì đại khái là… Bây giờ thì… à được rồi, chú xuống ga-ra lấy cái nệm đem lên trải trên cái den làm chỗ ngủ cho Hoạt. Mền gối thì có thừa rồi. Nhưng chỗ ngủ ở đây không cần thiết cho lắm, ngủ vài hôm thôi, vì chú định đưa chú Hoạt và cháu đi du lịch xa.”

Thi reo lên:

“Thế thì tuyệt quá. Đi Las Vegas lại đi chú. Cháu mê Las Vegas lắm. Mà chú đã xin nghỉ phép chưa?”

“Được thư chú Hoạt, chú đã xin nghỉ phép một tuần. Phần cháu cũng nghỉ học một tuần lễ nhé. Đồng ý, lần này cũng tới Las Vegas, rồi mình đi thăm đập Hoover, rồi thăm Lake Mead gần đó. Cuối cùng chạy qua Grand Canyon ở lại độ vài ba ngày, thế là trọn một tuần.”

Ông gặp và thân ngay với ông Hoạt khi hai người cùng theo học tại trường Kỹ Thuật ở Madison, một thành phố nhỏ có độ vài ba trăm ngàn cư dân, thủ phủ của tiểu bang Wisconsin, thuộc miền Trung Tây Hoa Kỳ. Hai người ra trường cùng một lúc, có việc làm ngay.

Ông Hoạt làm việc tại Milwaukee, cũng thuộc tiểu bang Wisconsin, ông thì chuyển tới Salmon, tiểu bang Idaho, thuộc miền Tây Bắc nước Mỹ. Đó là hai thành phố rất ít người Việt Nam, cách nhau khá xa.

Sống xa nhau, họ vẫn có tin tức của nhau đầy đủ. Họ thường xuyên liên lạc nhau bằng điện thoại, e-mail, hoặc thăm viếng nhau vào những dịp nghỉ phép. Hoạt thay đổi việc làm liên miên, cuối cùng dời về thành phố Piedmont gần Oakland, miền bắc California.

Hai năm sau khi ra trường, ông Hoạt lấy một người Mỹ thuộc gia đình khá giả. Chung sống với nhau được sáu năm, có với nhau một đứa con trai nay sắp gia nhập Hải Quân Hoa Kỳ, thì họ ly dị.

Đứa con theo mẹ. Mỗi cuối tuần ông đều ghé thăm con một lần khi ông còn cư ngụ tại tiểu bang Wisconsin. Lý do ly dị thật buồn cười: Chồng muốn mượn tiền ngân hàng mua nhà để ở thay vì hàng tháng phải trả tiền nhà tốn kém, vợ thì thích mua ngay chiếc xe Lincoln đời mới nhất. Không ai chịu nhượng bộ ai. Thế là kéo nhau ra tòa xin ly dị.

Chỉ có thế thôi sao? Hay lý do ấy chỉ là một giọt nước làm tràn ly nước đã đầy? Cho nên có lần ông tò mò hỏi ông Hoạt:

“Không lẽ chỉ vì chuyện cái xe, cái nhà vớ vẩn như vậy mà bỏ nhau?”

“Không biết có phải vì cái chuyện vớ vẩn đó hay không,” Hoạt đáp. “Cũng có thể ở với nhau lâu ngày đâm ra chán nhau, thì cũng phải tìm một cái cớ để bỏ nhau chứ.”

Ông Khê nhận thấy ông Hoạt nói cứng như thế nhưng sau biến cố đó ông Hoạt đổi tính ít nhiều và dè dặt với phái nữ hơn. Ông Hoạt lại còn tuyên bố rằng sẽ ông không bao giờ tính việc lập gia đình lần thứ hai nữa, sống độc thân để khỏi bị ai quấy rầy, so sánh hơn thua, đua đòi.

Ông và bạn ông tính tình hoàn toàn khác nhau. Ông Hoạt yêu đời, bộc trực, nóng nảy, và tràn đầy sức sống. Ông Khê ít nói, bi quan và mệt mỏi. Thế nhưng họ thân thiết với nhau vô cùng, chuyện gì cũng kể cho nhau nghe.

Nhân dịp nghỉ lễ, ông Khê lấy thêm mấy ngày phép, viết thư báo cho ông Hoạt biết mình có đứa cháu từ Việt Nam qua, mời ông Hoạt xuống chơi rồi cùng nhau đi Las Vegas và vài nơi khác. Ông Hoạt đồng ý ngay. Ông từ Piedmont xuống, ở lại nhà ông Khê một ngày. Hôm sau cả ba người, ông Khê, ông Hoạt và cô gái lên đường.

“Nóng hơn cả Sài Gòn hả chú,” Thi vui vẻ nói. “Được cái là vô sòng bạc thì mát rượi.”

“Mùa hè ở sa mạc mà lại,” ông Hoạt tiếp lời. “Nhưng đến mùa đông thì lại lạnh chết người đi được nhe cô Thi.”

Thi bắt bẻ:

“Chú từng ở tiểu bang lạnh mà chịu lạnh dở thế sao. Lạnh gì mà đến chết người? Thế ai còn dám đến đây chơi nữa!”

“Đó là tôi cho luôn miệng. Tôi nói thay cho cho cô, chứ đối với tôi thì nhằm nhò gì. Tôi ở suốt ngày trong tủ lạnh cũng được.”

Ông Hoạt và cô gái mới gặp nhau mà đã có vẻ hợp tính nhau, nói chuyện với nhau vui vẻ, dễ dàng, thoải mái. Ông Khê pha trò:

“Với điều kiện thứ nhất phải có lỗ thông hơi để thở, thứ nhì mặc áo quần thật nhiều, thứ ba uống thuốc ngủ gấp đôi, đánh một giấc từ sáng đến tối.”

“Đúng, đúng,” ông Hoạt đáp ngay. “Nhưng cô biết tại sao người ta chọn nơi này làm thủ đô đánh bạc hay không? Với cái thời tiết như thế này thì vào mùa nào mình ở ngoài trời cũng khổ. Tốt hơn hết là chui nhanh vào sòng bài cho sướng thân, trong đó máy điều hòa không khí chạy 24 tiếng trên 24. Mùa nóng thì mát mẻ, muà lạnh thì ấm áp, tha hồ “tự giác tự nguyện” đóng góp tiền điện. Cô để ý thấy đó chớ, ra khỏi casino, ai nấy đều bước vội như bị chủ nợ rượt! Rồi lại chui vào casino khác ngay. Giống như bầy chuột chạy lẹ từ hang này qua hang khác, sợ những cặp mắt dòm ngó của người ta.”

Thi cười to, không thèm quan tâm đến những đám người đi lũ lượt bên cạnh. Ở đây chẳng ai để ý ai, có lẽ cô nghĩ thế, nên cô nói đùa một cách buông thả. Ông Khê có vẻ hơi khó chịu, chút xíu thôi, vì cử chỉ của cô gái, nhưng ông Hoạt luôn luôn nhìn Thi và cười đáp lại một cách khoái trá.

“Chú nói trật bét. Cháu cũng thấy người ta đi đầy đường kia kìa.”

“Trật thì trật chứ sao lại bét,” ông Hoạt ỡm ờ. “Nhưng thật ra không trật lắm đâu. Đám người đó đúng là mới đi Las Vegas lần đầu tiên trong đời, gặp cái gì cũng mở tròn mắt ra mà ngó, mà chụp hình, mà quay video. Cái đầu lúc nào cũng ngớp ngớp ngó dọc, ngó ngang, rồi ngửa mặt lên ngó những tòa nhà cao đèn điện đủ màu. Xong xuôi mới chịu chui vào sòng bạc chớ. A, tôi nhớ cái chuyện này hay lắm, muốn nghe không cô Thi? Khê thì đã biết chuyện này rồi.”

“Nghe thì nghe chứ sao lại không nghe,” Thi cười ròn rã. “Dù chú nói chuyện vớ vẩn không hấp dẫn chút nào cả.”

“Không vớ vẩn đâu. Thì là dù khách mới tới đây lần đầu cũng giống như mấy chàng bộ đội hồi 75 mới vô Sài Gòn đó mà,” ông Hoạt bô bô. “Nón cối cứ rớt xuống đường bịch bịch vì ngửa mặt nhìn lầu cao!”

Thi chưa chịu:

“Cũng cứ vớ vẩn như thường. Chú không thấy sao, người ta đi đầy đường thế kia không lẽ toàn là người mới đến đây lần đầu? Hơn nữa ở xứ này, nhà cao, nhà chọc trời nơi nào cũng có. Khùng hay sao mà phải ngửa đầu nhìn lên trời.”

Ông Hoạt chống chế:

“Đầy thì đầy nhưng cũng không đông bằng người ở trong sòng bạc. Trong đó người đông hơn kiến cỏ, đi đâu cũng lấn nhau, đụng nhau đến tóe lửa. Ê Khê, tao nói đúng không?”

“Cả hai người đều sai,” ông Khê cười.

Đi đâu ba người cũng đi cạnh nhau, thường Thi đi giữa, hai người đàn ông đi hai bên. Môi trường ở nơi ăn chơi khiến cho người ta bớt dè đặt. Cô gái nắm tay ông Khê một cách tự nhiên, thỉnh thoảng níu vai ông Hoạt. Và nói đùa càng lúc càng bạo dạn.

“Chú ơi, chú Hoạt ơi. Mình đi dung dăng dung giẻ với nhau trông giống gia đình ông Táo quá!”

“Cô nói cái gì kỳ cục vậy?” Hoạt trợn mắt nhìn Thi. “Này Khê, mày có hiểu người đẹp định nói cái gì đó?”

“Hai ông đi kèm một bà tức là gia đình ông Táo,” ông Khê vui vẻ đáp.

“Nếu vậy,” ông Hoạt tía lia, “tôi sẽ làm đám cưới với cô nhé, đám cưới giả thôi, như cô với chú Khê. Như thế mới công bằng. Ở đây làm đám cưới dễ ợt và lẹ lắm. Cô thấy không, cứ đi một khúc đường là thấy cái Wedding Chapel. Cứ vô đó tốn mấy chục đô-la, mấy trăm đô-la tùy mình, là…”

“Dạ, dạ, cháu biết rồi. Nghe rồi, khổ lắm… Tốn vài ba chục đô cũng được, thì chỉ có giấy hôn thú mà thôi. Vài ba trăm hay cả ngàn đô thì có cả mục sư chủ lễ, có xe hoa, có hàng chục phù dâu, phù rể mặc đồng phục đi kèm. Muốn gì cũng có.”

“Ủa, sao cái gì cô cũng biết?” ông Hoạt tỏ vẻ ngạc nhiên thật sự.

“Biết chứ sao không biết!”

“Mà tại sao biết?” Ông Hoạt làm bộ khẩn khoản.

Thi lại thích chí cười:

“Cháu bói một quẻ là biết ngay. Chú cứ hỏi chú Khê đi!”

Ông Hoạt năn nỉ:

“Thôi mà! Cô Thi tiết lộ bí mật một chú đi! Tại sao cô biết?”

“Chẳng qua là lần trước đi Las Vegas, gặp cái gì cháu cũng hỏi chú Khê. Nhưng cũng còn nhiều thứ cháu không biết lắm. Phải đi Las Vegas nhiều nhiều thêm nữa nhé, chú Khê đồng ý nhé.”

“Đương nhiên Khê nó đồng ý rồi, cô hỏi làm gì cho mất công. À này, để tôi kể chuyện cái đám cưới này cho mà nghe. Mà phải vào cái Starbucks Coffee kêu cà phê uống cho tỉnh người cái đã. Cuốc bộ nãy giờ ê cả cặp giò.”

Thi đáp ngay:

“Sao chú lại tính dở vậy? Hay chú Hoạt không biết vào ngồi vào bàn đánh bạc? Cứ ngồi vào bàn một chốc là có người mang bia, mang cà phê tới, free. Như cháu đây cháu chỉ biết bấm máy, chứ không biết ngồi bàn. Mới phải đến tiệm cà phê Starbucks.”

“Cô Thi nói rất đúng, tuyệt đối đúng, nhưng không đúng lắm. Là vì cà phê Starbucks ngon hơn cà phê trong casino. A-lê, tới Starbucks!”

Trong khi nhấm nháp cà phê, Hoạt bắt đầu câu chuyện:

“Cô Thi biết không, lần trước đến Las Vegas, tôi sa vào bàn Black Jack ngay. Định đánh nhỏ thôi, cho nên tôi tới cái bàn loại đặt tiền từ 15 đến 3000 đô. Mới đầu chỉ có tôi với người chia bài, một cái một con. Ngồi chưa nóng máy ba tên khác tới, và cuối cùng là một thằng Mỹ, thế là sòng tôi có một cái năm con. Thằng cuối cùng đó cỡ 30 tuổi, ngồi kế tôi, mặt mày rầu rĩ. Tôi bảo ê bồ, vui lên đi chứ, thì đánh mới ăn.” Hắn nhe răng cười và nói:

“Vui sao nổi.”

Tôi hỏi:

“Tại sao?”

“Hai giờ nữa tôi lấy vợ.”

Cả bàn nhao nhao:

“Lấy vợ thì vui, chứ sao lại buồn. Chúc mừng, chúc mừng”.

Thi chăm chú nghe đến đây liền có ý kiến:

“Đánh bạc cái kiểu gì mà có vẻ cà rỡn như vậy. Không tập trung tinh thần sao? Chắc mọi người đều thua.”

“Thật ra nhiều người đến đây để đổi không khí, để mua cảm giác, để giết thì giờ, và để góp tiền điện, chứ không cốt ăn thua,” Hoạt đáp. “Tha hồ nói đùa với nhau. Tôi bảo nó chắc là anh hồi hộp lắm cho nên trong khi chờ đợi làm lễ cưới anh đánh bài để lấy lại bình tĩnh chứ gì. Nó nói không phải. Tụi nó đã sống với nhau gần bốn năm rồi, có gì đâu mà hồi hộp. Bây giờ con nhỏ bắt nó phải cưới. Thì nó cưới, vì nó thương đứa con mới ba tuổi của chúng nó. Làm đám cưới là cốt cho đứa bé có họ của cha, rồi sẽ ly dị ngay, vì hai đứa không hợp tính nhau. Nó lại hỏi tôi đã ly dị mấy lần rồi, tôi bảo một lần. Nó bảo khi nào tôi lấy vợ lại thì qua Las Vegas làm đám cưới cho khỏe. Tôi nói tôi không lấy vợ nữa, nhưng nếu tôi lấy vợ, tôi sẽ làm đám cưới thật rùm beng, cưới lần chót, và sẽ không bao giờ ly dị nữa. Nó lắc đầu, nói đừng dại như thế. Trông anh còn trẻ. Cứ việc cưới vợ lại, và lại ly dị. Để nhanh chóng và đỡ tốn kém, lại đi Las Vegas làm đám cưới như tôi đây. Cũng chả có gì vui, thì đánh bài vài tiếng trong khi chờ đợi.”

Thi cười ròn:

“Thằng ấy nói đùa hay quá.”

Ông Khê góp ý:

“Không, nó nói thật đấy.”

Thi liếc mắt nhìn ông Hoạt và nói:

“Riêng cháu thì rất tin chú Hoạt sẽ chỉ cưới vợ một lần nữa mà thôi, rồi ở với nhau cho đến khi tóc bạc răng long. Lúc đó ly dị nhau là vừa. Mà giở chứng không chịu ly dị đi nữa, thì một trong hai người cũng sẽ vĩnh viễn ra đi trước người kia.”

Ông Hoạt nhún vai:

“Cô Thi cũng biết nói đùa đấy. Đùa nhảm. Nhưng thôi, tôi xin trở lại chuyện bây giờ của tụi mình. Coi bộ cô khoái Las Vegas lắm, nhưng có dám sa vào sòng bạc không?”

“Có chứ. Đến Las Vegas mà không đánh bạc sẽ bị người ta biểu tình phản đối. Nhưng nói là nói thế, chứ cháu chỉ biết kéo cần, nghĩa là bấm máy, một lần mấy cents thôi. Khi nào chán thì đến xem chú Khê đánh black jack, poker, và gì gì đó cháu không biết tên. Đến giờ thì đi coi show, Jubilee Show, hay lắm.”

“Kéo cần đâu phải là đánh bạc! Để tôi chỉ cô mấy ngón cờ bạc thứ thiệt nhé!”

“Thôi chú ơi, đánh bạc cháu sợ thua tiền lắm. Khi không đi nộp tiền cho người ta. Chú Khê chẳng hạn, lần nào đánh cũng thua, càng đánh càng thua.”

Ông Khê chen vào:

“Đâu phải chỉ một mình chú mà thôi. Las Vegas không hề kỳ thị ai cả. Ai cũng như nhau, rất hớn hở khi mới tới, khi ra về mặt dài như cái bị.”

“Đồng ý,” ông Hoạt tiếp. “Vấn đề là mình phải biết… thua đến mức nào thì tốp lại.”

“Dĩ nhiên,” ông Khê đáp. “Ai mà không biết điều đó. Phải luôn luôn đề cao cảnh giác và biết tự chế chứ.”

Thi tươi cười, nói:

“Chú Hoạt ơi, chú Khê tự chế như thế này: Khi nào thua hết tiền mang theo là không đánh nữa.”

“Moa không ngờ độ này toa chơi xả láng như vậy.”

“Đâu có,” ông Khê vui vẻ giải thích, “moa cũng biết tự chế như cháu Thi vừa nói đấy. Trước hết, khi thấy không còn phải dùng tiền để xài vào việc gì khác thì mới ngồi vào sòng bạc. Thứ nhì, chỉ cho phép thua hết tiền mặt mang theo mà thôi. Hiếm khi đem credit cards hay ATM ra cà.”

Cả ba người cùng cười.

Thì giờ ở Las Vegas đi quá nhanh, ngày cũng như đêm. Ban đêm họ có ngủ bao nhiêu đâu. Ba bốn giờ sáng mới trở về phòng ngủ, sáu bảy giờ sáng đã gọi điện thoại réo nhau dậy. Họ tranh thủ thời gian, sửa soạn nhanh nhẹn, đứng chờ trước những thang máy đầy nghẹt người, đi đến chỗ xe đậu ở lầu thứ 5, rồi theo yêu cầu của Thi, lái xe đi chầm chậm nhiều nơi để nhìn thành phố, chụp hình, quay video, rồi đi ăn uống, xong lại đi hết casino này đến casino khác.

Ông Khê hỏi tối có đi coi show hay không. Nếu muốn đi, bây giờ phải mua vé trước cho có chỗ tốt. Ông Hoạt nhìn Thi. Thi bảo tùy hai chú, ai sao cháu vậy. Ông Khê nói thì phải đi lấy vé ngay.

Hai người đàn ông, người nào mắt cũng ngái ngủ, mặt mày cũng hốc hác, áo quần cũng luộm thuộm, nhăn nheo, tóc tai cũng thoang thoảng mùi thuốc lá dù họ không hút nhiều, dù đêm nào trước khi đi ngủ họ đều có đi tắm. Thật ra họ đã bỏ thuốc lá từ lâu, thỉnh thoảng hít vài hơi, socially, nhưng mỗi lần đến Las Vegas ngồi tại sòng bạc bên cạnh những tay hút thuốc liên miên, uống rượu như hũ chìm do những cô phục dịch xếch xy mang lại tận bàn, họ lại bị “lây”, lại hút lai rai lấy hứng, uống vài ba ly rượu lấy khí thế. Trong người ngà ngà, lâng lâng, gân trán nổi lên, cái mặt đỏ đỏ, bàn tay ấm ấm, mới rút được bài bài tốt — đó là kinh nghiệm đánh phé của mỏa từ hồi còn ở Việt Nam, Hoạt nói.

Nhưng ở đây có người lo việc chia bài mà, mình đâu được phép rút bài mà bảo sẽ có thể rút được bài tốt hay bài xấu, ông Khê bẻ. Thì nói vậy thôi, mình rút bài hay nó chia cho mình thì cũng xêm xêm, Hoạt cãi. Thi nhìn hai người đàn ông đối đáp nhau, chẳng hiểu gì mấy, chỉ cảm thấy trong lòng dâng lên một niềm vui khó tả.

Không luộm thuộm như hai người đàn ông, Thi luôn luôn giữ ý, tươm tất, trang điểm kỹ, trông mát mắt. Gặp những sòng bạc nghi ngút khói thuốc lá, cô tránh xa, đến ngồi trước slot machine tại phòng dành cho người “không hút thuốc lá”, kéo cần hoặc bấm nút trong khi chờ chú Khê, chú Hoạt gọi đi những nơi khác.

Đêm thứ hai tại Las Vegas, họ không dám ngồi đánh bạc quá khuya, trở về phòng khoảng một giờ sáng cố gắng ngủ đôi chút để có thể lấy lại sức cho sáng hôm sau.

Thế là sau hai ngày đêm, họ rời Las Vegas để đi đến những nơi đã dự định trong chương trình. Họ đi thăm Grand Canyon trước rồi trên đường về sẽ ghé Hoover DamLake Mead.

Ông Khê cầm tay lái, ông Hoạt ngồi cạnh, Thi ngồi ghế sau. Ông Khê và ông Hoạt cả hai đều mặc quần cụt dài đến đầu gối, áo sơ mi ngắn tay rộng thùng thình, đầu đội nón rộng vành, chân mang giày sandal. Thi mặc bộ đồ vải mỏng màu vàng nhạt bó sát vào thân hình mềm mại, thon thả, cân đối, và cũng nón rộng vành, giày nhẹ.

Ông Hoạt kiếm đâu ra một khúc cây thẳng thớm dài hơn một thước, bảo sẽ dùng làm gậy chống khỏi sợ tuột dốc nhào xuống vực của Grand Canyon. Thi hỏi ở đó nguy hiểm lắm sao? Ông Hoạt đáp vô cùng nguy hiểm. Chú Khê ơi, chú Hoạt nói đùa hả. Ông Khê làm bộ thun vai, thè lưỡi. Ông Hoạt nói tiếp, ngoài ra cây gậy còn dùng để đánh nhau với sư tử núi. Thi nói sư tử là sư tử, chứ ai lại nói sư tử núi, sư tử biển, sư tử sông, sư tử đồng bằng. Ông Hoạt nói đây là một loại sư tử đặc biệt khác hẳn sư tử Phi Châu hoặc Á Châu. Thi lại hỏi chú dám đánh nhau với sư tử, thật không? Ông đáp, thật một trăm phần trăm, tôi từng dùng gậy đánh một con sư tử núi dữ tợn. Chú Khê ơi, chú Hoạt nói thiệt hả chú? Ông Khê vừa cười vừa đáp đúng thế, chú Hoạt cầm gậy đuổi một con mountain lion chạy re. Ông Hoạt tiếp, thấy chưa, tôi có nói sai đâu. Thi trả lời khó tin quá.

Câu chuyện trên xe giữa ba người đại loại như thế.

Họ khởi hành sớm. Gần 3 giờ chiều họ đến Grand Canyon. Sau khi cho xe vào bãi đậu, ông Hoạt đưa ý kiến:

“Phải cho cô Thi đi xem phong cảnh trước rồi đi đặt phòng sau, như thế mới có thì giờ thưởng thức Grand Canyon đổi màu từng giây, từng phút một. Sáng khác, trưa khác, chiều khác, tối khác. Bây giờ mấy giờ rồi, hơn 3 giờ rồi hả? Cô Thi để ý nhé, bây giờ là Grand Canyon buổi xế trưa, sáng chói, rực rỡ, chỉ một chút nữa thôi, những vách đá lại có màu sắc mới, hình dáng mới.”

Ba người đi dài dài ven bờ vực. Trời quá nóng. Sau hơn nửa tiếng, họ đến một địa điểm từ đó họ có thể nhìn được nhiều nơi. Ai nấy mệt đừ, mặt mày đỏ gay. Riêng Thi, mồ hôi ướt rịn ra ngoài áo làm thành những lớp loang lổ trong suốt. Chiếc nút áo trên cùng của Thi không cài để lộ một phần ngực trắng như hoa nhài. Cô đội chiếc nón rơm rộng vành có cái băng màu tím nhạt. Ông Khê lấy từ trong túi vải mang ở lưng ba chai nước lọc, chia cho mỗi người một chai. Họ vừa uống nước vừa ngắm cảnh.

Bỗng ông Hoạt chỉ xuống một vách đá thật to, thật phẳng, dưới vực xa phản chiếu ánh nắng rực rỡ và reo to:

“Các người thấy chưa, nắng chiếu vào vách đá hồng lên như ngọn lửa. Vậy nắng hồng hay đá hồng?”

Ông Khê đáp:

“Đá hồng lên nhờ có nắng. Mà nắng hồng lên nhờ có đá. Phải không Thi?”

Thi reo lên:

“Nắng hồng, nắng hồng, chớ không phải đá hồng.” Rồi hát khe khẽ:

Nắng có hồng bằng đôi môi em

Mưa có buồn bằng đôi mắt em

Tóc em từng sợi nhỏ…

Không đợi cho Thi hát hết câu, ông Hoạt la lên rổn rảng:

“Hay quá đi! Hay quá đi!”

Thi đỏng đảnh:

“Hay chứ sao không hay. Nhưng chú Hoạt phải nói như thế này chứ: Thi hát rất hay, tuyệt đối hay, nhưng không hay lắm.”

“Cô này nhớ dai ghê, lại móc họng tôi hả,” ông Hoạt vui vẻ đáp. “Hát nữa đi cô Thi. Nắng muốn điên cái đầu nghe giọng hát của cô Thi thấy mát rượi liền.”

“Cháu không hát nữa đâu. Ai bảo cháu đang hát chú chận lại, bây giờ lại bắt hát. Cụt cả hứng.”

“Hát giùm chút xíu đi nào, làm bộ hoài! Hát như thế mà không đi làm ca sĩ cũng uổng, tôi nói thiệt. Mà cô Thi có giọng tốt lắm đó.”

Thi cũng không chịu hát, nói tiếp:

“Có giọng mà không có ông bầu cũng như không. Hồi ở Việt Nam cháu cũng định làm ca sĩ. Muốn thế, phải đi tìm ông bầu. Cái khó là mình chưa được đi hát ổng đã nói xa nói gần, khều khều, quẹt quẹt, muốn tặng cho mình cái bầu rồi. Mà hễ đã có bầu thì còn hát hỏng gì nữa. Cái vòng luẩn quẩn!”

“Ghê thế à?” Ông Hoạt tỏ vẻ ngạc nhiên. “Tôi đâu có ngờ. Bộ ai cũng phải qua cửa ải ông bầu hay sao?”

“Người khác thì cháu không biết. Riêng cháu, mấy ông già dịch mà cháu gặp đều như vậy cả. Cũng giống như cái thủ tục đầu tiên đó mà! Cho nên cháu chưa làm ca sĩ là vì thế.”

“Thủ tục đầu tiên,” ông Hoạt hỏi, “là cái gì?”

“Chú đi lâu ngày nên lạc hậu lắm. Hối lộ cháu đi, thủ tục đầu tiên, rồi cháu giải thích cho mà nghe. Ô, hai chú ơi, xem kia kìa.”

Thăm thẳm dưới xa, những vòm, những hang, những động, cái cao, cái thấp, cái to, cái nhỏ, trùng trùng điệp điệp. Lại có những vách đá, bờ đá, tầng tầng lớp lớp đứng quây quần bên nhau, hoặc song song nhau, hoặc nối tiếp nhau tạo thành những cấu trúc lạ lùng, khi thì quanh co uốn vòng, khi thì gấp khúc đột ngột, khi thì thẳng tắp và sắc cạnh như lưỡi gươm tuốt trần. Đó là những dãy hành lang mênh mông, tĩnh lặng, đứng trơ gan hằng triệu triệu năm thi gan với thời gian. Đó là những thành lũy kiên cố, hiểm trở, dãi dầu trước mọi phong ba bão táp của một nền văn minh trong huyền sử nào còn sót lại. Đó là những kỳ quan của một tinh cầu xa xôi được gởi đến làm tặng phẩm cho loài người. Bên sau những vách đá khổng lồ đó, bên trong những hình dáng kinh dị đó, là những gì? Là những khối đá vô tri, vô cảm, dày đặc, trơ khất? Hình như không phải thế. Hình như có một linh hồn đang luân lưu lẩn khuất đâu đó từ thuở tạo thiên lập địa kéo dài cho đến tận ngày nay, và chứa đầy ăm ắp một sức sống siêu nhiên, dữ dội, khiến con người khi chứng kiến bỗng bàng hoàng thảng thốt nhận ra thân phận nhỏ nhoi, hèn mọn của mình.

Lác đác đây đó là những lùm cây yếu ớt, cằn cỗi. Vài cánh chim nghiêng ngả như bị cuốn hút vào vực sâu dưới xa. Vài bóng người li ti cưỡi trên những con lừa tí hon nhích nhích từng bước nhỏ như bất động. Trên kia, trên cao, trời mênh mông không một gợn mây làm nền cho những đường viền của dáng núi. Con người đứng giữa nơi này có cảm tưởng như được vây quanh bởi vạn lý trường thành được phóng đại lên cả ngàn lần. Nắng đổ ngập lụt xuống như thiêu như đốt, và gió từ đâu lồng lộng thổi về nhiều cơn. Trong tiếng gió gào như có tiếng hú man dại từ ngàn năm vọng lại.

Thi đứng thẩn thờ, đôi mắt như thất thần, trước thiên nhiên bao la, kỳ vĩ. Bỗng dưng một nỗi lo âu vô cớ xâm chiếm cả tâm hồn. Hai tay mân mê vành nón rộng, cô ngoảnh đầu nhìn chú Khê như nhìn một chỗ tựa. Cảm thấy bớt hoang mang đôi chút. Cô nhìn qua ông Hoạt. Cảm thấy thêm chút trấn an.

Một cơn gió mạnh ào tới. Chiếc nón rơm cô đang đội trên đầu bị gió giật tung bay lên trời rồi tiếp tục bay qua khỏi con đường trải nhựa đằng sau lưng xa tít. Ông Hoạt vội vàng gỡ nón mình đang đội đưa ngay cho cô gái đội trong khi ông Khê chạy theo chiếc nón.

Cũng phải mất đến mười mấy phút ông mới mang được chiếc nón trở lại cho Thi. Ông ngạc nhiên thấy Thi mặt mày nhợt nhạt. Vội níu lấy vai ông Khê, cô gái không giấu được nét bối rối, trong khi đó ông Hoạt nhè nhẹ vỗ vào vai của cô gái.

Thi liền đòi về, về ngay, một cách cương quyết. Ông Hoạt đề nghị đến khách sạn nghỉ ngơi vài tiếng cho Thi khỏe hẳn để tối nay đi xem cảnh tượng hùng vĩ của Grand Canyon về đêm. Nhưng Thi nhất định đòi về:

“Xin lỗi hai chú, cháu làm hỏng cuộc vui. Nhưng… nhưng cháu khó nói lắm. Tự nhiên cháu, cháu…”

Thi ngập ngừng, không nói được hết câu. Ông Khê nhìn Thi ái ngại:

“Cháu bị cảm gió? Hay bị say nắng? Chú Hoạt nói phải đó, Thi cần phải nghỉ ngơi trong chốc lát, xong kiếm cái gì ăn cho lại sức. Tội nghiệp mấy hôm nay chỉ ăn toàn là những món Thi không thích. Phải chi có một tô bún bò, một tô phở, hay một tô hủ tíu cho cháu.”

Ông Hoạt nhận xét:

“Cô Thi kén ăn dữ vậy cà!”

Thi vội nói:

“Không, cháu không kén ăn đâu. Chú Khê cưng cháu quá nên nói thế. Nhưng tự nhiên cháu thấy sợ.”

“Có gì đâu mà sợ nào,” ông Hoạt vội đỡ lời.

“Mà cháu cũng cứ sợ như thường, được không?” Thi trả lời gay gắt.

Ông Hoạt nhún vai nói tiếp:

“Sợ té xuống vực? Có lan can bằng sắt chận trước mặt, muốn té cũng không té được. Hoặc là nếu đã vậy mà cũng cứ sợ thì hãy đứng xa bờ một chút cho an toàn. Mà mình cũng đã lùi lại xa lắc rồi, yên chí đi.”

Ông Khê phụ họa:

“Chú Hoạt nói phải đó.”

“Đúng thế,” ông Hoạt cười lớn. “Chẳng qua là cô Thi muốn nhỏng nhẻo một chút thôi mà.”

“Ô hay, cái ông này ăn nói lạ quá! Nhỏng nhẻo là cái gì? Nhưng nhỏng nhẻo với ai mới được chứ? Chú đừng tưởng…” Cô nói ngập ngừng, giọng gay gắt khác thường.

Ông Khê quay nhìn bạn. Ông Hoạt đón cái nhìn đó một cách thản nhiên rồi im lặng quay nhìn xuống dòng nước nhỏ như sợi chỉ chảy uốn khúc dưới đáy Grand Canyon.

Thi nhìn xuống khu vườn dưới cửa sổ qua lớp kính trong vắt. Mấy cây táo tàu trái chi chít đã lớn bằng đốt ngón tay cái đeo trên những nhánh nhỏ oằn xuống cơ hồ muốn gãy. Mình sẽ chỉ cho chú thấy để chú kiếm cây chống nó lên, Thi lẩm bẩm. Cây ổi nặng trĩu trái thì đã gãy một nhánh lớn. Cây hồng giòn cũng có nhiều trái núp dưới những ngọn lá dày và to bản.

Mà cũng lạ, độ này chú không chịu săn sóc khu vườn nhỏ như khi mình mới tới ở, để cỏ mọc bừa bãi, cây thiếu phân, thiếu nước trông xơ xác, hoa không tươi tốt, lá vàng lẫn lộn với lá xanh. Những khóm hoa hồng vàng, trắng, đỏ, tím nhạt trước kia đẹp là thế, nay nhiều đoá đã rụng gần hết cánh trông thật thiểu não. Chú cũng không thèm cắt bỏ nó đi.

Hình như chú có điều gì suy nghĩ. Chú buồn buồn, và ít nói.

Cô mở cửa kính ra, một luồng gió mát đưa vào mang theo mùi hoa bưởi thơm ngát. Đàn chim sẻ giật mình bay vèo qua khỏi dãy hàng rào gỗ sơn trắng thấp lè tè.

Cô nhớ lại chuyến đi vừa rồi với chú Khê và ông Hoạt. Khởi đầu vui bao nhiêu thì kết thúc ngược lại hẳn. Mà lỗi cũng tại mình một phần, cô ngẫm nghĩ.

Thấy chú Khê và ông Hoạt thân thiết nhau đến thế, cô có cảm tình với ông Hoạt ngay. Từ cảm tình đến dễ dãi, khoảng cách không xa. Thêm vào đó, ông Hoạt lại ân cần và vồn vã đối với cô một cách thành thật và chu đáo đến độ như hai người đã quen biết nhau từ lâu.

Chiếc nón bay xa, chú Khê vội vàng chạy theo nhặt, chỉ còn hai người đứng bên bờ vực.

“Cô Thi. Trời nóng như đổ lửa, Thi có chịu nổi không?”

“Dạ, không sao. Mùa hè ở Sài Gòn có lúc cũng nóng như thế này. Cháu quen rồi. Nhưng chú nhường nón, cháu ngại quá. Lỡ chú bịnh, cháu không biết phải đền cho chú cái gì đây.”

Ông mở tròn mắt nhìn cô gái, vẻ mặt sung sướng. Vội vàng đáp:

“Thi lo cho tui bịnh hả? Bịnh sao nổi. Tui, trời đánh không chết. Nắng thế này nhằm nhò gì. Mà ‘chú cháu’, là Thi với chú Khê. Tui khác.”

Thi cười giòn:

“Dạ em, em biết chứ.”

Nói xong cô biết đã quá chiều ý ông Hoạt nên lỡ lời. Ông Hoạt không bỏ lỡ cơ hội, vội vàng:

“Em Thi của chú. Em của anh.”

Ông nắm lấy bàn tay của cô gái. Và nhanh như một người võ nghệ cao cường, ông xoay mình ôm chầm lấy cô. Thi hoảng hốt và cảm thấy yếu ớt như đứa bé trong đôi cánh tay rắn chắc càng lúc càng siết mạnh của ông Hoạt. Cô gái cảm thấy ngạt thở, gò má nhột nhạt vì những sợi râu lún phún trên cái hàm bạnh tàn bạo của ông. Đôi môi ông Hoạt dò dẫm tìm tòi. Thi muốn la to lên nhưng không dám. Sợ chú Khê nghe. Cô lấy hết sức đẩy mạnh ông ra xa. Ông bỡ ngỡ nhìn cô, nhưng vẫn giữ được bình tĩnh.

Cô vội cài cái nút áo trước ngực vừa bị sổ ra, tiện tay cài thêm chiếc nút nằm ngay trên đó mà cô thường để hở, và sửa lại hai vai áo cho thẳng thớm.

Cô sợ thì ít nhưng giận thì nhiều. Muốn hôn hả, thì cũng phải từ từ chứ. Bộ mình dễ lắm à, Thi thầm nghĩ. Tâm lý hạng bét! Cái thằng người Nga, hay Ukraine gì đó, có con vợ mặt dài như cái bị, khôn ngoan hơn nhiều. Như một tiền đạo chơi bóng đá lão luyện, nó biết khi nào thì tiến, khi nào thì lùi, khi nào thì lừa đảo, khi nào thì làm động tác giả, khi nào thì đột ngột dứt điểm, thế mà cũng chưa chọc được thủng lưới đối phương! Cô nghĩ rằng chú Khê có thể nghi ngờ điều gì đó giữa ông Hoạt và cô, nhưng chắc chắn chú không thể ngờ bạn chú lại hấp tấp và ẩu tả đến thế.

Trái lại chú Khê thì ù lỳ như trái cau điếc, cô mỉm cười ngẫm nghĩ.

Cô nhớ lần đầu tiên gặp ông Khê tại Sài Gòn. Đúng là con người nửa nạc nửa mỡ, nói vậy mà không phải vậy, không biết đâu mà lường. Cho nên cô tìm cách giăng bẩy. Ông như con mồi tinh khôn, bước vào rồi bước ra khỏi bẫy một cách ung dung. Những trò vờ vĩnh của cô ông đều biết rõ, và sẵn sàng cho cô đánh lừa để cho cô vui lòng. Cô cũng đủ thông minh biết rằng ông đã biết hết, cho nên cô bực tức mà không biết phải làm gì trước cảnh huống đó.

Cô không biết rõ những gì đã xẩy ra giữa ông và mẹ cô, nhưng cô có thể nắm chắc một điều là hai người đã yêu nhau tha thiết bằng một mối tình có chỗ bất thường, quái gở. Cô đã có lần tìm cách gợi lại chuyện cũ với bà dì ở Vàm Láng, mong bà có thể soi sáng cho cô được chút gì hay không. Bà chỉ lẩn thẩn đáp:

“Thằng Khê hả? Ôi, cái thằng bạc hãnh đó mà nhắc tới làm gì cho khổ thân hả Thủy.”

Bà cứ tưởng cô là mẹ cô.

“Cháu đây bà à. Cháu là Thi chứ không phải là mẹ cháu đâu!”

“A, a, Thi đó con? Con là con của con Thủy hả? Thiệt hôn?”

“Dạ. Con là Thi, mẹ con là Thủy.”

“Ừa, đúng rồi. Mà Thủy nè, đừng thèm thương thèm nhớ cái thằng người Trung cà chớn đó nữa Thủy ơi. Con đẹp mà. Con hô một tiếng là tụi nó chạy tới rần rần. Con cứ thương đại thằng nào khác cũng được. Nhớ cái thằng đó làm chi cho khổ cái thân con mà cũng khổ cái thân ba mày. Ba mày cũng bắt chước cái thằng quỷ sứ đó bỏ tao đi đâu mất tiêu. Thủy ơi…”

Cứ thế, bà dì có sẵn đà nói lầm bầm cả buổi, rồi khóc lóc, rồi nói tiếp, không còn để ý đến ai nữa.

Trong mấy tháng chờ đợi ngày lên đường đi Mỹ, cô bỗng nẩy ra cái ý về thăm Bến Tranh một lần nữa. Ừ, biết đâu mình sẽ tìm ra được cái gì liên quan đến mẹ và ổng để khi đến Mỹ có chuyện mà nói với ổng. Chắc ổng sẽ cảm động lắm. Ổng sẽ, sẽ, sẽ quý mình hơn. Rồi thành thói quen, cô về Bến Tranh nhiều lần, khi thì đi một mình, khi thì thuê bao một chiếc xe hơi ghé Vàm Láng mời bà dì và người làm cùng đi.

Có tiền trong tay, cô chi tiêu rộng rãi, như một Việt kiều về nước, thuê nhà ngủ ở lại, ghé những hàng quán ăn những món đặc sản địa phương, mướn thuyền đi những nơi mà ngày xưa, theo lời chú Khê kể lại, mẹ cô cùng chú đã đi qua. Bến Tranh trở nên quen thuộc dần. Người và nơi chốn nảy sinh ra tình quyến luyến nhau.

Ở Sài Gòn, những lúc chán nản không biết làm gì, cô tìm về Bến Tranh. Cô viết thư cho chú Khê biết như thế, và chú bảo chú rất hoan nghênh việc đó. Mỗi tuần cô đều viết cho chú Khê một lá thư.

Bây giờ sống bên nhau, cái nhìn của cô đối với ông Khê mỗi ngày một khác. Cuối cùng, từ ý đồ chinh phục ông để lợi dụng, cô mong được chiếm hữu chú như một khát khao. Nhiều khi cô dò hỏi lòng mình xem đó có phải là tình yêu hay không.

Một buổi tối sau khi cô học bài xong, ông cho cô xem bức thư đã lột sẵn.

Ngày… tháng…

“Khê thân,

“Toa bình tĩnh đọc lá thơ này nghe. Sau chuyến đi thăm toa, moa trở chứng. Như người mất hồn. Nhớ toa và nhớ nhỏ Thi nhiều lắm. Moa nhớ toa có tâm sự rằng toa sống với nhỏ như cặp vợ chồng giả, đủ ba năm cho hợp lệ, rồi nhỏ muốn lấy ai thì lấy. Moa cũng nhớ có lần moa nói với toa rằng moa sẽ không bao giờ lấy vợ nữa, nhưng khi gặp bé Thi moa đổi ý liền. Coup de foudre! Tuổi này mà còn coup de foudre thì cũng hơi trễ, nhưng anh em với nhau có gì moa nói nấy, không sợ toa cười đâu. Nếu được, sẽ cưới hỏi đàng hoàng chớ không phải cặp bồ cho vui mà thôi. Nghĩa là cũng phải nể toa chớ. Có điều là không biết nhỏ có chịu moa không, vì nhỏ còn nhỏ xíu mà mỏa thì tuổi gấp đôi là ít. Đừng bàn ra bàn vào gì cả, để nhỏ hoàn toàn tự do định đoạt. Về sau khỏi ai đổ hô ai cả.

“Mỏa cũng có ít nhiều kinh nghiệm về đàn bà. Có nhiều đứa muốn lấy chồng lớn tuổi hơn nhiều, không biết nhỏ có thuộc loại người này hay không. Lấy chồng già có tiền để vâng lời, để có người lo liệu mọi chuyện, còn mình chỉ có việc đi shopping mà xài tiền cho đã. Miễn là đừng cắm sừng là tao chịu. Như thế khỏi cãi lộn nhau cả ngày, khỏi ai làm khổ ai. Đó là chưa kể đàn bà mau già hơn chồng là một, chồng già thì cũng khỏi đi mèo là hai, và chuyện này thì moa nói nhỏ cho nghe thôi nhé, lớn tuổi như toa với moa thì cũng có nhiều kinh nghiệm đáng đồng tiền bát gạo lắm chớ bộ. Toa biết moa muốn nói gì rồi chớ. Toa hỏi dò xem thử nhỏ có chịu moa hay không. Nhưng làm cái kiểu đó mất ngày giờ lắm, mà moa thì sốt ruột. Hay là toa cứ đưa đại cái thơ này cho nhỏ coi cũng được. Thử co nhỏ phản ứng ra sao.

“Thăm toa, thăm nhỏ.”

Hoạt.

TB. Nếu toa cũng đổi ý như moa, nghĩa là nếu toa thích cưới nhỏ thiệt chớ không phải giả đò, thì toa cứ coi như không nhận được thơ này, và phải làm một bữa nhậu rùm beng kêu moa về với để chánh thức hoá bà xã trẻ và đẹp của toa. À còn chuyện này nữa, còn khoảng hai năm nữa mới hết thời hạn vợ chồng giả, nhưng nếu Thi bằng lòng thì nhỏ có thể cùng mỏa sống chung càng sớm càng tốt. Toa OK chứ?

Đọc xong thư, Thi ngồi yên, không ngạc nhiên lắm. Ông Khê mở lời:

“Chú chưa có ý kiến gì cả. Thi cứ từ từ suy nghĩ, rồi khi nào thấy tiện, trả lời cho chú biết.”

Nói xong, ông nắm lấy tay Thi chặt hơn, lâu hơn mọi ngày, rồi lẳng lặng trở về phòng.

Cô ngồi thừ tại chỗ một lúc lâu, lòng trống rỗng. Dần dần cô cố nhớ lại chuyện cũ. Thứ tự lẫn lộn. Những chuyện không đâu có khi lại hiện về rất rõ, những biến cố cô nghĩ là quan trọng có khi lại rối nùi, hoặc như lạc trong sương mù.

Cái ông Hoạt già dịch này! Tưởng là để ông đùa chút chơi cũng như mình muốn đùa ông một cách vô tư, té ra ông làm thiệt. Làm vợ ông ấy? Còn lâu! Bộ khùng sao, bộ hết đàn ông trên quả đất này chăng. Tương lai còn đang chờ mình, những con đường ở Mỹ rộng thênh thang và dài mút mắt đang chờ mình. Có phải không chú?

Nhưng sao chú đổi tính quá, không thoải mái như hồi gặp nhau ở Việt Nam. Chú càng giữ gìn, mình càng muốn sấn tới. Yêu, thích, hay tò mò? Hay vì lời hứa, vì ơn nghĩa? Hay chú có một hấp lực nào đó.

Ông thầy dạy tiếng Anh nói câu châm ngôn này của Mỹ, nó sai: “Vui thì người ta sẽ vui với, buồn sẽ buồn một mình.” Không, chú buồn mình càng muốn gần chú hơn — Cặp mắt rầu rĩ, đen tối, hoang mang, bất an, vô vọng. Tiếng nói thường uể oải, mệt mỏi. Dáng điệu thì ngập ngà ngập ngừng như luôn luôn sắp có điều gì muốn thổ lộ. Nhiều lúc trông chú như một người tuyệt vọng làm mình đau lòng. Làm mình muốn ôm chầm lấy chú hỏi cho ra lẽ. Tại sao vậy chú?

Lại nữa, chú từng nói mình không có ràng buộc gì với nhau cả. Sau ba năm chú sẽ “tháo cũi, sổ lồng” cho mình hoàn toàn tự do trên đất nước rất tự do này. Chú và cháu sẽ không sống bên nhau mãi mãi hay sao? Mình có thể sống một mình như hồi còn ở Việt Nam chăng?

Lại nghĩ đến ông Hoạt là mình đã muốn cười thành tiếng. Mình chỉ mới đùa chút chơi xem ông Hoạt có ù lỳ như chú hay không, bạn thân mà, phải giống nhau chớ, ông đã hấp tấp chộp lấy dịp may hiếm có. Thế ra hai người đàn ông thân thiết đó không nhất thiết phải giống nhau, ít nhất là đối với gái.

Hay là chú lại cái, gay, bất lực? Được rồi, hãy xem!

Bức thư của Hoạt làm ông nghĩ ngợi. Ông chờ hơn một tuần không thấy Thi trả lời. Có nghĩa là Thi đang phân vân suy tính? Nghĩa là Thi cũng có thể chấp thuận sự sai biệt lớn về tuổi tác? Mà tuổi của Hoạt và mình tương đương nhau. Vậy thì tuổi tác không phải là một trở ngại lớn lao nếu ông muốn đổi đám cưới giả thành đám cưới thật? Ông nghĩ đến Thủy, đến mối tình của ông và Thủy. Mối tình đau khổ đó luôn luôn ám ảnh ông mỗi khi ông có ý định yêu một người đàn bà nào khác.

Ý định yêu? Sao lại thế, yêu là yêu, chứ làm sao có chuyện ý định yêu, ông ngẫm nghĩ? Nghĩa là đúng ra mình chưa yêu người nào thật lòng ngoài Thủy.

Những gặp gỡ với nhiều người đàn bà trong mấy mươi năm trời không thể sánh được một chút nào với tình yêu của ông đối với Thủy. Đó chẳng qua là chuyện giải quyết sinh lý. Đói thì ăn, khát thì uống. Ăn uống nhiều đâm ra no và chán. Giá mình được một lần ngủ với Thủy, một lần thôi, có lẽ cái ám ảnh không rời đó có sẽ tan dần đi chăng? Đó chỉ là một câu hỏi không có câu trả lời.

Nay Thi giống Thủy quá mà! Con của em lại quá tự nhiên, bạo dạn, đến độ khiêu khích. Có phải không, Thi là Thủy của anh đã bớt đi gần ba mươi tuổi, như một người từ một chốn thần tiên nào, Thiên Thai chăng, nơi đó thời gian trôi đi rất chậm, nay trở về với trần thế gặp lại người xưa. Cái cám dỗ nơi cô gái nhiều lúc đè nặng trên ngực của ông làm ông nghẹt thở. Giá mình có ngủ một lần với Thủy! Thì bây giờ với Thi thì sao?

Những ngày gần đây, trong đêm khuya, ông thỉnh thoảng nghe những tiếng nghèn nghẹn từ phòng Thi vẳng qua. Đêm vừa rồi, ông quyết định ngồi dậy rời khỏi giường bước qua nghe ngóng. Cửa phòng Thi khép hờ, chỉ đẩy nhẹ là mở ra được ngay. Ánh điện từ cây đèn cạnh hàng rào của khu vườn nhỏ chiếu vào qua cánh cửa sổ để mở tạo nên một thứ ánh sáng mờ mờ trong căn phòng. Ông thấy Thi, không rõ lắm, nằm nghiêng, tóc xõa trên chiếc gối trắng và che hết khuôn mặt, một cánh tay trần đặt trên chiếc gối khác, và chiếc mền len mỏng gấp lại vắt ngang qua thân hình phập phồng mơ hồ theo nhịp thở. Ông nhìn hai bàn chân xinh xắn lộ ra ngoài ống quần ren vắt chéo lên nhau.

Ông đứng tần ngần nơi cánh cửa. Thì ra Thi nói mê trong giấc ngủ, ông nghe tiếng được tiếng mất. Ông ngạc nhiên khi nghe tên ông thường được nhắc đến. Lại có cả tiếng gọi mẹ, mẹ, rồi gọi Hoạt. Rồi im lặng. Ông định trở lại phòng mình thì thấy Thi trở mình quay mặt hướng về phía ông. Ông chột dạ đứng yên. Nếu Thi thức giấc ngay lúc ấy sẽ bắt gặp ông đang đứng ngây nhìn. Thi nói ú ớ tiếp những gì ông không nghe rõ, có nhắc tới tên một hòn đảo thì phải, và cả tên Bến Tranh thì phải. Rồi im lặng hẳn. Đứng chờ một lúc lâu, không còn thấy động tĩnh gì nữa, ông rón rén trở về phòng mình.

Ngày hôm sau, nhằm sáng chủ nhật, trong bữa ăn sáng mà ông đã phụ Thi làm cà phê, chế ấm trà, trong khi cô gái chiên lại thịt heo ướp muối với trứng gà. Cô làm thêm hai dĩa xà-lách nhỏ trộn dầu dấm, hành tây, cà chua, dưa leo.

“Lần này cháu chiên thịt heo thật lâu cho nó chảy hết mỡ và dòn lên như trong quán ăn Tây nhé.” Ông vui vẻ gợi chuyện. Thi ngước mắt nhìn ông, lặng lẽ mỉm cười.

“Có chuyện này lạ lạ chú nói cho Thi nghe đây. Độ này chú đêm nào cũng nằm mơ.”

“Ô,” cô gái vừa chắc lưỡi vừa reo to, “thế thì chú sung sướng quá.”

“Sung sướng? Tại sao?”

“Cháu muốn nói rằng như thế là chú được sống hai cuộc đời nhập lại làm một. Ban ngày đã sống, mà ngủ cũng sống. Chú sống gấp đôi người khác, thế có sướng hay không nào.”

“Còn tùy…”

“Chú vẫn thế,” Thi vội ngắt lời, “chú vẫn như cũ, cái gì cũng còn tùy, còn tùy. Y như hồi chú cháu mình gặp nhau lần đầu tại Sài Gòn.”

“Thế hả. Hồi đó chú phải tùy cháu chứ. Chú mà trái ý cháu là cháu ‘quạt’ ngay. Bây giờ thì cũng còn tùy giấc mơ nữa chứ. Mơ gặp toàn ác mộng thì sao. Có sung sướng được hay không?”

“Nhưng cháu biết không phải ác mộng. Là vì chú bảo chú sắp kể cho cháu nghe câu chuyện lạ lạ, chứ có phải là chuyện gì đáng sợ đâu.”

“Thi thông minh và nhớ dai lắm. Không phải chỉ lần này mà thôi đâu. Chú vô tình nói cái gì đó, Thi đã nhớ ngay.”

Cô gái cười duyên:

“Hôm nay chú ăn phải cái gì mà lại biết khen cháu vậy? Mọi khi chú lơ đãng lắm! Bây giờ trở lại giấc mơ của chú đi, chú nằm mơ thấy gì? Có mơ thấy cháu không?”

“Không. Hồi hôm chú mơ thấy chú Hoạt.”

Thi im lặng ngẫm nghĩ rồi nói:

“Cũng phải thôi. Thân nhau, nghĩ đến nhau, đêm nằm mơ thấy nhau cũng là chuyện thường.”

“Chú mơ thấy Bến Tranh nữa!”

Thi đứng dậy đi lấy nước cho vào ấm rồi đến lò ga bắc lên để pha trà. Dáng đi của cô gái nhẹ nhàng, tha thướt, uốn éo.

“Thi đi trông giống như mấy cô thi hoa hậu trên T.V.”

Cô đỏ mặt:

“Trật. Muốn giống để hôm nào cháu mang giày gót thật cao đi là giống ngay. Đi dép Nhật như thế này cháu trông giống con vịt thì có.”

“Lại đến phiên Thi trật. Giống con thiên nga chứ!”

Thi nói trong tiếng thở dài:

“Con thiên nga từ Việt Nam bay qua đây ngủ quên trong vườn của chú cả năm trời rồi đó.”

Ông kín đáo liếc nhìn cô gái, lòng bồi hồi. Bỗng như sực nhờ, ông đột ngột hỏi:

“À mà này, cháu thì sao? Cháu có thường nằm mơ hay không?”

“Không bao giờ. Cháu lên giường ngủ là ngủ như chết cho đến sáng.”

Nói xong Thi ngâm khe khẽ:

Nó ngủ nó ngáy tì tì

Một giấc đến sáng còn gì là xuân!

Chị em ơi, hoa nở mấy lần…

“Thơ thẩn gì mà ghê vậy.”

“Ghê chứ sao không ghê! Ca dao mà. Hồi cháu còn ở đảo có ông thầy dạy Việt văn học trò bọn cháu đặt tên ông là ông thầy ba lăm. Ông dạy loại thơ đó nhiều lắm. Cháu nhớ bài đó nguyên bài.”

Ông châm thêm trà vào hai cái tách, nhìn chăm chăm vào đôi “mắt phượng” và chậm rãi nói từng tiếng:

“Cháu nói thế chứ cháu vẫn nằm mơ đấy.”

“Sao chú biết?”

“Cháu nói trong mơ.”

“Vô lý. Cháu nói trong mơ mà chú nghe được!”

“Chú muốn nói là cháu nói mê, nôm na gọi là mớ.”

Thi chau mày suy nghĩ:

“A, có lẽ cháu bị mộc đè. Cháu hay bị mộc đè lắm.”

“Nghĩa là gì?”

“Mình nằm trên ván ngựa có khi bị mộc đè thở không được, nói ú ớ.”

“Nhà mình đâu có ván ngựa.”

“Nói là nói thế thôi, hễ nói mê sảng trong giấc ngủ cứ cho là bị mộc đè, bị bóng đè. Đôi khi mình vô ý để bàn tay trên ngực bên trái phía trái tim cũng không thở được như bị mộc đè. Có lẽ cháu phải nói lớn lắm, cháu phải hét to, cho nên chú đang nằm ngủ bên phòng của chú mà chú vẫn nghe được. Vô lý là chỗ đó.”

“Không phải vậy. Chú chạy qua phòng Thi mà. Nghe có tiếng gì là lạ bên phòng cháu, chú vội chạy qua, thấy cháu đang ú ớ.”

Thi cười vang:

“Ô, thế thì nguy quá, bị lộ cả bí mật quân sự rồi. Vậy cháu nói những gì nào? “

“Nhưng để chú hỏi cái này trước đã. Biết chú qua sao cháu cứ vờ ngủ say?”

“Không dám đâu! Nghèo mà ham! Cháu chả vờ vĩnh gì cả. Cháu ngủ như chết. Nói trong giấc mơ tức là ngủ, chứ sao lại vờ. Đúng không?”

“Đúng! Cháu vừa hỏi cháu nói những gì hả? Cháu hay nhắc đến tên chú Hoạt.”

Thi lại cười ngặt nghẽo, ôm cả bụng mà cười. Ông chen vào:

“Mình thường nhắc tên người nào trong giấc ngủ có nghĩa là mình hoặc ghét người đó, hoặc thương người đó lắm. Vậy thì thương hay ghét?”

“Thương. Yêu nữa!”

“Chú báo tin mừng ấy cho chú Hoạt biết nhé.”

“Thì chú cứ báo tin đó đi, cháu đâu có sợ. Mà tình yêu có thể đo lường được không hả chú.”

“Chuyện đó chú mù tịt.”

“Ví dụ đo được đi, thế thì cháu yêu chú ấy chỉ bằng… Không, không bằng chút nào cả nếu so với…”

Ông ngại ngùng. Như không muốn nghe tiếp, ông nắm chặt lấy hai bàn tay của cô gái, nâng lên nửa chừng rồi dừng lại, và nói rất khẽ:

“Rời Grand Canyon đã hơn một tuần rồi mà hai bàn tay của Thi vẫn còn rám nắng.”

(Còn tiếp)

bài đã đăng của Ngự Thuyết

Phần Góp Ý/Bình Luận


Xin vui lòng bày tỏ trách nhiệm và sự tương kính trong việc sử dụng ngôn ngữ khi đóng góp ý kiến. Da Màu dành quyền từ chối những ý kiến cực đoan, thiếu tôn trọng bạn đọc hoặc không sử dụng email thật. Chúng tôi sẽ liên lạc trực tiếp với tác giả nếu ý kiến cần được biên tập.

Lưu ý: Xin vui lòng bỏ dấu tiếng Việt để giúp tránh những hiểu lầm đáng tiếc từ độc giả trong việc diễn dịch ý kiến đóng góp. Bài không bỏ dấu sẽ không được hiển thị. Xin chân thành cám ơn.

@2006-2025 damau.org ♦ Tạp Chí Văn Chương Da Màu
Log in | Entries (RSS) | Comments (RSS)